Warning: Illegal string offset 'name' in [path]/includes/functions.php on line 6845
Cà phê Đen - Trang 125
Close
Login to Your Account
Trang 125 của 151 Đầu tiênĐầu tiên ... 2575115123124125126127135 ... CuốiCuối
Kết quả 1,241 đến 1,250 của 1510

Chủ đề: Cà phê Đen

  1. #1241
    Ngày tham gia
    Oct 2010
    Bài viết
    1,270
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Hôm nay tán dóc về cờ ...

    Cách đây vài tuần có đọc một số bài điểm sách một cuốn truyện về cờ Vua vừa được xuất bản gần đây. Tác giả là Jesse Kraai, ông là một ĐKT cờ Vua người Mỹ. Ông bỏ ba năm viết truyện này, đem hết lòng diễn tả thế giới cờ. Tên của sách là "Lisa: một tiểu thuyết cờ Vua" (Lisa: a chess novel).
    Nhân vật chánh Lisa trong truyện là một bé gái 13 tuổi có thiên khiếu về cờ Vua, và đang dần dần khám phá thế giới cờ.

    Đọc được đoạn này trích trong truyện. Đoạn này một nhân vật nữ lớn tuổi, sanh sõi trong làng cờ nói với Lisa.


    Lisa, nghe nè. Những người lớn dạy các em nên học, nên đến trường. Chúng tôi bảo các em tư duy, đọc sách và nghệ thuật là những thành tụ lớn. Và chúng tôi dựng lên những tòa nhà cho các em trao dồi những chuyện này - ngôi nhà trí tuệ với nền cẩm thạch, cửa ghổ và trần cao [ ý bà nói đây là những trường học, đại học ]. Nhưng chúng tôi cũng nói là chổ đó không thật, nó chỉ là chổ rèn luyện cho cuộc đời thực tế. Chúng tôi bảo những đứa trẻ đừng theo đuổi âm nhạc, hoặc hội họa, hoặc cờ. Chúng tôi bảo chúng rằng chúng sẽ không thể nuôi thân với những thứ đó. Chúng tôi bảo chúng không thể chuyên nghiệp được vởi những nghệ thuật này.


    Lisa, sự hối tiếc lớn nhất của đời cô là cô đã tin họ. Vì nếu con hỏi lại những người này: Cái gì quan trọng? Cái gì là giá trị của đời sống? Cái gì làm các chú các bác hân hoan? Con sẽ thấy câu trả lời họ lần mò một cách vụn về tới cái đẹp. Một bản nhạc. Một trực ngộ. Một khúc hòa âm mà không chỉ làm họ thông cảm, mà còn làm họ thăng hoa trong một sát na vĩnh cữu, vượt lên những vật chất đầy sự chết chunng quanh.

    Lisa bậc khóc, đây là sự thật em đang tìm kiếm. Đây là cờ.

    (“Listen, Lisa: We tell our kids that they should learn, that they should go to school. We tell them that thinking, reading and art are the highest achievements. And we construct palaces for them to pursue these things – a thought palace with the noblest marble floors, wood paneling and vaulted ceilings. But then we say that the palace is not real, we say that it’s only a training ground for the real world. We tell our children not to pursue music in earnest, or painting, or chess. We say they will not be able to earn a living with it. We tell them that they will not be able to become professionals with these arts.

    “It’s the biggest regret of my life, Lisa, that I believed them. Because if you ask the same people: What is important? What gives your life meaning? What gives you joy? You always get a fumbling toward the beautiful. A song. An insight. A harmony that not only explained their self to the world, but elevated them, for a timeless moment, beyond all the stuff around us that points to death.”

    Lisa began to cry, for this was the truth she was looking for. This was chess.)
    Anh có thể biết tôi, tạm gọi là vậy, qua ngọn gió trên đồi
    Anh sẽ không biết tôi bằng danh xưng nào khác.

    You can know me, if you will, by the wind on the hill
    You'll know me by no other name.
    (No Other Name - Peter, Paul and Mary)

  2. #1242
    Ngày tham gia
    Jun 2012
    Bài viết
    1,779
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Sự thật thì câu nói của ngài vừa làm dáng vừa có ý sâu xa trong triết học .Nó làm tôi nhớ đến truyện ngắn .The lady with the lapdog of Tchekov.Người phụ nữ vừa đi đến nơi hẹn với tình nhân vừa khinh bỉ nguyền rủa mình vì tội ngoại tình .Ý thức cứ đay nghiến dằn vặt nhưng vô thức vẫn bước đến vì không cưỡng được sự quyến rũ man rợ của tội lỗi

    Ý thức ngài Nim quá chán ghét cái trò tung hô thần tượng nhưng vô thức ngài vẫn mò đến that over the years became a necessity to me,.Hiểu xa hơn nữa là Cờ đã chọn ngài như một thứ định mệnh chứ ngài nào ham gì môn đó Chơi vì chán mà vẫn là trùm thế chơi vì đam mê còn khủng khiếp tới đâu (khoe mình kín đáo hihi)
    Như Horowitz tuyên bố .Ai mà thấy tôi đánh sai một nốt nhạc tôi bỏ đàn ngay .Các bạn thấy đó thác Niagara có bao giờ sai
    Hết sức cuồng ngạo đọc thấy cáu lắm nhưng biết sao bây giờ đẳng cấp đó có quyền nói năng như vậy

  3. #1243
    Ngày tham gia
    Oct 2010
    Bài viết
    1,270
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    ông này điểm trúng cái chổ tôi thấy khó dịch nên đã bỏ qua. Vì dịch luôn đoạn đó phải phân tích tùm lum hihi...
    Anh có thể biết tôi, tạm gọi là vậy, qua ngọn gió trên đồi
    Anh sẽ không biết tôi bằng danh xưng nào khác.

    You can know me, if you will, by the wind on the hill
    You'll know me by no other name.
    (No Other Name - Peter, Paul and Mary)

  4. #1244
    Ngày tham gia
    Jun 2012
    Bài viết
    1,779
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Hôm nay nhận được hình ông Gió rồi xem mê man quá đã, phải xem từ từ không thôi hết .Mắt xem hình tai lắng nghe bài ca Kim Cuơng giọng Tạng ngữ thật là thống khoái



    Tự Do và Thong Dong :
    Một Bài Ca Kim Cương Tự Phát
    Thượng tọa Lama Gendun Rinpoche

    Hạnh phúc không thể được tìm thấy
    qua cố gắng và ý chí lớn lao,
    mà đã sẵn hiện tiền, trong sự buông xả trống trải và để mặc.

    Chớ có ráng sức,
    không có cái gì để làm hay không làm.
    Cái gì chốc lát khởi lên trong thân tâm
    không có chút quan trọng thực sự nào,
    không có chút thực tại nào.
    Tại sao đồng hóa với, và trở nên bám chấp vào nó,
    đặt phán xét lên nó và lên chính chúng ta ?

    Tốt hơn là đơn giản
    để cho toàn bộ trò chơi xảy ra riêng phần nó,
    khởi lên và lặng xuống như những cơn sóng –
    không biến đổi hay mó tay vào bất cứ cái gì –
    và nhận thấy mọi sự tan biến và lại xuất hiện
    như thế nào, trở đi trở lại như huyễn thuật,
    thời gian không có lúc chấm dứt.

    Chỉ sự tìm kiếm hạnh phúc của chúng ta
    ngăn cản chúng ta thấy nó.
    Nó giống như một cầu vồng sống động bạn theo đuổi
    mà không bao giờ nắm bắt được,
    hay như một con chó rượt theo cái đuôi của mình.

    Dù an lạc không hiện hữu
    như một sự vật và nơi chốn hiện thực,
    nó luôn luôn hiêïn tiền
    và đi cùng bạn mỗi một phút giây.
    Chớ tin vào thực tại
    của những kinh nghiệm tốt xấu,
    chúng như khí hậu phù du của ngày hôm nay,
    như những cầu vồng trong bầu trời.

    Muốn nắm bắt cái không thể nắm bắt,
    bạn tự làm kiệt sức mình vô ích.
    Ngay khi bạn mở trống và buông xả nắm tay siết chặt của
    sự bám nắm này,
    không gian vô biên là ở đấy – rỗng rang, mời mọc và
    thoải mái tiện nghi.

    Hãy dùng lấy cái trống rộng này, cái tự do và thoải mái
    tự nhiên này.
    Chớ tìm cái gì khác hơn nữa.
    Chớ đi vào rừng rậm um tùm
    tìm kiếm con voi Giác ngộ vĩ đại,
    nó vốn đã an nhiên trong nhà
    ở trước lò sưởi của bạn.
    Không có gì để làm hay không làm,
    không có gì để động sức,
    không có gì để muốn,
    và không có gì thiếu sót, trệch sai –

    Emaho ! Kỳ diệu !
    Mọi sự xảy ra tự chúng.

  5. #1245
    Ngày tham gia
    Jun 2009
    Đang ở
    United States
    Bài viết
    1,498
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Mấy tấm hình bác Hưởng up thật đáng quý!

    Tôi thì có thói quen sáng nào cũng xem báo trước khi đi làm. Nhất là những bản tin "nổi cộm" trong nước
    Lần sửa cuối bởi Tontu, ngày 10-01-2014 lúc 01:49 PM.

  6. #1246
    Ngày tham gia
    Feb 2011
    Đang ở
    Hà Nội
    Bài viết
    1,885
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Trích dẫn Gửi bởi Thợ Điện Xem bài viết
    hình này huyenmapu đang bế em

    Người trong hình rất có thể là Cụ nội của cháu ạ . Nhìn Cụ khá sang trọng trong bộ áo cánh thời đó.
    Kẻ thực sự hào hoa tiêu một đồng trông vẫn thấy thích

  7. #1247
    Ngày tham gia
    Jun 2012
    Bài viết
    1,779
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Đọc khoái quá mới có vài dòng mà đã thấy hay rồi .Nhưng bài dài quá lập tức vầy một tiệc rượu độc ẩm ,biết rằng phải uống nhiều thưởng thức nên khôn ngoan chọn chén hạt mít để đi đường trường .Ông Công này đúng là đại sư không những về ngữ học mà lại còn là nhà văn hoá rành rẽ lối sống từng địa phương .Thương thay hai ông Tiến sĩ bị nện cho không thuơng tiếc .Người tài thế mà chẳng có tiếng tăm gì trong khi kẻ ấm ớ sở học đáy giếng ngọn cây lại danh vang bốn bể nhà này, nhà kia .Cái học ngày nay thật đã hỏng rồi

    Tới khuya thì vật ra ghế sofa ngủ vùi vì chịu hết thấu ,sáng bét mắt mặt trời quá đỉnh đầu mới lồm cồm bò dậy .

    Giọng văn ông rất khiêm tốn ,sửa lỗi người mà hết sức tế nhị nhưng đọc kĩ mới thấy hết cái chất khinh bạc coi người nửa con mắt .Nhưng mà khoái ,có chân tài thực học làm gì cũng thấy thích còn hàng giả thở ra một cái là biết ngay ,hạng ấy thì chán quá nói nửa câu cũng thấy là thừa Học được biết bao điều mà xưa nay vẫn bị lầm lẫn bới man thư


    Ai làm hỏng " Di sản tục ngữ"?

    Hay là những sai lầm của Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương trong Từ điển tục ngữ Việt

    Hoàng Tuấn Công


    Trong bài “Giới 8X, 9X với di sản tục ngữ” trên báo Lao động cuối tuần (số 10-8/3/2013) Nhà ngữ học, TS Nguyễn Đức Dương viết: “Không ít ý kiến cho rằng giới trẻ ở độ tuổi 8X, 9X ngày nay đang quá thờ ơ với tục ngữ [TN]. Một cô giáo dạy văn ở THCS tôi quen đã không chia sẻ nhận định ấy, mà thậm chí còn gay gắt bác lại. Theo cô, các em chỉ thờ ơ khi chưa thấu hiểu nội dung thôi, chứ một khi đã nắm được rồi, các em còn tỏ ra thích thú là đằng khác”.
    Thế rồi, được sự giúp đỡ của cô giáo nọ, Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương đã làm một cuộc trắc nghiệm thú vị: Đưa ra 10 câu tục ngữ, mỗi câu kèm 2 cách giải thích trong 2 cuốn sách để các em chọn “thích” hoặc “không thích”: một cách giải thích trong Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam của GS Nguyễn Lân (NXB Văn Hóa - 1989); một của chính Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương (trong Từ điển tục ngữ Việt-NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh-2012). Kết quả (theo bài báo): cách giảng giải của Nguyễn Đức Dương được các em học sinh đánh dấu “thích” chiếm tỉ lệ áp đảo so với GS Nguyễn Lân. Nguyễn Đức Dương (NĐD) đi đến kết luận: “Nhận xét cuối cùng xin để bạn đọc tự đưa ra. Riêng về phần mình, chúng tôi chỉ có một nhận xét nhỏ: Làm cho nội dung của các đơn vị tục ngữ vốn vô giá của chúng ta sai lệch đi tới mức ấy thì ít người ưa và lắm người ghét âu cũng là chuyện thường. Chẳng phải vô cớ mà người xưa hay dặn: “Tiên trách kỷ; hậu trách nhân”(Nên tự trách mình trước khi trách người)”.

    Việc làm trên của TS Nguyễn Đức Dương thể hiện tâm huyết, trách nhiệm cao của một Nhà ngữ học lão thành đối với thế hệ trẻ. Nhưng tiếc thay, chính ông lại quên mất lời “người xưa hay dặn”. Bởi GS Nguyễn Lân giải thích sai đã đành, đến lượt mình, Nguyễn Đức Dương lại mắc phải cái sai kiểu khác, không kém phần nghiêm trọng. Sau đây là một phần nhỏ những sai lầm trong cuốn Từ điển tục ngữ Việt của Nguyễn Đức Dương, kể cả những câu được nhà ngữ học xem là chuẩn mực, đem ra làm mẫu cho các em học sinh, qua đó phê phán GS Nguyễn Lân.

    Những câu in đậm, in nghiêng của Nguyễn Đức Dương. Nội dung gạch đầu dòng là trao đổi lại của Hoàng Tuấn Công:

    Ăn khi đói; nói khi say

    Ăn là chuyện hay diễn ra khi bụng đói; nói là chuyện hay diễn ra khi đã ngà ngà say.


    -Đối với loài vật, chúng chỉ ăn khi đói (theo bản năng). Nhưng với con người, chúng ta còn ăn để thưởng thức, ăn cho vui, ăn để giao lưu, kết tình bạn bè... Ba ngày Tết, bụng không đói, mồm chẳng thèm, thế mà người ta vẫn ăn. Thậm chí ăn rất nhiều món, nhiều thứ. Còn khi “đã ngà ngà say” có người nói nhiều, nhưng không ít người lại im thít, hoặc lăn ra ngủ tít thò lò ! Cái “chân lý” mà Nhà ngữ học đưa ra thật khó đứng vững. Vả lại, giải thích như vậy thì còn gì là tục ngữ nữa ? Thử hỏi ta học được gì qua cách giải thích của N.Đ.D ? Tục ngữ là tri thức, là kinh nghiệm cơ mà ?


    Câu tục ngữ đang bàn khuyên người ta cần thận trọng trong ăn và nói, đặc biệt là lúc đói và lúc say. Ăn lúc đói có thể không làm chủ được bản thân, ăn hỗn, ăn tham làm mất tư cách con người (Miếng ăn là miếng nhục-Tục ngữ); hoặc khi đói ăn không kịp nhai, ăn uống bậy bạ, dễ sinh bệnh tật. Nói lúc say (Rượu vào lời ra, Nói với người say như vay không trả-Tục ngữ) dễ sinh ra nói càn, nói bậy, phạm sai lầm, mắc lỗi đáng tiếc. Cách giải thích “tự nhiên chủ nghĩa” của Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương khiến câu tục ngữ bị mất đi giá trị vốn có của nó là giáo dục, răn đời sâu sắc.


    Ăn vụng không biết chùi mép


    Đã ăn vụng lại còn chẳng biết chùi mép (thì quả là dại dột hết chỗ nói). Hay dùng để nhắc mọi người hãy nhớ chùi kỹ mép sau khi ăn vụng xong (cho khỏi bị phát giác).

    -Cứ theo cách lý giải này, tục ngữ khuyên dạy “mọi người” (trong đó chắc hẳn có tôi, chúng ta và cả… nhà ngữ học ?!) “nhớ chùi kỹ mép sau khi ăn vụng xong” (!) để sao cho trót lọt, “cho khỏi bị phát giác” (!) Hóa ra tục ngữ cũng dạy kinh nghiệm ăn vụng thế nào cho khéo ư ?
    Thực ra, đây là một câu chửi, câu phê phán, chế giễu, mỉa mai kẻ làm chuyện vụng trộm, bất chính nhưng lại hớ hênh, để lại chứng cứ, dấu vết quá rõ ràng khiến người đời cười chê.
    Ba tháng con sẩy, bẩy tháng con sa

    Mới ba tháng mà đã sinh (thì gọi là) con sẩy, mới bẩy tháng mà đã sinh (thì gọi là) con sa.
    -Dân gian không có ý dùng tục ngữ để giải nghĩa từ vựng “con sẩy” và “con sa” trong tiếng tiếng Việt.
    “Ba tháng con sẩy, bẩy tháng con sa” là câu tục ngữ đúc kết kinh nghiệm dưỡng thai, an thai của dân gian (mà đến nay đã được khoa học chứng minh): trong ba tháng đầu thai kỳ, người mẹ thường dễ bị sẩy thai nhất. Bởi vậy trong thời kỳ này, chuyện đi đứng, sinh hoạt, thai phụ phải kiêng khem cẩn thận. (Đông y có bài thuốc “an thai”, Tây y cũng có liệu pháp điều trị chống sẩy thai). Vượt qua được thời kỳ 3 tháng đầu, thai nhi sẽ ổn định hơn. Tuy nhiên đến tháng thứ 7, thai phụ lại rất dễ bị đẻ non (con sa). Do đó từ tháng thứ 7 người mẹ cũng phải cẩn trọng trong đi đứng, sinh hoạt để tránh bị sinh non. Ba tháng con sẩy, bảy tháng con sa là vậy đó.

    Báng đầu thằng trọc phải nể lòng ông sư

    Cốc (vào) sọ những kẻ đầu trọc thì phải nể lòng ông sư (vì đầu ông sư cũng trọc).
    -Từ “báng” cũng có một nghĩa là “cốc”. Tuy nhiên, trong câu tục ngữ trên, “cốc” không thể hiểu là “cốc (vào) sọ” được. Nếu “cốc” vào đầu kẻ trọc thì kẻ trọc chịu đau, đâu ảnh hưởng gì đến ông sư ? Báng ( 謗) là từ Hán-Việt có nghĩa là: báng bổ, mỉa mai,lên tiếng chê bai, xúc phạm đến hình ảnh hoặc những điều đối với người khác là linh thiêng. Câu này có ý khuyên mọi người nên thận trọng khi ăn nói, nhất là những lời có ý báng bổ, xúc phạm kẻ khác.

    Bạng duật tương trì ngư ông đắc lợi

    Trai và cò mà tranh ăn với nhau thì kẻ được hưởng lợi thường là ông đánh cá (vốn được mời đứng ra phân xử vụ tranh chấp). Hay dùng để khuyên mọi người chớ có tranh ăn với nhau mà dễ bị kẻ ngoài cuộc đoạt mất.

    -Sẽ thật không phải nếu dám coi thường nhà ngữ học - TS Nguyễn Đức Dương chưa hề biết đến điển cố“Bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi”.Tuy nhiên, việc TS giải thích sai câu tục ngữ này lại nói lên điều đó.
    Ở đây không có chuyện “trai và cò tranh ăn với nhau”, càng không có chuyện ông đánh cá “vốn được mời đứng ra phân xử vụ tranh chấp”. Điển cố này tóm tắt: Theo Chiến quốc sách, một hôm con trai mở miệng phơi nắng trên bãi cát, cò đi kiếm mồi, mổ ngay vào ruột con trai, trai liền khép chặt hai mảnh vỏ lại. Cò và trai cùng giằng nhau mãi, không con nào chịu nhường con nào, lão đánh cá đi qua thấy vậy liền chộp được cả hai (Điển Cố văn học - Nhà XB Khoa học xã hội - Hà Nội 1977).“Tương trì” nghĩa là níu giữ, giằng co nhau, không phải là “tranh ăn”như soạn giả giải thích. Lẽ nào nhà ngữ học không biết đến cả mấy câu ca dao diễn dịch rất hay câu chuyện này: “Cái cò mà mổ cái trai, Cái trai quặp lại lại nhai cái cò, Ngư ông bước tới lò dò, Giơ tay chộp lấy cả cò lẫn trai” ?!)

    Cà làng Hạc ăn gãy răng; khoai làng Lăng ăn tắc cổ

    Cà làng Hạc (rắn tới độ) có thể làm gãy cả răng khi nhai; khoai làng Lăng (cứng tới độ) có thể làm tắc cả cổ khi nuốt.

    -Lẽ nào nhà ngữ học lại không hiểu lời ăn tiếng nói của dân gian ? “Gãy răng” và “tắc cổ” chỉ là cách nói ngoa dụ mà thôi. Cà làng Hạc (nay thuộc TP Thanh Hoá) là thứ cà màu trắng, ăn rất giòn. Khi cắn, âm thanh quả cà vỡ ra, giòn tan, khiến người ta tưởng như hàm răng người ăn cà cũng gãy ra, vỡ theo đánh “đốp”. (Còn có giống cà quả nhỏ, mầu trắng, ăn giòn tan như “pháo” nên gọi là cà pháo). Làng Lăng (làng Linh Lộ-xã Quảng Hợp-Quảng Xương- Thanh Hóa) có giống khoai tên là Ô Xập, lá chia nhiều thùy hình chân vịt, củ tròn, bột trắng xóa từ ngoài vào trong nên khi ăn thường bị nghẹn, cảm tưởng như cổ bị tắc lại. Câu tục ngữ này ngợi ca hai sản vật cà và khoai đều ngon, quý, không phải chê“rắn” và “cứng tới độ” ăn “gãy răng khi nhai” và “tắc cả cổ khi nuốt” như soạn giả lầm tưởng.

    Chiêm khê; mùa thối

    (Tình trạng hay gặp ở vùng chiêm trũng là đất gieo trồng) trong vụ chiêm hay bị khê; trong vụ mùa hay bị thối.

    -Từ “khê” được Nguyễn Đức Dương giải thích “Khê (Đất phơi ải) chẳng tài nào khô nỏ và tơi xốp nổi (do ít được dãi dầu cùng nắng gió)”. Và chữ “Thối (Đất làm dầm) chẳng tài nào nhuyễn ra nổi (do nước mất hết khả năng ngấm sâu vào đất).
    Loại đất cày ải không đủ thời gian hoặc điều kiện thời tiết làm cho khô nỏ, người ta gọi là ải thâm, không ai gọi đất “khê”(Ải thâm không bằng dầm ngấu) Nếu đất “không tài nào nhuyễn ra nổi” nguyên do “nước mất hết khả năng ngấm sâu vào đất” thì sao gọi là “thối” được ?
    Câu tục ngữ trên nói về khó khăn của vùng đất không chủ động được tưới tiêu.Vụ chiêm (gắn với mùa khô) chỉ trông chờ vào nước trời, nên đất đai, cây trồng thường bị “khê” - khô cháy (“khê” - trong từ cơm khê - cơm bị cháy khét). Vụ mùa (gắn với mùa mưa lũ) hệ thống tiêu nước kém nên đất đai và cây trồng bị ngâm đến thối trong nước lũ. Bởi thế đối tượng mà tục ngữ nói đến ở đây không chỉ là đất gieo trồng (như NĐD giải thích) mà bao gồm cả cây trồng trên đất ấy (cụ thể là cây lúa nước).
    Thực ra câu tục ngữ “Chiêm khê, mùa thối” chỉ là cách nói hình tượng hơn câu “Chiêm khô; mùa úng” mà nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương dẫn ra ngay sau đó. Tuy nhiên, soạn giả lại tìm ra một cách giải thích khác, kèm thêm một cái sai khác: “Chiêm khô; mùa úng(Tiết trời hay gặp) khi làm chiêm là hanh khô (vì ít mưa); khi làm mùa là úng ngập (vì mưa nhiều)”. Theo cách giải thích này, Nhà ngữ học đã biến câu tục ngữ nói về nỗi khổ cực của người trồng lúa trên vùng đất canh tác khó khăn thành câu tục ngữ có nội dung nhận xét về đặc điểm “thời tiết hay gặp” của vụ chiêm và vụ mùa.

    Đám cưới chọn ngày; đi cày chọn hướng

    (Làm) đám cưới thì nhớ chọn ngày (lành); cho trâu ra đồng đi cày thì nhớ chọn hướng (vượng).


    -Làm đám cưới “chọn ngày (lành)” thì đúng rồi. Nhưng “cho trâu ra đồng đi cày” cũng phải “nhớ chọn hướng (vượng)” mới cày thì nghe kỳ dị quá ! Nếu vậy, muốn trở thành thợ cày, người ta phải đi học thày phong thủy trước đã; và khi ra đồng, ngoài con trâu, cái cày, bác nông dân còn phải kè kè thêm cái la bàn ? !
    Sản xuất nông nghiệp Việt Nam manh mún, nhỏ lẻ. Ruộng thì vuông, ruộng hình chữ nhật, ruộng xéo, gẫy góc, đủ mọi hình thù. Đường cày đầu tiên sẽ là đường quyết định cho tất cả đường cày, luống cày tiếp theo. Do đó, phải chọn hướng để cày, sao cho có được nhiều đường cày dài, trâu ít phải quay đầu, đồng nghĩa ít phải cuốc bờ, cuốc góc. “Đi cày chọn hướng” chỉ đơn giản vậy thôi.

    Đất sỏi có chạch vàng


    Đất chỉ toàn là sỏi với đá, nhưng sinh sống bên dưới lại là những con chạch bằng vàng.


    -“Chạch vàng” ở đây không phải là “những con chạch bằng vàng” mà là những con chạch béo vàng-thứ chạch thường sinh sống dưới đất bùn có nhiều màu mỡ.

    Đóm ăn ra; tim la ăn vào

    Đóm là thứ hay cháy theo hướng từ trong ra: tim la là chứng hay ăn theo hướng từ ngoài vào.

    -Có thể dễ dàng nhận ra soạn giả chép nhầm từ “đom” thành “đóm” rồi giải nghĩa từ vựng, diễn giải nội dung tục ngữ rất khiên cưỡng. Tại sao bỗng đâu đem chuyện đóm cháy so sánh với bệnh tim la ? Mặt khác khi cố tình lý giải “đóm là thứ hay cháy theo hướng từ trong ra ngoài” cho hợp với từ chép nhầm khiến đã sai càng thêm sai. Khi đóm cháy, ngọn lửa lan dần từ ngoài vào phía trong (phía tay người cầm đóm) đâu có cháy từ phía trong tay người cháy ra ngoài ? Sai sót này xuất phát từ chỗ soạn giả không hiểu quy luật cấu trúc từ của tục ngữ, thành ngữ dân gian. (Giống trường hợp câu Áo cứ tràng, làng cứ xã bị GS Nguyễn Lân chép nhầm thành Áo cứ chàng, làng cứ xã , mà chính Nguyễn Đức Dương đã từng phê phán trong phần phụ lục Từ điển tục ngữ Việt).
    Đom (là cách gọi tắt bệnh lòi đom hay lòi dom) cũng là tên gọi khác của bệnh trĩ. Bệnh này là chứng sa trực tràng, phát triển theo chiều hướng “ăn ra”, tức ngày càng lòi (lồi) ra ngoài hậu môn. Còn bệnh “tim la” (hay tiêm la hoặc xiêm la, bệnh lậu) lại xâm nhập (chủ yếu qua đường tình dục, đường máu…) rồi ăn sâu vào lục phủ ngũ tạng, không nhìn thấy được. Như vậy lòi đom và tim la đều là hai chứng bệnh. Câu “Đóm cháy ăn ra; tim la ăn vào” (thêm chữ “cháy”) Nguyễn Đức Dương dẫn ra ngay sau đó và cho rằng đồng nghĩa với“Đóm ăn ra; tim là ăn vào”, chẳng qua chỉ là một dị bản ngụy tạo, mục đích cố chứng minh cho cái vô lý của “Đóm ăn ra, tim la ăn vào” mà thôi.

    Đói giỗ cha; no ba ngày tết

    Hay bị đói là vào dịp giỗ cha (vì đâu còn lúc nào mà nghĩ tới chuyện ăn trong khi đang mải lo chuyện cúng giỗ); hay được ăn no là vào dịp ba ngày Tết (vì đó là một thông lệ vốn có tự ngàn xưa)

    -Không phải "hay đói là vào dịp giỗ cha". Chẳng có ở đâu phong tục làm giỗ cha lại theo quy luật như thế. Giỗ cha là dịp lễ trọng (Trâu bò được ngày phá đỗ, cón cháu được bữa giỗ ông - tục ngữ). Nếu "đói vì mải lo chuyện cúng giỗ" thì cúng xong cũng phải được ăn chứ ? Tục ngữ có câu "Trước cúng cha sau va vô miệng" cơ mà ? (Chữ va có tính chất hài hước, ý chỉ con cháu ăn uống thực sự sau khi cúng giỗ). Thực ra, câu tục ngữ “Đói giỗ cha, no ba ngày Tết” được hiểu như sau: Ngày giỗ cha rất quan trọng, nhưng không dứt khoát phải cỗ bàn thịnh soạn. Gặp năm mùa màng thất bát, đói kém, chiến tranh loạn lạc thì ngày giỗ cha có khi chỉ có nén hương, chén nước, bát cơm, quả trứng gọi là nhớ ngày kỵ. Như thế không có gì là trái đạo lý. Bởi tín ngưỡng thờ cúng của người Việt không câu nệ mâm cao cỗ đầy, "Bắt thiếu giỗ, không ai bắt cỗ lưng". Thế nhưng ba ngày Tết lại là chuyện khác. Người ta có thể túng thiếu, quanh năm nhịn đói, nhịn thèm, nhưng ba ngày Tết cũng phải chạy vạy bằng được để ít nhất không được ăn ngon cũng phải ăn no. Thế nên có câu "Giàu hay nghèo, ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà". Tết đến người ta không chỉ ăn cho no bụng mà còn ăn để lấy may cả năm. Ngày Tết được ăn ngon, ăn no, mặc đẹp, vui vẻ, nhàn hạ thì hy vọng cả năm cũng sẽ được như vậy. Tóm lại, câu tục ngữ đưa ra ngày quan trọng (giỗ cha) để so sánh, khẳng định một ngày khác quan trọng hơn: Tết là ngày quan trọng nhất trong tất cả những dịp lễ quan trọng trong năm; Có thể bị đói vào ngày giỗ cha nhưng ba ngày Tết dứt khoát phải được no. Ta còn bắt gặp cách nói này của dân gian trong câu "Cha chết không lo bằng gái to trong nhà". Thực tế "cha chết" là đại tang, việc lớn lắm. Thế mà dân gian lại đem so sánh và cho rằng không bằng chuyện "gái to trong nhà". Thủ pháp này cũng nhằm gửi đến một thông điệp, kinh nghiệm: có con gái lớn đến tuổi lập gia đình ở trong nhà là nỗi lo lắng lớn, (ví như lo quá lứa lỡ thì, lo chẳng may “lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”, chửa hoang, tai tiếng...) Sẽ là việc làm khá hài hước nếu chúng ta thắc mắc và cố đi tìm nguyên nhân tại sao, ở đâu lại có chuyện coi thường việc "cha chết" như vậy.
    Tham khảo: Về câu "Đói giỗ cha no ba ngày Tết", trên Báo Lao động Cuối tuần (7/1/2012), mục "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt" PGS TS Phạm Văn Tình cho biết: "bản thân tôi nhiều lúc cũng không rõ nguyên do từ đâu dẫn đến câu tục ngữ này. Hầu hết các sách sưu tầm văn hoá dân gian chỉ thống kê chứ chưa giải thích kỹ câu đó (...). Đầu năm 2010, khi cuốn “Từ điển tục ngữ Việt” (Nguyễn Đức Dương, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2010) xuất bản, tôi vội vã tra ngay". Theo PGS TS Phạm Văn Tình "cách cắt nghĩa như vậy (tức cách giải thích của Nguyễn Đức Dương-HTC) cũng chưa thật rõ ý". Thế là PGS TS Phạm Văn Tình đã phải đi làm cuộc "điền dã" không cần thiết theo cách "hỏi các cụ cao niên ở nhiều nơi tôi qua (Đông Cứu, Gia Lương, Hà Bắc; Yên Xá, Ý Yên, Nam Định; Quỳnh Côi, Quỳnh Phụ, Thái Bình...)" để được các cụ giải thích tại sao lại đói vào ngày giỗ cha rất dài dòng. Theo đó, cách giải thích của PGS TS Phạm Văn Tình công phu hơn nhưng cũng không ngoài một số nguyên nhân là phải lo chuyện lễ lạt, cúng cấp, tiếp khách...nên bị đói vào ngày giỗ cha như TS Nguyễn Đức Dương. Việc làm này khác nào cất công đi tìm hiểu xem ở đâu, tại sao lại có chuyện “Cha chết không lo bằng gái to trong nhà”.

    Đói no vua bếp hay; đắng cay bà gừng biết

    Cả khi đói lẫn khi no vua bếp đều biết tường tận; cả khi khỏe mạnh lẫn khi ốm đau bà gừng đều biết rõ hết. Hay dùng để ngợi khen lòng cảm thông sâu sắc của ông Táo và củ gừng đối với thân phận của người nghèo ở nông thôn hồi trước.

    -Nguyễn Đức Dương chú thích: "Bà gừng. Tên dân gian hay dùng để gọi củ gừng theo lối ẩn dụ, vị thầy thuốc tài ba vẫn cứu giúp người dân quê nghèo trong việc chạy chữa mọi thứ bệnh tật".
    Cách giải nghĩa và chú thích nghe thật mùi mẫn. Thế nhưng, đó chỉ là lời “tán” vô căn cứ. Nghĩa đen của câu thành ngữ này là: Ông Bếp phụ trách việc bếp núc nên gia chủ đói hay no, nấu nướng ăn uống món gì đều không giấu được. Còn “bà Gừng” thường được dùng để "làm thang" cho ấm thuốc Bắc (cắt ba lát gừng bỏ chung với ấm thuốc để đun). Vì "nằm" ngay trong siêu thuốc suốt quá trình sắc nên thuốc đắng hay cay "bà gừng đều biết" cả, không thể giấu được. Và vai trò của "bà gừng" chỉ là phụ gia dẫn thuốc, để tăng công hiệu của thuốc. Không nên vì không hiểu mà tâng bốc "bả" thành "vị thầy thuốc tài ba vẫn cứu giúp người dân quê nghèo trong việc chạy chữa mọi thứ bệnh tật" (!) Nghĩa bóng câu thành ngữ này là: Không thể giấu giếm được sự thật; Sự thật sẽ được xác minh bởi những người trong cuộc.

    Đừng chờm mà có ngày chấn móng

    Đừng (xây tường vách) chờm (ra quá xa chân móng đỡ nó) mà có ngày sẽ bị chấn móng.

    -“Chấn móng” được Nguyễn Đức Dương chú thích: “(Tường vách) bị gãy gập lại ngay tại nơi tường, vách tiếp giáp với chân móng”. Thế nhưng như thế là tường bị đổ chứ móng đâu có chấn ? Hơn nữa, nếu giải thích theo hướng này thì “chờm” (vần ch) phải thay bằng “trờm” (vần tr) mới đúng. Việt Nam tự điển giải nghĩa: “Trờm: Thừa ra, trùm lên cái khác. Tóc trờm quá tai, Vung trờm miệng nồi”. Đây là “chờm” kia mà ? Cách giải thích của Nguyễn Đức Dương không thể đứng vững, bởi nội dung tục ngữ chẳng liên quan gì đến chuyện xây dựng tường vách. Đại Nam Quấc âm tự vị (Huình Tịnh Paulus Của) giải thích từ chờm: “Chờm: nhảy dựng, nhảy xơm mà chụp... Ngựa chờm- Ngựa dựng lên mà chụp”. Và xin tham khảo Việt Nam tự điển giải nghĩa một số từ có trong câu tục ngữ đang bàn: “Chờm: Cũng như chồm (...) Móng: Móng chân móng tay, móng lừa móng ngựa (...) Chấn: Xén, cắt bớt đi: Chấn móng ngựa”. Như vậy, từ chỗ lầm lẫn “chờm” (động từ) với trờm (tính từ) rồi lại giảng sai nghĩa từ vựng của “chờm”, Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương đã cho cái móng ngựa đi xa cả ngàn dặm rồi biến thành cái...móng nhà (!) Câu Đừng chờm mà có ngày chấn móng theo nghĩa đen là lời đe nẹt đối với con ngựa bất kham: Đừng nhảy chồm lên mà có ngày bị chấn (cắt, xén) bớt móng đi (do nhảy chồm nhiều móng bị bè, bẹt ra). Hiểu theo nghĩa bóng: đây là lời răn đe, cảnh cáo đối với kẻ ương bướng, ưa phá phách, sẽ có ngày tự mình làm hại mình.

    Gà kị hổ mang; lúa kị màng rạp

    Gà là giống rất kỵ rắn hổ mang (tới độ dễ bị chột đi sau khi bị giống rắn ấy “thổi”); lúa là giống rất kỵ màng rạp (tới độ khó mà trổ nổi sau khi bị lũ rầy ấy ập tới hút nhựa)

    -Nguyễn Đức Dương chú thích: “Màng rạp dt. Tên dân gian hay dùng để chỉ giống rầy chuyên hút nhựa từ lá lúa khiến lá bị đen đi và không sao làm nổi đòng”.
    Giải thích như vậy là không hiểu tập tính sinh trưởng và sự gây hại của con sâu rầy thế nào. Con rầy không bao giờ "hút nhựa từ lá lúa". Vì nhựa (chất dinh dưỡng của lúa) không tập trung ở lá mà ở thân, bẹ lúa. Thứ hai “lũ rầy” không “đánh tập kích” kiểu “ập tới hút nhựa” giống như đàn chim mà chúng di trú ngay tại ruộng, đẻ trứng, sinh sôi nảy nở, lứa nọ gối lứa kia (gọi là rầy gối lứa) và thi nhau chích hút ở phần thân dưới gốc lúa. Thế nên khi phun thuốc diệt rầy, người ta phải rẽ lúa thành băng, đưa trực tiếp vòi phun xuống gốc lúa để thuốc tiếp xúc trực tiếp với con rầy chứ không phun trên bề mặt của lá lúa. Nếu bị rầy hại nặng ở thời kỳ nào, cây lúa sẽ bị chết khô giống như hơ vào lửa (gọi là cháy rầy). Đâu phải chỉ “khiến lá bị đen đi và không sao làm nổi đòng” hay "khó mà trổ nổi" như cách giải thích của nhà ngữ học. Còn cái thứ hại mà “khiến lá bị đen đi” chính là do giống rệp muội đen chứ không phải rầy. Rệp chích hút nhựa cây, chất thải của chúng tiếp tục được một loại nấm cộng sinh tạo thành lớp phấn màu đen phủ kín lá cây, nên gọi là rệp muội đen. Và rệp muội đen thường gây hại trên cây trồng cạn như: cây ăn quả, mía, chuối, cam quýt ...chứ không phải cây lúa nước.

    Mài mực dỗ con: mài son đánh giặc

    Mài mực (nho là việc dễ làm còn hơn cả) dỗ con; mài son (cục là việc khó làm còn hơn cả) cầm quân đánh giặc.
    Mài mực ru con, mài son đánh giặc
    Mài mực (nho là việc dễ làm còn hơn cả) ru con; mài son (cục là việc khó làm còn hơn cả) cầm quân đi đánh giặc.


    -Nguyễn Đức Dương giải thích câu này không đến nỗi sai lạc nghiêm trọng như GS Nguyễn Lân: “Mài mực ru con, mài son đánh giặc. Nói các ông đồ ngày xưa ngày thường ngồi dạy học đồng thời giúp vợ làm việc vặt trong nhà, nhưng khi có giặc thì tham gia phục vụ quân sự” (Từ điển Thành ngữ tục ngữ Việt Nam-NXB Văn hóa thông tin-1989) Nhưng soạn giả Nguyễn Đức Dương lại mắc phải cái sai kiểu khác.
    Xin hỏi, trẻ nhỏ mà quấy khóc, dỗ được nó nín, ru cho nó ngủ đâu dễ tới mức có thể đem so sánh với những việc làm dễ nhất trên đời ? Tục ngữ cũng đâu nói “dễ làm còn hơn cả” ru con, hay “khó làm còn hơn cả” đánh giặc. Hơn nữa, mài mực nho đâu có dễ ?
    Câu tục ngữ “Mài mực ru con, mài son đánh giặc” được diễn giải là: Mài mực phải mài nhẹ nhàng giống như ru con (hoặc dỗ con); mài son phải mài mạnh mẽ giống như đi đánh giặc. Bởi vì, mực tàu đóng thành thỏi rất rắn, nhưng khi mài lại không được phép mạnh tay. Nếu sốt ruột, mài mạnh tay cho nhanh, mực sẽ không mịn, sinh ra lắm hạt sạn nhỏ; khi viết ngọn bút bị xơ, nét bút không đẹp. Ngược lại, nếu mài nhẹ nhàng, từ từ, êm ái (như “ru con”) mực trong thỏi sẽ ngấm dần, hoà tan, quyện với nước, cho một thứ mực mịn màng, sóng sánh, khi viết đầu bút chụm lại, bút lông có độ đàn hồi tốt và nét bút không bị xơ, cứng, mặt chữ bóng, đẹp. Còn đối với mài son. Xưa kia, người ta thường lấy các loại đá có màu đỏ trong tự nhiên để làm son, rất rắn. Tuy nhiên, son không yêu cầu mịn như mực, bởi thông thường người ta không dùng son để viết chữ mà chỉ dùng để phê, khuyên, đánh dấu hoặc đóng ấn, triện. Do đó, khi mài son được phép mài (và phải mài) mạnh tay mới được (mạnh mẽ như đi “đánh giặc” vậy). Việc mài mực rất quan trọng. Chuyện kể rằng, xưa có người ở làng Hạc Oa (nay thuộc TP Thanh Hóa) chuyên mài mực cho Tổng đốc Thanh Hóa Vương Duy Trinh, sau được hàm Cửu phẩm, gọi là ông Cửu Mặc (ông Cửu phẩm mài mực).

    Mâm cao đánh ngã bát đầy

    Mâm cỗ bày lắm món đặt chồng lên nhau bao giờ cũng đánh bại dễ dàng các mâm cỗ chỉ bày vài ba món dù đĩa nào cũng được đơm rất đầy. Hay dùng để chỉ rõ một lẽ thật: “Mâm cỗ bày lắm món bao giờ trông cũng bắt mắt hơn là mâm cỗ chỉ bày vài ba món được đơm đầy”.

    -Giải thích như vậy câu tục ngữ trở nên tầm thường quá. Cần chú ý hai khái niệm: mâm cao và bát đầy. Mâm cao là mâm được dọn ra ở vị trí cao (sang) nhất thường dành cho các vị chức sắc, các cụ cao niên hoặc người được tôn trọng trong làng xã (hay đình đám). Còn bát đầy được hiểu là đồ ăn thức uống không được dọn thành mâm (cỗ) mục đích chỉ cốt ăn uống cho no bụng. Do đó, cái “mâm cao” sang trọng giữa làng vẫn được người ta thích hơn là cái bát đầy ở xó bếp. Vì "Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp" kia mà ! Dân gian còn có câu: "Mâm cao, cỗ đầy", nghĩa là được cả danh và lợi: vừa sang trọng về vị trí, vừa thịnh soạn về các món ăn. Chữ "mâm cao" ở đây chính là mâm cao trong câu "Mâm cao đánh ngã bát đầy" chứ không phải là "mâm cỗ bày lắm món đặt chồng lên nhau" như cách giải thích của nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương.

    Mẻ không ăn cũng chết

    Mẻ mà chẳng ăn thì cũng chết (nên có để dành được đâu mà cố để giành) Hay dùng để khuyên mọi người chớ có dè sẻn những thứ không thể để giành được mà uổng công.

    -Thực ra ở đây là mẻ không được ăn chứ không phải không ăn đến mẻ. Mẻ không phải là loại gia vị thiết yếu. Cho nên người ta chỉ nuôi mẻ bằng cơm nguội, cơm thừa, thậm chí cơm đã có mùi thiu mới đem cho mẻ (ngày xưa hiếm lương thực). Nếu thừa cơm thì cho mẻ ăn, không thừa thì thôi. Thế nên có câu thành ngữ Coi như mẻ (xem thường, xem khinh ai đó giống như mẻ). Có vẻ như mẻ thật dễ tính, ăn cũng được, không ăn cũng không sao. Tuy nhiên, thực tế, nếu mẻ không được ăn trong thời gian dài, lọ mẻ hết chất tinh bột để vi khuẩn gây men hoạt động thì mẻ cũng chết như thường. Câu tục ngữ trên đề cao tầm quan trọng nhu cầu ăn uống của tất cả mọi sinh vật. Ai cũng phải ăn uống mới duy trì được sự sống. Vì đến dễ tính như mẻ kia không ăn cũng chết cơ mà !

    Mồ cha chẳng khóc khóc đống mối; mồ mẹ chẳng khóc khóc bối bòng bong.

    Mồ cha chẳng khóc, lại khóc mấy nấm đất do mối đùn; mồ của mẹ chẳng khóc, lại khóc mấy cái búi bòng bong. Hay dùng để chê trách những kẻ quá tin vào lời đám thầy địa lý/thầy cúng tới độ chỉ đi than khóc các thứ vớ vẩn, mà chẳng thèm ngó ngàng gì tới mồ mả của cha mẹ mình.

    -“Bòng bong” ở đây được nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương chú thích là “búi xơ vót ra từ các đôi đũa tre cắm trên bát cơm cúng đặt trên quan tài người mới chết".
    Nếu chỉ dừng ở việc diễn giải tục ngữ thì đúng. Nhưng thêm mấy dòng chú thích lại trở thành sai. Đũa tre cắm trên bát cơm cúng gọi là "đũa bông" chứ không phải là “bòng bong”. Có một loại gọi là bòng bong là phoi tre (kiểu như phoi bào nhưng dài mà mảnh hơn, quăn hơn) do người ta vót nan tre, nứa để đan đồ đựng rồi vò thành đống. Có câu "Rối như búi bòng bong" cơ mà ! Mấy cái xơ của đũa tre vót ra tuy cong tít nhưng một đầu vẫn dính vào chiếc đũa nên xơ nào ra xơ ấy chứ đâu có rối ? Còn bòng bong trong câu tục ngữ lại là một loại dây leo, hay mọc ở các bụi rậm, mầu nâu, mảnh như sợi miến mà dai, quấn nhằng nhịt vào nhau. Câu “Rối như bối bòng bong” cũng được dùng để chỉ loại bòng bong này.
    Trở lại với câu tục ngữ. Cái tổ mối đùn nó lùm lùm gần giống như một nấm mồ vô chủ. Còn cái bụi rậm nhằng nhịt những búi (bối) bòng bong cũng tựa như một ngôi mộ bịt thất lạc, lâu ngày hóa hoang rậm. Thế nên, ông thầy đi tìm mộ mới chỉ vào đó để người ta khóc lóc, khấn vái, vì cứ ngỡ mộ tổ tiên ông bà bấy lâu không ai chăm sóc. Còn nếu khóc búi “bòng bong” là “búi xơ vót ra từ các đôi đũa tre cắm trên bát cơm cúng đặt trên quan tài người mới chết", thì lúc này con cháu đang than khóc chung quanh làm sao có thể nhầm ra mộ tổ tiên mình bị thất lạc được ?
    Một ngôi sao một ao nước

    Mỗi một ngôi sao hiện ra trên bầu trời đêm hôm trước (là điềm ngày mai trời sẽ trút xuống mặt đất) một ao đầy nước mưa.

    -Rất khó chấp nhận cách giải thích trên của Nguyễn Đức Dương. Bởi theo kinh nghiệm dân gian, nếu đêm hôm trước bầu trời đầy sao là dấu hiệu ngày mai trời sẽ không một gợn mây, nắng chang chang. Đâu có chuyện ngược đời, đêm hôm trước càng nhiều sao, ngày mai càng mưa lớn ?
    Vậy, câu tục ngữ của Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương được hiểu như thế nào ? Nói như dân gian “đến trời cũng không thể hiểu nổi”. Bởi hình thức chính xác của câu tục ngữ là: Một sao, ao nước. Một sao nghĩa là không có ngôi sao nào. “Một” là từ Hán Việt có nghĩa như sau:
    - “① Chìm đắm, bị nước tràn ngập gọi là một. ② Chết, mất rồi, có khi viết là 歿. ③ Hết, như một thế 沒世 hết đời. ||④ Không có, chế người không biết chữ gọi là một tự bi 沒字碑 ý nói trong lòng không có một chữ nào. ⑤ Mất tích, như mai một 埋沒 vùi mất, dẫn một 泯沒 tan mất, v.v.” (Hán Việt tự điển-Thiều Chửu).
    - “Một 沒: Không, không có (một hữu 沒有)① Chìm, lặn: một nhập thủy trung 沒入水中 Chìm xuống dưới nước;...③ Ẩn, mất: (xuất một 出沒 ẩn hiện” (Từ điển Hán Việt - Trần Văn Chánh, lược trích)
    Nghĩa của từ “một” trong Hán văn là như vậy. Thế nhưng trong ngôn ngữ hàng ngày, hoặc câu kết hợp Hán + Nôm, người ta có dùng “một” với nghĩa là không có, ẩn giấu, chìm lấp, mất không ? Thưa là có:
    - Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của : “Một 歿. Chết, mất: (...) “Làm tờ một hạ: làm giấy khai về sự bị ăn trộm, ăn cướp, cho làng làm chứng”.
    - Việt Nam tự điển - Hội Khai Trí Tiến Đức : “Một 沒 mất (không dùng một mình) một tích, mai một. Một thú: mất thú: đi chơi không có bạn thật là một thú”.
    Kết luận: từ “một” trong câu tục ngữ Một sao, ao nước được hiểu là vắng, không có, chìm mất, ẩn mất. Tục ngữ dùng “một” với ý là sao trời bị chìm lấp, bị che lấp đi bởi mây đen. Một sao, ao nước được hiểu: Nếu sao đêm bị mây đen che lấp hết thì ngày mai mưa to, ao chuôm đầy nước. (Dị bản nhìn sao để đoán thời tiết: Đông sao thì nắng, vắng sao thì mưa; Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa).
    Như vậy, do người sưu tầm (hoặc chính do Nhà ngữ học) không hiểu tục ngữ “Một sao, ao nước” là gì nên tự ý chữa “một” (tính từ), thành “một” (số từ) và thêm ngôi cho "sao": “Một ngôi sao, một ao nước". Thế nhưng tục ngữ chẳng những không dễ hiểu mà trở nên bế tắc về cách hiểu. Cuối cùng soạn giả từ điển giải thích theo kiểu ngược đời, bất chấp thực tế khách quan.

    Lắm thầy rầy ma

    Càng có lắm thầy (cúng) bao nhiêu thì lũ ma càng kéo tới quấy rầy bấy nhiêu. Hay dùng để khuyên mọi người chớ có tin những lời nhảm nhí của đám thầy cúng về ma quỷ (vì đó đều là những trò lừa đảo chỉ cốt moi tiền).
    Lắm thầy thối ma.
    Càng có lắm thầy (lang) bao nhiêu thì các con bệnh càng dễ hóa thành ma thêm bấy nhiêu. Hay dùng để nhắc mọi người là chớ có tin vào các trò chữa chạy của đám lang băm mà dễ bị mất mạng.
    Lắm thầy thối ma; lắm cha con khó lấy chồng
    Càng có lắm thầy (lang) bao nhiêu thì các con bệnh càng dễ hóa thành ma thêm bấy nhiêu; càng có lắm bậc làm cha (dự phần vào việc chọn chồng cho con) bao nhiêu thì các con càng khó lấy chồng thêm bấy nhiêu.


    -Hai dị bản “rầy ma” và “thối ma” là đồng nghĩa. Nhưng thật khó hiểu, “rầy ma”(lưu ý: khác ma rầy) được soạn giả giải thích là do “thầy cúng” mà“lũ ma kéo tới quấy rầy”, còn “thối ma”lại được giải thích là do “thầy lang” nên“các con bệnh dễ hóa thành ma”. (Con bệnh dù nặng đến mấy, khi chưa chết cũng không thể gọi là ma được). Và điều quan trọng cả hai cách hiểu này đều sai.
    Câu Lắm thầy rầy ma, hay Lắm thầy thối ma đều liên quan đến cùng một “thầy” đó là thầy cúng. Nghĩa đen được hiểu: khi một người chết (không phải con bệnh như cách hiểu của NĐD) nằm đó, nếu để cho nhiều thầy cúng xem ngày giờ đưa ma, hay chọn huyệt để táng sẽ rất phiền hà. Vì thầy này nói được, thầy kia nói không, lắm ý kiến khác nhau, hậu quả người chết cứ nằm đó, muốn yên thân, mồ yên mả đẹp cũng không xong. Rầy ma là như thế. Thậm chí khi thầy phán chưa chọn được giờ tốt, ngày tốt thì người chết cứ nằm đó đợi, đến mức xác chết bắt đầu phân hủy (thối) còn chưa được chôn. Thối ma là như vậy.
    Đất sỏi có chạch vàng
    Đất chỉ toàn là sỏi với đá, nhưng sinh sống bên dưới lại là những con chạch bằng vàng.
    -Có ai đúc chạch “bằng vàng” yểm dưới đất sỏi chăng ? Xin thưa“Chạch vàng” ở đây không phải là “những con chạch bằng vàng” mà là những con chạch béo vàng-thứ chạch thường sinh sống dưới đất bùn có nhiều màu mỡ. Ở đây, đất sỏi mà lại vẫn có chạch vàng như thường.Ý dân gian muốn nói đến vùng đất tuy khô cằn, nghèo khó nhưng lại sinh ra những nhân tài kiệt xuất, hoặc sản vật nổi tiếng.
    Trong Từ điển tục ngữ Việt có những câu soạn giả suy diễn sai hoàn toàn. Ví dụ:

    Kẻ ăn rươi người chịu bão

    Kẻ muốn ăn rươi nhưng lại bắt người khác phải dầm mưa bão để vớt về cho mình. Hay dùng với ẩn ý: nh. Ngồi mát ăn bát vàng.

    -Không ai đi “dầm mưa bão để vớt rươi” cả. Rươi là giống rất mẫn cảm với thời tiết, nên bao giờ nó cũng từ dưới bùn sâu chui lên trước khi thời tiết thay đổi. Giống rươi lại phải thật tươi ăn mới ngon. Thế nên, bắt đầu có rươi là dân đồng sác nhao ra đồng vớt ngay. Nếu gặp phiên chợ thì gánh chạy cho nhanh để kịp bán khi rươi còn sống, bò lúc nhúc. Bằng không cũng phải gánh vội đi bán ở các làng xã lân cận cho kịp. Khi rươi ươn, vỡ bụng, chảy gạch ra coi như hỏng. Thường người ta vớt được rươi lên, hoặc mua rươi về nấu ăn xong, nửa ngày, hoặc một ngày sau đó mới nổi mưa gió trái mùa như hiện tượng bão, gọi là “bão rươi” hoặc “mưa lấp lỗ rươi”. (Câu đố về rươi: Mỗi năm vài bận ra chơi, Làm cho lở đất long trời mới nghe). Chỉ ít dân đồng sác và mấy xã lân cận là được ăn rươi (do số lượng có hạn và rươi khó bảo quản để vận chuyển đi xa bán). Thế nhưng cả tỉnh, cả huyện phải chịu chung cảnh thời tiết mưa bão ấy. Kẻ ăn rươi người chịu bão là như vậy.

    Quạ ăn dưa bắt cò dãi nắng

    Quạ muốn ăn dưa nhưng lại bắt cò phải dãi nắng (để kiếm dưa về cho mình). Hay dùng với ẩn ý: nh. Kẻ ăn rươi, người chịu bão.

    -Trong thực tế nghĩa đen, làm gì có chuyện con quạ bắt con cò phải dãi nắng “để kiếm dưa về cho mình” ? Không nên suy diễn thay cho lời giải thích câu tục ngữ.
    Quạ là giống chim đa thực. Ngoài gà con, xác thối...chúng còn rất thích ăn các thứ quả như mít, dưa hấu…(vào mùa mít rừng chín, chúng khoét vỏ, chui đầu vào ăn, con nào con nấy đầu trọc lóc do bị nhựa mít “vặt” hết lông). Chìa khóa để giải mã câu tục ngữ trên là “Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa”. Thời tiết nắng nhiều khiến quạ được chén những quả dưa ngọt lành. Trong khi đó, cò không ăn được dưa (loài chim này chỉ ăn tôm tép, cá con, côn trùng…) lại phải chịu chung đặc điểm thời tiết nắng nóng chang chang ấy (đôi khi làm cạn nước, chết hết cá tôm, ảnh hưởng đến môi trường kiếm ăn của cò).
    Như vậy, hai câu “Kẻ ăn rươi, người chịu bão” và “Quạ ăn dưa, bắt cò dãi nắng” ý nói: lợi ích hoặc hoàn cảnh thuận lợi của (nhóm) người này, đôi khi (vô tình) gây trở ngại, khó khăn đối với (nhóm) người khác. Ví như mùa hè nắng nóng kéo dài, dân kinh doanh du lịch biển “hốt bạc”. Trong khi người thường hoặc nông dân cày cấy lại “lãnh đủ”. Không thể hiểu và dùng với ẩn ý “Ngồi mát ăn bát vàng” như Nguyễn Đức Dương giải thích.

    Quan họ thịt gà; giỗ cha thịt ếch

    (Thết các liền anh liền chị trong làng) quan họ thì nên dùng thịt gà; (làm giỗ cho cha thì nên dùng thịt ếch).

    -Cách giải thích sai lầm nghiêm trọng. Trong các lễ vật dâng cúng, con gà được xem là con vật hiến tế rất quan trọng. Thế nên, không có gà cúng, người ta còn có thể thay bằng quả trứng gà. Gà hay xôi gà là lễ vật sang trọng đối với cả người sống và người chết. Trong khi đó mặc dù thịt ếch thơm ngon, trắng như thịt gà, dân gian hay gọi là gà đồng (gọi theo tên chữ của ếch là điền kê田雞). Nhưng thịt ếch đâu có được coi là loại đồ ăn “ra tấm, ra miếng”; càng không phải là phẩm vật dâng cúng thể hiện sự kính trọng đối với tiền nhân. Do đó, giảng rằng: “(làm giỗ cho cha) thì nên dùng thịt ếch” là cách giải thích liều, không hiểu gì về phong tục tập quán của người Việt. Mặt khác các liền anh, liền chị trong làng quan họ thì liên quan gì đến giỗ cha ?
    Thực ra, câu tục ngữ này có hình thức là: Con họ thịt gà; giỗ cha thịt ếch. Cách phát âm của người Thanh Hóa, con phát âm gần giống như cu...ân (quân). Con họ tức là con cháu trong họ. Vì không hiểu con họ là gì nên người sưu tầm tục ngữ (hoặc soạn giả) chữa “quân họ” (con họ) thành “quan họ” rồi giảng sai hoàn toàn nội dung. Câu tục ngữ đang bàn nói cách cư xử trái với lẽ thường, đáng phê phán: Đối với hạng con cháu trong họ thì làm thịt gà thết đãi; đến khi giỗ cha mình (ngày rất quan trọng) lại làm thịt ếch để cúng. Dị bản: Có khách làm thịt kha (gà) giỗ cha làm thịt ếch.

    Mưa rừng cọ; gió rừng thông

    (Gặp) mưa trong rừng cọ cũng như gió trong rừng thông (thì chớ có lo ướt cũng như lo lạnh vì đã được cọ cũng như thông che chắn hết cho rồi).

    -Giải thích như vậy là không hiểu.Thực ra, trong rừng cọ, chỉ cần mấy hạt mưa đã nghe tiếng lào rào, lộp bộp rất lớn do hàng ngàn giọt mưa rơi trên tàu lá cọ (lá cọ bản rộng, dày, cứng). Và trong rừng thông, chỉ cần thoảng làn gió đã nghe vi vút hoặc tiếng rít lên như muôn ngàn ngọn roi quật vào không khí, (do thông là cây lá kim). Thế nên thơ, nhạc hay ví thông reo, thông hát, thông ru là vậy. Câu tục ngữ trên đưa ra nhận xét: Tiếng mưa trong rừng cọ nghe rất lớn, tiếng gió trong rừng thông nghe rất mạnh (so với thực tế).

    Nuôi lợn ăn cơm không; nuôi tằm ăn cơm nhộng

    Nuôi lợn (chẳng mấy khó nhọc nên) chỉ được ăn cơm không có thức ăn; nuôi tằm (vốn khó nhọc) nên sẽ được ăn cơm với cả nhộng nữa.
    -Ý dân gian không ám chỉ nghề nào vất vả, khó nhọc hơn nghề nào, mà ý nói sự khác biệt giữa hai nghề. Nghề nuôi lợn giống như ống tiết kiệm, dồn mãi tới lúc đầy (lợn béo) mới xẻ thịt hoặc bán một lần duy nhất, không thể mỗi bữa xẻo ra vài miếng thịt mà nấu ăn dần. Tuy nhiên, đối với nghề nuôi tằm, mỗi lứa tằm vài ba tháng, tằm kéo kén ươm tơ có nhộng ăn, người nuôi được thu sản phẩm phụ, trong khi nuôi lợn ngày xưa cả năm mới được một lứa. Nghĩa là mối lợi của nghề nuôi tằm có thể khai thác dần, rải rác mà không cần phải đợi đến lúc ươm, dệt thành tơ lụa mới có.

    Rau cải làng Tiếu nấu nước điếu ăn cũng ngon

    Rau cải (trồng ở ) làng Tiếu (vốn ngon tới độ chỉ) nấu với nước điếu thôi ăn vẫn cứ thấy ngon.

    -Cách hiểu và diễn giải của soạn giả khi dùng “chỉ”, “thôi” trong câu khiến bạn đọc hiểu lầm “nước điếu” là loại nước lã bình thường (nấu món canh suông) nhưng khi có rau cải làng Tiếu để nấu thì ăn vẫn cứ thấy ngon. Tuy nhiên, nước điếu có mùi hôi, khắm, vị đắng chát rất khó tả. Lỡ đánh đổ chút ít ra nhà, đến cả người vốn nghiện thuốc lào cũng không chịu nổi cái mùi của nó. Nước điếu độc nên người ta còn dùng để tắm trừ ghẻ cho chó. Thế mà rau cải làng Tiếu thơm ngon, ngọt lành tới độ có thể hóa giải được cả nước điếu, khiến khi nấu canh rau cải với thứ nước “kinh khủng” đó, ăn cũng (vẫn) ngon. Như thế câu tục ngữ phải được diễn giải là: Rau cải làng Tiếu dẫu có nấu với nước điếu ăn vẫn ngon.
    Thông thường, một câu tục ngữ có thể được hiểu theo nhiều nghĩa. Tuy nhiên, hiểu theo nghĩa nào cũng phải đảm bảo tính biện chứng. Trong Từ điển tục ngữ Việt, soạn giả Nguyễn Đức Dương có hẳn một hạng mục (được ghi ngoài bìa sách) là “dịch” một số câu tục ngữ gốc Hán. Soạn giả không đưa ra phần nguyên văn chữ Hán, cũng không chú thích nghĩa từ vựng trong câu dẫn đến sai sót khá nghiêm trọng bởi hiện tượng đồng âm, dị nghĩa; đồng tự, đa nghĩa.Ví dụ:

    Kỵ hổ nan hạ

    Tránh mặt hổ thì khó mà hạ sát được nó.

    -Thay vì dùng chữ kỵ 騎 là cưỡi, soạn giả lại đưa ra chữ “kỵ” 忌 là kiêng tránh, sợ; chữ hạ 下với nghĩa là xuống, lại được chọn hạ 下 với nghĩa là “hạ sát”. Thoạt nghe cũng có lý. Thế nhưng, giết hổ mà chọn cách đối mặt với hổ là hạ sách, là bất đắc dĩ. Người ta có thể “tránh mặt hổ” mà vẫn giết được hổ dễ dàng bằng cách đặt bẫy, đánh bẫy, nấp bắn. Vậy soạn giả nghĩ sao ? Cần trả lại nghĩa vốn có (đã đi vào lời ăn tiếng nói hàng ngày của dân gian) là:Cưỡi lên lưng hổ thì khó xuống (hay nói Thế cưỡi hổ, hoặc Ở thế cưỡi hổ).

    Lão bất tử thành tặc

    Già rồi mà chẳng chịu chết đi cho yên phận thì dễ hóa thành giặc. Hay dùng để chê những kẻ đã già mà chẳng chịu sống yên phận, nên hay gây ra bao thứ rắc rối cho con cháu trong nhà.

    -Thực ra chữ tặc 賊 ở đây không có nghĩa là “giặc” mà là ranh, tinh quái, gian xảo, xảo quyệt. Ví dụ “Lão thử chân tặc老鼠眞賊 = con chuột này ranh ma lắm" hoặc “Giá nhất khỏa nhân chân tặc 這一夥人眞賊 = bọn này xảo quyệt lắm ( Xem Tự điển Hán Việt - Trần Văn Chánh -NXB Từ điển bách khoa-2011). Mặt khác chữ “lão” không chỉ có nghĩa người già, mà còn chỉ chung các giống loài khi sống lâu thường trở nên khôn ngoan, tinh quái. Câu này dịch nghĩa là: Già mà không chết sẽ thành kẻ tinh quái, dịch thoát thành tục ngữ là: Sống lâu thành xảo quyệt; gần nghĩa câu tục ngữ Việt Mèo già hóa cáo (con mèo sống lâu thường mang bản chất của một con cáo khôn ngoan, tinh quái). Giải thích như nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương “Già rồi mà chẳng chịu chết đi cho yên phận thì dễ hóa thành giặc” vô tình đi ngược lại tinh thần “Kính lão đắc thọ”, dễ khiến các cụ cao niên buồn lòng.

    Lộng giả thành chân

    Cái giả hễ cứ được mặt sức hành hoành thì dần dà rồi sẽ hóa thành cái chân.Hay dùng để nhắc mọi người đừng để cho cái giả mặc sức hoành hành nhằm tránh xảy ra tình trạng thực giả lẫn lộn.
    - Chữ lộng 弄 ở đây có nghĩa là giở thủ đoạn, lại được soạn giả hiểu nôm na là lộng hành rồi giải thích “Cái giả hễ cứ được mặt sức hoành hành thì dần dà rồi sẽ hóa thành cái chân”. Nghĩa này có thể chấp nhận được.Tuy nhiên, câu tục ngữ phải chữa lại là “Giả lộng thành chân” mới đúng với ngữ pháp tiếng Hán. Bởi vậy, câu tục ngữ “Lộng giả thành chân” phải được hiểu là: Dùng thủ đoạn biến giả thành thật. (Có khi chữ “lộng” cũng được dùng với nghĩa “đùa cợt”: Vờ đùa cợt để biến giả thành thật).

    Lương y đa kỳ tật

    Các viên thầy thuốc giỏi đa phần đều có lắm thói quen kỳ lạ.

    -Chữ “tật” 疾 nghĩa là bệnh, “kỳ tật” 奇疾 là bệnh lạ, bệnh nặng, bệnh hiểm ác, nhưng bị soạn giả hiểu nôm na “kỳ tật” là “thói quen kỳ lạ”.
    Thực tế, có nhiều thầy thuốc giỏi, chữa bệnh cho nhiều người nhưng chính mình lại hay bị những chứng bệnh nan y, bệnh lạ mà bản thân không khám, chữa cho mình được. Thế nên, câu thành ngữ này phải được dịch là: Thầy thuốc giỏi hay bị chứng bệnh (lạ) hiểm ác, nói đến sự trớ trêu của nghề thầy thuốc, “Dao sắc không gọt được chuôi”.

    Mệnh do ngã lập; phúc tự kỷ cầu

    Số mệnh là do tự mình định đoạt lấy (chứ đâu phải do trời sắp xếp sẵn); phúc đức là do mình tự cầu xin lấy (chứ đâu phải do trời tự ý ban cho).


    -Nếu nói “phúc đức là do mình tự cầu xin lấy” chỉ có nghĩa không cần người khác cầu xin hộ, nhưng vẫn có nghĩa là bản thân mình không tự quyết định được mà phải đi cầu xin người khác mới có.
    Như vậy, chữ “cầu” (求)ở đây phải được hiểu nghĩa là tìm, không thể hiểu nghĩa là cầu xin như dịch giả nhầm lẫn. Câu tục ngữ được dịch là: Số mệnh tự ta định đoạt, hạnh phúc tự mình tìm lấy.
    Nhìn chung, với sách biên soạn, (đặc biệt là lĩnh vực tục ngữ, thành ngữ) khó tránh khỏi sai sót. Tuy nhiên, tỉ lệ sai sót, mức độ sai sót, hạn chế (số lượng hàng trăm câu) như Từ điển tục ngữ Việt của Nhà ngữ học TS Nguyễn Đức Dương là quá lớn. Nếu đọc kỹ, chúng ta sẽ còn nhận thấy không ít lỗi về từ vựng, cách giải nghĩa, cách diễn đạt, từ ngữ,v.v...mà khuôn khổ bài viết này không thể nêu hết . Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương nhiều lần kêu gọi các nhà biên soạn sách giáo khoa đưa “di sản tục ngữ” vào nhà trường (xem Bài “Sao không đưa tục ngữ vào giảng dạy ở bậc tiểu học” - Báo Thanh Niên). Đề xuất này không có gì sai. Tuy nhiên, nếu các em học sinh tiếp thu “di sản tục ngữ” thông qua “kênh” Từ điển tục ngữ Việt của Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương với những “sai lệch” như trên thì thật nguy hại !

  8. #1248
    Ngày tham gia
    Jul 2009
    Đang ở
    hai phong
    Bài viết
    3,152
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Đọc xong em mới biết rõ thêm mấy câu tục ngư mà trước ko nghĩ ra hehe
    Trời cho bao năm để rong chơi...?
    Đến khi gặp người, chân rã rời...!

  9. #1249
    Ngày tham gia
    Jun 2009
    Đang ở
    United States
    Bài viết
    1,498
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Học thuật của lão ông thật sâu sắc và đáng quý!

    Lão ông trong bài này quả là bậc tri thức. Kiến văn giảng giải rạch ròi ngọn ngành và phê phán cũng tế nhị. Thật đáng học hỏi.

    Thực tế cho thấy rằng người uyên bác thường hay thận trọng, biết cách tiết chế trong câu văn và chỉ diễn tả dè dặt những điều mình biết, chứ không dám giảng "liều".

    Bể học vốn mênh mông, tri thức con người vốn hữu hạn. Những gì ta biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, thế mới là biết. Kẻ sĩ trong thiên hạ nên có một thái độ cầu thị như thế mới học được tri thức thực thụ.

    Cảm ơn bài chia sẻ thật hay của bác Lâm.
    Lần sửa cuối bởi Tontu, ngày 11-01-2014 lúc 11:58 PM.

  10. #1250
    Ngày tham gia
    Jun 2012
    Bài viết
    1,779
    Post Thanks / Like

    Mặc định Sợ vợ quá



    Tặng ông Aty ,Gió ,K, D ,Tôn Các ông có sợ vợ không ?


    Nhiều học giả phương tây đặt nước Việt thượng cổ vào “xứ sở Mẫu hệ” (Le pays du Matriarcat), đề cao giá trị phụ nữ: phụ nữ quán xuyến việc nhà, tay hòm chìa khóa…Trong ca dao tục ngữ Việt có câu Nhất vợ nhì trời..Lệnh ông không bằng cồng bà…Ngày nay, vài bộ tộc ở Phi châu, Ấn độ vẫn theo chế độ mẫu hệ, phụ nữ có thể lấy nhiều chồng, cách đàn ông vừa phải lo sinh kế…lại phải chiều chuộng sợ bà xã… cấm vận.


    Trải ngàn năm bị Tầu đô hộ, ảnh hưởng văn hóa bắc phương thường không coi trọng phụ nữ…Nhất nam viết hữu thập nữ viết vô…Bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại…Vô hậu có nghĩa không có con trai. Phụ nữ lấy chồng sinh toàn công chúa, nguy cơ chồng lấy vợ lẽ rất cao, đành chấp nhận kiếp chồng chung…Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng…

    Đã thế, cánh đàn ông đôc đoán bày ra các chuẩn mực đạo đức xã hội…Nào là trai năm thê bảy thiếp. Gái chính chuyên một chồng. Gái không chồng mà chửa bị làng phạt vạ xỉ nhục. Phụ nữ ngoại tình bị cạo đầu bôi vôi, đóng bè trôi sông quá ư độc ác…Phận gái long đong mười hai bến nước. Gặp chồng tử tế có phận nhờ. Gặp kẻ vũ phu vẫn cắn răng cam chịu. Đã thế, ca dao còn… phán :Chồng giân thì vợ làm lành/ Miệng cười hớn hở rằng anh giận gì?…Bởi thế, biết bao thân phận phụ nữ một đời phung phí bởi những nỗi đau!!

    Không phải chỉ riêng đàn ông Việt hành hạ vợ, ngay cả các nước Tây Phương tự hào văn minh, phụ nữ vẫn bị bạo hành. Người Pháp thường nói: Chớ đánh phụ nữ, dù bằng một cành hoa!…Thế nhưng có kẻ vũ phu đánh vợ bằng…bình hoa!

    Luật nước Anh cấm đánh vào mặt vợ, hoặc dùng roi to hơn ngón tay cái của người chồng. Mỹ tôn trọng phụ nữ vẫn xẫy ra nhiều vụ người vợ bị chồng hành hạ. Mãi đến năm 1994, Quốc Hội Mỹ mới thông qua luật “Violence Against Woman Act”. Chồng bạo hành vợ dễ vào tù…Thế mà các vụ bạo hành vợ vẫn chiếm tỷ lệ khoảng 20%.

    Thế giới phát triển, văn minh kỹ thuật với những phương tiện thông tin giúp cộng đồng nhân loại gần nhau hơn. Vai trò phụ nữ được nâng cao do sự tham gia vào nhiều lãnh vực đời sống. Người phụ nữ Miến Điện mảnh mai Aung San Suu Ky, nhưng ý chí sắt thép kiên cường tranh đấu cho dân chủ tự do làm thế giới ngưỡng mộ. Cô gái 16 tuổi Malala người Pakistan tượng trưng cho lòng can đảm, khát vọng đòi hỏi phụ nữ quyền được học hành trong các quốc gia Hồi Giáo…Trong vài quốc gia như Brasil, Chile, Germany, Korea, Thailand…Phụ nữ trở thành nguyên thủ quốc gia…Bà Christine Lagarde làm Chủ tịch Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF)…Tại Mỹ, bà Janet Yellen là phụ nữ đầu tiên đảm nhận trọng trách Chủ tịch Quỹ Dự Trữ Liên Bang Mỹ (Fed). Hai phụ nữ nắm mạch máu tiền tệ thế giới. Quyền lực áp đảo thiên hạ…..

    Năng lực phụ nữ rõ ràng không hề thua nam giới. Có phụ nữ quá lạc quan tin tưởng… chế độ mẫu hệ sẽ dần thay phụ hệ. Phụ hệ là nguyên nhân sinh ra những người chồng ngu đần ích kỷ chỉ biết bày tỏ quyền lực với vợ một cách thô bạo! Đã kém cỏi, lại đòi “”Dậy vợ từ thuở bơ vơ mới về”.

    Hậu quả tất yếu là cảnh “gà mái đá gà cồ” xẩy ra khá nhiều. Tại Mỹ, Canada…Tỷ lệ chồng bạo hành vợ và ngược lại gần như ngang nhau khoảng dưới 10%…

    Trước nghịch lý về nạn bạo hành gia đình, các nhà khoa học, cùng là tâm lý xã hội ra công nghiên cứu. Thường vợ bạo hành chồng vì những lý do:

    Chồng quá nhu nhược, thiếu nam tính.
    Nghiện rượu (ít xẩy ra với phụ nữ Việt)
    Xáo trộn hormon sinh dục gây tâm tính bất thường (mood swings disorder).
    Sống thiếu thực tế, mơ mộng viển vông. Mơ những điều người chồng không thể đáp ứng liên quan đến công danh, tiền bạc…và cả yếu tố sinh lý. Đây là trường hợp xáo trộn tâm lý ( psychological disorder)
    Sống với nhau lâu ngày đâm chán. Muốn bỏ chồng nhưng có thể do lễ giáo, con cái ràng buộc nên…hành chồng cho đỡ tức!
    Ngón võ đầu tiên phụ nữ thường sử dụng là Nói. Có người lầm tưởng nói không phải một cách bạo hành. Thực sự lại là ngón võ vô cùng tàn độc. Nói dai nói dài nói hành nói mỉa…Chê bai đủ thứ , nào là bất tài vô tướng, có khi chê cả chuyện bất lực…chiếu giường!! Dần dần, khi người chồng nhu nhược phản ứng, bạo lực xẩy ra…. Có người chồng nhường nhịn né tránh, hoặc can đảm…chịu đòn cho vợ bớt giận. Cũng có ông sức yếu đỡ gạt không nổi vỡ đầu u trán. Kinh khủng nhất, có trường hợp vợ trở thành …”thiến tặc”, trảm ngay súng ngắn…Thế là đại họa vô lường!!

    Đàn ông bị vợ hành lâu ngày sẽ tổn thương tinh thần lẫn thể xác, rơi vào trạng thái lo âu trầm cảm, mất tự tin. Rồi vì sĩ diện, vì muốn bảo vệ gia đình, hoặc vì vẫn yêu vợ…thường không dám hé môi than vãn…Khi không còn sức chịu đựng, gia đình đổ vỡ!

    Không ai có thể thống kê, nhưng thực tế số đàn ông sợ vợ ngày càng đông. Có người đùa dỡn gọi họ là thành viên của HOISOVO! Văn vẻ hơn, gọi họ là con cháu của Triết gia Socrates (469-399 BC). Socrates có bà vợ dữ hơn chằng tinh, thế mà ông vẫn cam chịu….gọi là nhẫn nhục. Ông từng nói: Nếu bạn có vợ hiền, bạn hạnh phúc. Nếu ngược lại, bạn sẽ thành …triết gia! (If you get a good wife, you’ll be happy. If you get a bad one, you’ll become a philosopher)…Thế nhưng có biết bao đàn ông sợ vợ trong khi số triết nhân phỏng được mấy người !…

Cà phê Đen
Trang 125 của 151 Đầu tiênĐầu tiên ... 2575115123124125126127135 ... CuốiCuối

Đánh dấu

Đánh dấu

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •  
.::Thăng Long Kỳ Đạo::.
  • Liên hệ quảng cáo: trung_cadan@yahoo.com - DĐ: 098 989 66 68