Kết quả 921 đến 930 của 1510
Chủ đề: Cà phê Đen
-
24-10-2013, 02:29 PM #921
Hi hi, em nhầm, sorry bác Lâm nhe.
.
Vẫn còn thức hả bác. Làm chung rượu chat rồi vỗ giấc để sáng ngày đi bộ với con cún nhe bác.Cầm lên được tất bỏ xuống đươc.
-
Post Thanks / Like - 6 Thích, 0 Không thích
-
24-10-2013, 07:59 PM #922
Bâc Lâm nói chính xác nền văn minh phương tây, Pháp, Tây Ban Nha, Anh Quốc, Bồ là những nước sau cuộc thập tự chinh khoa học phát triển, sau đó họ cần nhân công và vật liệu đóng tàu đi tìm các miền đất khác tìm kiêm nhân công cà vật liệu, Pháp ở Việt Nam 80 năm họ đã xây được các nhà máy điện, đường xá. đến bây giờ vẫn đang được sử dụng.
khác với Trung Hoa tại sao dân số họ đông đên vậy bì khởi đế chế Hán xâm phạm các miền đất khác bằng con đường đồng hóa.
Trước đây em rất nhiều cơ hội di trú qua Châu âu bằng con đường học hành, nhưng tiếc là bản thân ưa nhàn tản, hoàn cảnh gia đình quá ít người ở Việt Nam. mấy anh em em gái lấy chồng xa lắc xa lơ, thằng em thì đang ở Nhật, nên bây giờ vẫn bằng lòng với những gì mình chọn.
Thời đó cũng nghĩ lung lắm, Mỹ, Châu âu là các nước họ quá phát triển rồi, quá nhiều nhân tài, tài sản của họ là cho con cháu họ, mình qua đó không đóng góp được gì cũng ái ngại!
-
Post Thanks / Like - 5 Thích, 0 Không thích
-
24-10-2013, 09:24 PM #923
Cõi già nơi xứ lạ
Hehe .Nhưng mà cũng tùy ông Tab ơi,có lúc sướng ,lúc khổ ,biết đâu mà lần có bài này của nhà văn trẻ phản ánh thú vị lắm
Người Việt có một câu nói: Mỹ là thiên đường giới trẻ, địa ngục giới già. Nay tôi đã vào cái tuổi giữa 70, câu nói này thật là thấm thía. Mỹ có tất cả những sản phẩm dành cho thanh thiếu nhi: đồ chơi, phim ảnh, máy chơi điện tử thính thị, khu giải trí có chủ đề (theme parks). Còn đối với người già, thì chỉ có sự cô lập và nỗi cô đơn.
Căn bản nếp sống của người Việt dựa vào gia đình, cộng đồng, và khi ta mất những cái đó, ta mất đi một phần lớn cái tôi. Khi còn sống ở Việt Nam, tôi không bao giờ nghĩ đến việc sinh sống tại một nơi nào khác ngoài quê hương. Ta sống và chết nơi tiền nhân đã sống và đã chết. Ta có thân nhân, giòng họ; ta có gia đình, có những miếu đền.
Một khi ta đã quen miền đất với mồ mả tổ tiên, ta sẽ không còn sợ tử thần và cái chết. Nhưng tại Mỹ, lối sống cũ của chúng ta không còn nữa. Chúng ta bị buộc phải ra đi khi cuộc chiến kết thúc vào năm 1975, và chúng ta đã sống xa xứ từ lúc đó. Ngày nay, bạn bè và thân nhân của chúng ta tản mạn khắp nơi trên thế giới.
Tại Mỹ, càng già càng mất mát nhiều – bạn bè, thân nhân, trí nhớ, khả năng di chuyển, và ý nghĩ của chính mình. Chuông điện thoại kêu. Tôi nhấc ống máy. Đây là bà tên-này-tên-nọ ở Los Angeles. Bà mắc bệnh tiểu đường và mới bị cưa chân. Rồi chuông điện thoại lại reo nữa: Ông tên-ni-tên-nớ ở Georgia bị ung thư phổi, chỉ còn sống khoảng vài tháng. Ở Việt nam, chúng tôi đều là bạn thân. Nhưng với cái tuổi đời chồng chất như tôi, tôi làm sao đến thăm họ được khi họ hàng ngàn cây số cách xa? Làm sao ta tưởng tượng được đến việc gọi điện thoại cho người bạn thân khi họ nằm chờ chết trong bệnh viện, để nói lời xin lỗi là không thể tận mình đến viếng thăm được lần cuối. Ấy vậy, tôi làm điều này mỗi tháng, buồn lắm.
Tôi và chồng tôi, chúng tôi dự định đi một chuyến du lịch Âu châu vào kỳ hè tới đây. Chuyến đi này là chuyến đi cuối cùng, để nói lời giã biệt thân nhân bè bạn. Chúng tôi biết là sau chuyến đi này, chúng tôi sẽ không đi đây đi đó được nữa vì sức khỏe đã kém, sẽ không thấy mặt họ nữa. Tôi gần như không bước xuống được cầu thang nhà vì đầu gối chân rất đau. Nhà thì đã bán, giờ thì chúng tôi ở trong một chung cư có thang máy vì đó là điều kiện duy nhất mà chúng tôi có thể sống độc lập không nhờ vả đến ai bây giờ.
Điều mà tôi quan tâm nhất là trí nhớ suy sụp rất nhiều. Tôi là người giữ gia phả của giòng họ, nhưng tất cả đều nằm ở trong đầu. Biết ai liên quan với ai như thế nào trong họ là nghề đặc biệt của tôi, người con gái trưởng trong nhà. Nhưng không một đứa con nào của tôi biết được những mối dây liên hệ gia đình trong gia tộc, ngay cả đến những người em của chính tôi. Không có tôi, họ hàng thân thích sẽ trở thành kẻ xa lạ nếu tình cờ gặp nhau trên đường phố. Tôi có thể nhớ đến được những bà con cô dì chú bác ba đời của gia đình bên tôi và của cả bên chồng. Tôi phải viết xuống trước khi trí nhớ tôi lụt hết.
Thỉnh thoảng vào buổi sáng khi thức dậy, tôi lặng nhìn cây cối ngoài phố và tự hỏi tôi đang ở nơi nào. Đôi lúc, tôi đi sang khu chung cư kế cận, nơi có một số mèo hoang, và cho chúng ăn những thức ăn thừa. Khi tôi cất tiếng gọi, chúng nhận ra giọng nói của tôi và đổ xô lại. Bây giờ, chúng là những niềm vui nhỏ của tôi.
Đương nhiên những ngày hạnh phúc nhất là những ngày con cháu đến thăm. Nhưng chúng cũng có đời sống riêng, thỉnh thoảng chỉ đến chơi được một lúc rồi về, tôi làm gì cho hết những khoảng thì giờ trống trải sau đó?
Mẹ tôi, bà mất năm bà 97 tuổi, và mẹ chồng tôi, qua đời lúc 95 tuổi; cả hai người có sống chung trong một khu dưỡng lão nhiều năm. Tôi thường đi xe buýt đến thăm hai bà mỗi ngày, ngay cả khi còn đi làm. Từ lúc đó tôi đã biết cái thảm não của người già trên đất Mỹ, ngay khi tôi còn trẻ trung mạnh khỏe. Các nhân viên điều dưỡng ở đó thường nói với tôi là hai bà có phước lắm, thường có được con cháu đến thăm. Tôi trả lời: “Đó là lối sống của người Việt Nam”. Còn những người già khác, con cháu họ ít đến. Tôi có nhớ một số bà lão, ngồi trên những chiếc xe đẩy, ngóng trông con cháu hay người thân, ngày này qua ngày khác, nhưng chẳng thấy ai. Có cả một bà cụ, cụ còn sống lâu hơn những người con trai; mỗi ngày bà vẫn ngồi chờ trông mong hình ảnh người con trai bước qua khung cửa. Thật tội nghiệp khi người ta sống dai như vậy trong sự cô đơn!
Ở xứ Mỹ này, tuổi già đúng là tuổi lỡ thời; cả hai đều không được người ta kính nể hay cho một chút gì quan trọng. Ở quê nhà, các ông già bà lão thì được nể vì nhất, vì họ là những người chia xẻ túi khôn cùng kinh nghiệm cho những người đi sau. Điều đó không có ở đây. Không ai muốn nghe tiếng nói của người già. Họ cảm thấy bị cô lập ngoài vòng ranh giới của con cháu Mỹ hóa của họ. Chúng cười vang về nhiều thứ mà tôi không hoàn toàn hiểu được. Mỹ đúng là một quốc gia của giới trẻ hơn là giới già như tôi.
Vào những buổi chiều mùa đông, tôi ngồi nhìn những hàng cây trơ trụi lá, tâm hồn lạc lõng. Tôi nghĩ về cái thế giới mà tôi đã biết, nay đã bay xa, như làn khói hương trầm. Tôi nghĩ đến cố hương, đến những mùa lễ Tết ở Saigon, đến những đám cưới, đám hỏi, đến những chuyến du lịch, những lần tíu tít họp mặt gia đình, ai ai cũng có mặt, con nít chạy quanh, người lớn ngồi nói chuyện đời chuyện gẫu, đàn bà con gái quây quần chung lo việc bếp nước. Và tôi cảm thấy rất khao khát những ngày quá khứ xa xưa.
Andrew Lâm (Aging in a Foreign Land)
-
Post Thanks / Like - 7 Thích, 0 Không thích
-
24-10-2013, 09:47 PM #924
Nhưng rồi ai cũng phải tự mình bơi trong dòng vô tận thôi. Chẳng theo được ai và cũng chẳng ai theo mình.
Bận lòng chi nắm bắt
-
Post Thanks / Like - 5 Thích, 0 Không thích
-
26-10-2013, 02:06 PM #925
Hơ hơ, sau khi update thì mấy bài com. cuối bị mất rồi. Không sao, ghi lại mấy hồi.
@ Alent, mình có người quen sẽ đi tham quan viết bài về sinh hoạt của Sapa cho nên tính hỏi các anh chị em có ai biết di chuyển từ Hà Nội lên Sapa bằng cách nào tiên lợi và... rẻ tiền nhất. Chỉ hỏi về phương tiện giao thông thôi. Khách sạn trên đó thì nghe nói đã đặt rồi.
Mình lúc nào có dịp ra Hà Nội sẽ ới bạn hiền làm 3 ván cờ ĐỘ đó nghen. Sợ chưa.
Cầm lên được tất bỏ xuống đươc.
-
Post Thanks / Like - 2 Thích, 0 Không thích
-
26-10-2013, 05:11 PM #926
Sư phụ ơi bản rain tear quật 1 lượt 6 dòng rồi chơi lộn lại từ đầu hã?
Trời cho bao năm để rong chơi...?
Đến khi gặp người, chân rã rời...!
-
Post Thanks / Like - 2 Thích, 0 Không thích
-
26-10-2013, 06:34 PM #927
Hehe ông nhachoa học nhạc ở đâu mà thầy giáo chẳng dậy nhạc lí gì hết .Đánh lần thứ nhất tới hết dòng 5 có dấu ba chấm dọc cuối trường canh có nghĩa là quay lại từ đầu sau đó lần 2 đánh hết sáu dòng để kết thúc.Ông đã bao lần dùng lời ong buớm mê hoặc gái nay xin tặng ông bài này
Đúng 40 năm sau ngày ra đời (1973-2013), ca khúc tiếng Pháp vừa được tái bản với lối hòa âm mới và được phát hành nhân 25 năm ngày giỗ của Dalida, trên bộ toàn tập Les Diamants sont éternels (Kim cương ngời sáng muôn thuở), bao gồm tổng cộng là 25 cuộn CD. Bản nhạc tiếng Ý với tựa đề nguyên gốc là Parole Parole đã được phát hành vào năm 1972.
Nhạc sĩ Gianni Ferrio là người đã soạn ra giai điệu bài hát, còn lời ca là của hai tác giả Leo Chiosso và Giancarlo Del Re. Cả ba gương mặt này làm việc chung với nhau, hợp tác sản xuất chương trình ca nhạc nổi truyền hình quốc gia Ý (RAI). Được phát sóng lần đầu tiên vào năm 1964, nhưng Teatro Dieci không đủ ăn khách để trở thành một điểm hẹn hàng tuần với khán thính giả.
Sau nhiều lần bị gián đoạn, chương trình này chính thức kết thúc vào tháng Tư năm 1972. Chính trong cái bối cảnh đó mà nhóm sáng tác Ferrio – Chiosso – Del Re mới soạn nhạc phẩm Parole Parole cho nữ danh ca Mina và Alberto Lupo, một nam diễn viên nổi tiếng của làng điện ảnh truyền hình thời bấy giờ. Nhờ vào bản song ca mà chương trình Teatro Dieci kết thúc một cách rực rỡ, sự nghiệp ca hát của Mina cũng tăng thêm một bậc. Bản song ca trở thành tình khúc ăn khách nhất nước Ý mùa hè năm 1972.
Đến tháng 10 năm 1972, Dalida quyết định ghi âm bài này trong tiếng Pháp. Tác giả Jacqueline Misrahi, cũng xuất thân từ một gia đình gốc Ý sinh trưởng tại Ai Cập như Dalida, mới chấp bút soạn lời gần sát với nguyên tác tiếng Ý. Câu hỏi đặt ra vào lúc đó là người đàn ông nào sẽ ghi âm bài hát tiếng Pháp với Dalida ?
Các nhà sản xuất mới nghĩ tới một số nam diễn viên trứ danh. Dalida thì nhất quyết muốn ghi âm bài này với Alain Delon, ngôi sao màn bạc Pháp nổi tiếng nhất trên thế giới thời bấy giờ. Trong giới sản xuất, không ai tin rằng Alain Delon sẽ nhận lời, trước hết là vấn đề thù lao, kế đến nữa là lịch làm việc.
Cùng với Jean Paul Belmondo, Alain Delon là diễn viên ăn khách và sáng giá nhất từ thập niên 1960, cứ mỗi năm là có đến ít nhất bốn dự án quay phim. Vào đầu mùa thu năm 1972, Alain Delon đang bận đóng phim bên Ý (cuộn phim La Prima Notte di Quiete – Đêm yên tĩnh đầu tiên của đạo diễn Valerio Zurlini). Do vậy mà các nhà sản xuất nghĩ rằng dự án ghi âm của Dalida với thần tượng điện ảnh này sẽ khó mà hoàn thành.
Điều mà không ai biết được là Dalida và Alain Delon đã quen nhau từ gần 20 năm về trước. Lần đầu tiên hai người gặp nhau là vào năm 1955. Vào thời đó, Dalida chân ướt chân ráo đến Paris lập nghiệp sau khi đoạt chiếc vương miện hoa hậu Ai Cập năm 1954.
Dalida từng cho biết là cô mướn một căn hộ nhỏ bé trên con đường Jean Mermoz ở Paris quận 8, và anh bạn hàng xóm ở ngay bên cạnh không ai nào khác là Alain Delon. Dalida thành danh từ năm 1956 nhờ một loạt ca khúc ăn khách, còn Alain Delon đóng bộ phim đầu tay vào năm 1957, và chỉ thật sự nổi tiếng hai năm sau.
Theo lời kể của nhà sản xuất Eddie Barclay, người đã sáng lập hãng đĩa Barclay, thì Dalida và Alain Delon rất quý mến nhau. Một điều cũng khá dễ hiểu, vì cả hai khởi đầu sự nghiệp trong cùng một hoàn cảnh : diễn viên hay ca sĩ mới vào nghề đều khổ nhọc kiếm đồng lương, vất vả chạy show trả tiền nhà. Vì thế cho nên khi nhận được cú điện thoại của Dalida mời anh hợp tác ghi âm, Alain Delon liền nhận lời ngay.
Buổi ghi âm diễn ra trong bầu không khí ấm cúng thân tình, cả hai ngôi sao ít nói đến chuyện làm việc mà chủ yếu nhắc tới cái thuở hàn vi ban đầu. Tuy mỗi người sau đó đã chọn cho mình một hướng đi khác nhau, nhưng do từng trải cùng một hoàn cảnh, cho nên cả hai vẫn có cảm tưởng ngồi cùng một ghe, chèo cùng một thuyền.
Sau buổi ghi âm trong phòng thu vào tháng Mười năm 1972, Alain Delon chỉ có đủ thời gian để thực hiện các bức ảnh chụp với Dalida để làm hình bìa cho đĩa nhựa. Dự án quay một bộ phim ngắn với hai ngôi sao để minh họa cho ca khúc này rốt cuộc không thành. Nhưng sự hiện diện của Alain Delon, dù là ngắn ngủi chớp nhoáng, phủ lên trên ca khúc một lớp hào quang lộng lẫy.
Có nhân vật nào thời đó mà lịch lãm đào hoa hơn Alain Delon, hình tượng của người đàn ông đa tình lại càng nhấn mạnh cái ý tứ của tình nhân không chung thủy. Thời nay, việc hội tụ hai ngôi sao trên cùng một ca khúc thường là do quảng cáo tiếp thị tài tình. Thời của Dalida, đằng sau chuyện ghi âm với Alain Delon, lại có nhiều giai thoại đáng kể.
Được phát hành vào đầu năm 1973, làm ca khúc trích đoạn đầu tiên từ album thứ sáu của Dalida, nhạc phẩm Paroles Paroles phá kỷ lục số bán tại châu Âu do Giọng ca vàng Frank Sinatra nắm giữ từ năm 1966 nhờ ca khúc Strangers in the Night. Bài hát này cũng chiếm hạng đầu thị trường Nhật Bản và phá luôn kỷ lục của bài Tombe la Neige (Tuyết rơi) của Adamo.
Hàng loạt phiên bản trong nhiều thứ tiếng khác nhau lần lượt ra đời không lâu sau đó, kể cả tiếng Nhật, tiếng Đức, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Ba Tư hay Thổ Nhĩ Kỳ. Một số phiên bản dịch thẳng từ nguyên tác tiếng Ý. Một số khác chuyển dịch từ phiên bản tiếng Pháp và đôi khi có đến hai hoặc ba lời khác nhau như trường hợp của phiên bản tiếng Đức, tiếng Tây Ban Nha hay tiếng Việt (khác biệt trong tiếng Việt không nằm trong câu hát mà chủ yếu ở trong lời thoại).
Nếu như trong nguyên tác, bản nhạc tiếng Ý Parole Parole đã được viết với những ý tứ hóm hĩnh hài hước, thì phiên bản tiếng Pháp lại khai thác tâm trạng mất mát buồn bã của người đàn bà, khi họ bị lừa dối đến đỗi phải đột qụy vấp ngã.
Bản song ca tiếng Ý ban đầu được viết một tiết mục sân khấu truyền hình, qua đó, một người đàn ông đào hoa nói dối một cách trơ trẽn, tìm cách dỗ ngọt người yêu với bao lời thề thốt muôn đời chung thủy, nhưng người đàn bà ở đây không hề nhẹ dạ cả tin.
Về hoàn cảnh đời tư, thì vào đầu những năm 1970, Dalida yêu nhà văn nổi tiếng Arnaud Desjardins, ông là người đã giúp phổ biến ở Pháp triết học Ấn Độ và thuyết Phật giáo Tây Tạng. Sau ba năm quan hệ tình cảm từ năm 1969 đến năm 1972, hai người rốt cuộc đành phải chia tay nhau.
Mối bất đồng đến từ việc Arnaud Desjardins đã có gia đình và ông không chịu ly hôn với vợ để sống chung với Dalida. Một thời gian sau đó, Dalida làm quen với một người đàn ông khác là nam ca sĩ trẻ tuổi Richard Stivell. Sau vài tháng quen biết lui tới, Dalida tưởng rằng cô có thể làm lại cuộc đời, nhưng để rồi khám phá ra là tình nhân của mình (Richard Stivell) cũng là một người đàn ông đã có vợ.
Buồn tình, chán nản, thất vọng, Dalida vùi đầu vào công việc. Không phải ngẫu nhiên mà trên cùng một album phát hành vào năm 1973, Dalida ghi âm nhiều ca khúc nói về nỗi sầu tương tư hay tình buồn đơn phương là nhạc phẩm Je suis malade của Serge Lama, Il venait d’avoir 18 ans cũng như bài Rien qu’un home de plus với gợi ý là Dalida lại có thêm một người đàn ông bạc nghĩa trong đời.
Còn trong nhạc phẩm Paroles Paroles (Những lời mê hoặc), Dalida hóa thân vào vai một người đàn bà bị phản bội bỏ rơi, diễn đạt ca khúc với tâm trạng cay đắng bồi hồi, lời giả dối càng ngọt bùi, nỗi ngậm ngùi càng làm cho đau nhói. Số phận oan nghiệt đang đẩy dần người đàn bà đến sát gần bờ vực thẳm tội lỗi. Cho đến cái ngày định mệnh khi Dalida tự kết liễu cuộc đời để lại một lời di chúc, một bức tâm thư : “Hãy tha thứ cho tôi, cô đơn, tôi không còn chịu đựng nổi”. Một lời tạ tội nhức nhối cho bao mất mát thiệt thòi.
-
Post Thanks / Like - 7 Thích, 0 Không thích
-
26-10-2013, 10:22 PM #928
Có phải tình yêu sẽ phải có những kết thúc như định nghĩa của cố nhạc sĩ Văn Phụng. Và nghe nói bài này khoản vào năm 1992 cố nhạc sĩ Phạm Duy đã viết thêm ít nhạc sô lô cho ca sĩ Ý Lan hát . Lồng vào bài nhạc là những cảnh của Venice đẹp quá.
Về đêm thì Venice như chìm vào bóng tối, chỉ hắc hiu đó đây ánh điện mờ ảo như sợ ánh sáng sẽ phá tan đi cái yên tỉnh của thành phố trên biển này.
Cầm lên được tất bỏ xuống đươc.
-
Post Thanks / Like - 6 Thích, 0 Không thích
-
28-10-2013, 12:46 AM #929
Tiếng đàn tình tứ quá
-
Post Thanks / Like - 5 Thích, 0 Không thích
-
28-10-2013, 11:22 PM #930
Nghe tình thật. Dạo này tập đánh dây buông không bác Thợ. Nhiều kỹ thuật khó nhưng tập rất khoái, nhất là tập lại những bài cũ tay phải mình đánh lưu loát và có lực hơn hồi xưa. Thầy nói giai đoạn này nhiều người chán nản bỏ dở vì cứ tập đi tập lại hoài.
Bận lòng chi nắm bắt
-
Post Thanks / Like - 1 Thích, 0 Không thích
Tontu đã thích bài viết này
Cà phê Đen
Đánh dấu