Phần 2:

Tội nhiều nhưng chưa lần nào gây án mạng, Khoái "đù" chỉ phải quay lại Trại Phú Sơn với bản án 10 năm tù. Lúc đó, Lê Thị Thu mới nhận ra chồng mình không hề hoàn lương như đã hứa. Trong tù, vừa hay tin vợ sinh con trai chưa lâu, Khoái đã đau đớn nghe người ta bàn tán lọt vào tù chuyện vợ mình có người đàn ông khác tên là Phan Đức Hạnh, bộ đội phục viên. Đơn ly dị do Thu đưa vào tận tù yêu cầu ký xác nhận tất cả. Ghen tuông khiến bản chất hoang dã quay trở lại. Một đêm mưa như trút, gã lại bẻ song sắt vượt trại. Trước đó, từ trong tù, gã đã nhắn đàn em tìm sẵn cho mình một khẩu K59 và mấy kẹp đạn. Dù biết đang bị truy đuổi ráo riết, con thú dữ sổng chuồng vẫn bất chấp, lao ngay về căn nhà nhỏ ven đồi với một dự định tàn bạo.

Qua liếp cửa, gã trông rõ mồn một cảnh Hạnh đang vác đứa bé oặt oẹo khóc ngằn ngặt trên vai, còn Thu cuống quýt pha thuốc, chườm khăn. Lúc Khoái đạp cửa xông vào thì đứa trẻ bất ngờ lên cơn co giật. Cô vợ lao đến, chắn ngang trước mũi súng, thét lên: "Nó đang sốt, anh không bắn nó cũng chết. Con anh đó, cứ bắn!". Đúng lúc đó, chó sủa inh ỏi, tiếng chân người rầm rập… Lao mình qua cửa sổ, Khoái kịp biến mình vào đêm, trước khi những bước chân truy đuổi của Công an kịp tiến vào nhà.

Đêm sau, dù biết vòng vây Công an đang khép chặt, Khoái vẫn rình rập quanh nhà chờ cơ hội. Đánh hơi thấy tổ phục kích của Công an đang siết chặt vòng vây, gã khôn ngoan bẻ vẹt một dãy rào bên bờ đất đánh lạc hướng, còn mình thì leo lên ngọn cây phi lao khá rậm trốn, tay lăm lăm khẩu súng. Đêm đó trời tạnh ráo, trăng sáng vằng vặc, mọi động tĩnh bên dưới Khoái trông rõ, nghe rõ mồn một.

Trong nhà vừa có thêm mẹ đẻ của Thu đến thăm con. Suốt đêm, đèn nhà gã vẫn sáng, tiếng nói chuyện rì rậm pha lẫn tiếng đứa bé cứ khóc giãy từng cơn. Nghe lõm bõm, vừa nghe vừa đoán, Khoái lờ mờ hiểu ra sự thật. Đứa bé đích thực là con của gã. Khi mang bầu, một thân một mình xoay sở không ra, vợ gã đau ốm liên tục nên đứa bé sinh ra cũng dặt dẹo. Tất cả những khó khăn ấy, chỉ duy nhất mình anh bộ đội phục viên chia sẻ cùng Thu. Cảm nghĩa, trong khi lại tuyệt vọng vì bị chồng lừa dối, Thu đã thật sự muốn làm lại cuộc đời với Hạnh. Mấy đêm liền, đứa bé sốt cao, Hạnh chỉ sang nhà phụ giúp chăm sóc đứa bé, con của Khoái và Thu. Cảnh tượng quá gần gũi, ân tình mà gã chứng kiến hoá ra lại đánh lừa, khiến cơn ghen biến thành cuồng loạn suýt gây tội ác!

Mờ sáng, tổ mai phục rút, Khoái đút súng vào bụng và lách vào nhà. Trước cái nhìn khiếp hãi của ba người lớn và tiếng khóc ngặt của đứa con đẻ, gã chính thức tuyên bố đồng ý ly dị để Thu lấy Hạnh. Dù sao án của gã cũng còn dài!

Chuyện chưa kịp nở, Khoái đã vội lăn tròn vào gầm giường trong buồng rút súng lên đạn. Một anh Thượng sĩ Công an tên là Bái "xồm", cán bộ trực của Trại Phú Sơn dắt xe đạp vào sân. Nhẩn nha chào hỏi, Bái nói với mẹ vợ của Khoái: "Mấy hôm mệt quá, nước cũng không kịp uống, u cho con ấm chè uống cho tỉnh". Chừng đã hài lòng với tuần chè, Bái thủng thẳng nói vọng vào: "Ra uống chè, trốn làm gì trong đó cho muỗi mòng, anh Khoái. Phải bắt anh, tôi thừa sức gọi anh em đến lâu rồi".

Tự ái giang hồ trỗi lên, Khoái "đù" bò ra ngay. Sau chừng 30 phút, Khoái im lặng móc súng đạn đặt lên bàn, sau đó ngoan ngoãn trèo lên yên sau xe đạp để Bái lóc cóc chở về trại giam nộp mình. Khoái chìa tay ra chịu còng, Bái cười: "Đường đồi lóc xóc thế này, còng tay anh tôi chở thế nào được. Ngồi ôm bụng tôi cho chặt, không lại ngã giập mặt đấy!".

Bị ông Giám thị Nguyễn Bá Tơ quát vì tội chủ quan, manh động, bắt tù, thu súng một mình, dẫn giải lại không trói, Bái cười: "Tôi xin chịu kỷ luật. Trừng trị cũng chỉ để giáo dục. Người ta đã tự nguyện giơ tay cho bắt thì còn còng với trói làm gì?".

Tung hoành một thuở, Khoái ngang tàng chưa phục ai. Nhưng khi biết được chuyện này (do chính Giám thị Nguyễn Bá Tơ cho biết), gã đã im lặng cúi đầu. Kể từ đó, sau 14 lần đào thoát, hàng chục lần dự định nhưng bất thành, tổng cộng 41 lần, "vua trốn tù" đã chấp nhận khoanh tay, cúi đầu mà cải tạo, không gây thêm một vụ trốn tù nào nữa. Ngày 25/5/1988, Khoái được rời Trại Phú Sơn bằng cửa chính, mãn án trước 3 năm rưỡi.

Về quê thì hổ thẹn, biết phong trào làm vàng đang rộ, Khoái vẫy nhờ xe lâm sản tìm đường lên Võ Nhai. Chợt nhận ra mình vẫn mặc áo tù, vào cơ quan nhà nước thì… khó coi, Khoái cởi đồ sọc nhét vào ô thông gió trên tường rào, mặc… may ô quần cộc cứ thế bước vào UBND huyện trình giấy tha tù, xin được cấp các loại giấy tờ. Tình cờ, Chủ tịch huyện lúc đó lại là ông Đàm Thanh Nghị, một người quen cũ khi còn trong bộ đội. Tuy đã mấy chục năm, ông Nghị vẫn nhận ra, bèn đưa Khoái về nhà, sau đó gọi điện thoại cho Phó Công an huyện Bùi Công Thành, một người Khoái cũng từng quen đến. Lưu Khoái lại chơi mấy hôm, mua quần áo, lo giúp hoàn tất giấy tờ xong, hai ông Nghị và Thành còn mỗi người cho Khoái một ba lô gạo, dăm chục viên đã lửa và một ít tiền lộ phí để gã bắt đầu lập nghiệp.

Cắt rừng, Khoái đi lọ mọ cả đêm. Rạng sáng của ngày đầu tiên đặt chân vào vùng vàng xã Thần Sa, Khoái đã bị 5 thằng oắt con lù lù lao ra chặn đường. Một thằng hỏi: "Mang gì mà những hai ba lô, nặng thế? Để lại một cái đi cho nó nhẹ?". Khoái hạ ba lô, dấm dẳn: "Chẳng có gì, chỉ toàn vàng. Thích thì lại mà lấy!". Chưa kịp sờ tay vào quai ba lô, 5 thằng oắt đã bị Khoái đá lộn nhào, văng mỗi đưa một nơi. Sau khi sưng mặt sưng mày, đám cô hồn mới nhận ra Khoái cao hơn nhiều so vơi thân hình thước rưỡi, rối rít xin tha và nằng nặc mời… chú về lán nghỉ ngơi. Sau 6 lần được (hoặc bị) "trước đòi sau mời" tương tự, Khoái mới vào đến nơi chọn đất cắm trại, bắt đầu đào bới.

Hồi còn học ở Đông Triều, Khoái thường lục lọi, đọc hết sách chuyên môn của Lê Bá Dân, một Dũng sĩ miền Nam ra Bắc theo học ngành địa chất. Dân đi thực tập, Khoái cũng đi theo suốt mấy tháng hè. Bao nhiêu kiến thức học mót từ bạn, Khoái cố nhớ kỳ hết để áp dụng vào công cuộc tìm vàng. Hai ba lô gạo ăn hết nhẵn, vàng đâu không thấy, vẫn chỉ thấy vàng mắt. Hết tiền, nhưng ai đến đề nghị bán bãi, Khoái cũng lắc đầu. Dăm ba tay bặm trợn coi thường kẻ tứ cố vô thân, kéo cả đám đến đuổi người chiếm bãi đều bị Khoái đánh bật. Nổi tiếng vì không một lần thua, Khoái được hàng chục thanh niên làm thuê đến xin đầu quân, ăn chia khi có vàng.

Tốp thợ mới đến xin thử thời vận thì tốp cũ bỏ đi, vì đói rạc. Thợ của Khoái đều là những tay lỡ vận, không vốn liếng, những kẻ mới được tha tù, không nơi nương tựa. Ở Thần Sa, vàng thì còn lúc có lúc không nhưng kẻ cướp, bọn đầu bò đầu bướu thì không cần tìm cũng cứ gặp nhan nhản. Đám này chỉ rình rập để thu phí bảo kê hoặc trấn cướp. Chủ hầm chủ bưởng hầu như đều ngoan ngoãn "cúng dường", nếu không muốn phải đụng độ đổ máu…