CỜ VÂY TRONG THƠ VĂN CỔ ĐIỂN TRUNG QUỐC

Phần lớn các văn nhân cổ đại đều thích đánh cờ, vậy có thơ viết rằng: ''Hữu ước bất lai quá dạ bán, nhân xê kì tử lạc đăng hoa". Ban Cố biên soạn cuốn Dịch chỉ, Đỗ Phủ với Dương thị phu nhân ngồi đối toạ qua bàn cờ, Ngô Thừa Ân nhờ kết giao với hai danh thủ quốc gia thời đó là Bào Nhất Trung và Lý Phủ đã viết nên bài thơ vịnh cờ dài nhất thời cổ đại Trung Quốc.

Câu chuyện truyền kì Cầu Nhiêm khách truyện của Trương Thuyết thời Đường đã miêu tả một cách sinh động câu chuyện Cầu Công đấu cờ với Lí Thế Dân. Cầu Công có âm mưu làm chủ thiên hạ nhưng qua cuộc "thủ đàm'' (đấu cờ) này, ông nhận thấy Lí Thế Dân là con người có tài năng phi phàm, nên đã từ bỏ ý định ban đầu. Câu chuyện khó tránh khỏi những điểm khoa trương nhưng qua đây có thể rút được một ý nghĩa tinh tuý như sau: Bàn cờ cỏn con thực sự giống như sa trường vạn dặm. Người Minh từng cải biên câu chuyện này thành vở kịch Hồng phất ký.

Các nhà chiến lược học đánh cờ có lợi cho việc điều khiển chiến tranh, người dân thường thì lại có thể tu tâm dưỡng tính. Trong cuốn Thuật dị ký của Lương Nhậm Phưởng có ghi một truyền thuyết như sau: Một người tiều phu tên là Vương Chất lên núi Thạch Kiều đốn củi gặp hai đồng tử đang chơi cờ, ông theo dõi say mê quên cả quay về; đến khi ông quay về thì cán rìu đã mục, và những người đồng lứa với ông chỉ còn duy nhất mình ông. Hậu nhân thường lấy Lạn kha sơn để vịnh câu chuyện này. Như thơ của Đường Mạnh Giao viết: ''Tiên giới nhất nhật nội, nhân gian thiên tuế cùng. Song kỳ vị biên cục, vạn ban giác vi không. Tiều khách vấn quy lộ, phủ kha lạn tòng phong. Duy dư Thạch Kiều tại, độc tư lăng đan hồng". Hay như bài Đề Vương Chất lạn kha đồ của Từ Văn Trường thời nhà Minh: "Nhàn khán sổ trước lan tiều kha, gián thảo nhàn hoa nhất sa na. Ngũ bách niên lai kỳ nhất cục, tiên gia tuế nguyệt dã vô đa".

Người ta có thể ngộ ra nhiều triết lí sống từ những cuộc cờ Vây. Đại thi hào Bạch Cư Dị là một người say cờ, trong bài Phóng ngôn ngũ thủ chi nhị, ông đã mượn cờ để nói về thời thế như sau: "Thế đồ dĩ phục đô vô địch, trân cương khiên triền tốt vị hưu. Hoạ phúc hồi hoàn xa chuyển cốc, vinh khô phản phục thủ tàng câu. Quy linh vị miễn khô trường hoạn, mã thất ứng vô chiết túc ưu. Bất tín quân khán dịch kỳ giả, thân dinh tu đãi cục chung đầu". Nối liền bài thơ này với bài Phóng ngôn ngũ thử chi tam thì chủ đề chính của nó là: "Thử ngọc yếu thiêu tam nhật mãn, biện tài tu đãi thất niên kỳ" (Muốn thử ngọc phải đốt trong ba ngày, còn muốn rõ tài thì phải đợi bảy năm). Thế cờ và thế thời, nhận biết thế cờ với nhân tài, đều phải qua sự thử nghiệm của thời gian, của thực tiễn. Ngô Thừa Ân cũng là người mê chơi cờ. Trong tác phẩm Tây du kí của ông có rất nhiều đoạn mô tả thế cờ. Trong lời đề tựa viết cho bài Chư hầu tướng lược của Lưu Kỷ, ông viết: "Phu binh gia chi pháp, do dịch chỉ y kinh, nhĩ sử thị sở tải, tắc kỳ chi thế, dược chi phương dã. Dược bất tất chấp phương, nhĩ diệu vu xứ phương giả tất hiệu, kỳ bất tất câu thế, nhĩ diệu vô dụng thế giả tất dinh...". Quả thực từ binh pháp, y thuật, kỳ đạo cho đến mọi công việc đều tối kị giới hạn trong một "định thức" (công thức nhất định), khư khư giữ khuôn phép cũ.

Thơ văn vịnh cờ cổ điển Trung Quốc có thể nói là một đoá hoa trong vườn hoa nghệ thuật, nhưng nằm rải rác trong kinh, sử, từ, tập và địa phương chí. Những tài liệu này hiện chưa được sưu tầm một cách hoàn chỉnh. Mấy năm gần đây, trong tác phẩm Cờ Vây do Lưu Thiên Phủ chủ biên cũng đã đề cập đến vấn đề này.