Warning: Illegal string offset 'name' in [path]/includes/functions.php on line 6845
Cà phê Đen - Trang 134
Close
Login to Your Account
Trang 134 của 151 Đầu tiênĐầu tiên ... 3484124132133134135136144 ... CuốiCuối
Kết quả 1,331 đến 1,340 của 1510

Chủ đề: Cà phê Đen

  1. #1331
    Ngày tham gia
    Jun 2012
    Bài viết
    1,779
    Post Thanks / Like

    Mặc định Cà phê ở Wien

    Có dịp đến thủ đô của nước Áo nhất định phải đi uống cà phê. Quán cà phê ở Wien là một truyền thống văn hóa rất độc đáo. Vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, nhiều quán cà phê ở Wien là nơi lui tới của giới văn nghệ sĩ và khoa học gia. Nhiều nhà văn đã sáng tác ngay trong quán cà phê, tạo nên dòng văn học mà ngày nay người ta gọi là “dòng văn học cà phê”, những nhà văn đó được gọi là “nhà văn quán cà phê”.



    Quán cà phê Central.


    Vào quán có thể gọi một ly “Kleiner Brauner”, một ly nâu nhỏ, là loại cà phê đậm đặc tương tự như espresso có thêm kem sữa. Hay dùng thử một ly “Melange” pha nửa cà phê nửa sữa? Món uống “đặc sản” trong quán cà phê Wien là “Einspänner”, một ly cà phê đen lớn, có kem sữa và rắc đường mịn như bột ở phía trên. Ly cà phê sẽ được mang ra trên một cái khay bằng bạc có thêm một ly nước lã, trên đó có một cái thìa, và người phục vụ sẽ không hề chào mời dùng thêm bánh ngọt nhưng anh ta sẽ có mặt khi cần thêm một ly nước hay khi người ta gọi anh bằng một câu “Xin lỗi!” lịch sự.

    Có thể ngồi hằng giờ trong một quán cà phê ở Wien để đọc báo dưới ánh sáng vàng của những chiếc đèn treo trên trần, trong tiếng lách cách của bàn bi da, tiếng rì rầm nho nhỏ của những người khách, tiếng kêu xì xì của những chiếc máy pha cà phê và trong mùi hương kín đáo của cà phê, thuốc lá và nước hoa.

    Một quán cà phê Wien nguyên thủy phải như vậy, nơi lui tới của những người “cần xã hội để cô đơn”, “nơi của những người phải giết thời gian để đừng bị nó giết chết” như nhà văn, dịch giả Alfred Polgar (1873-1955) đã từng nói. Bàn về quán Café Central trong quận 1 của Wien, ông cũng đã từng nói rằng đó là “một thế giới quan mà nội dung thầm kín nhất là không nhìn ra thế giới. Vì nhìn thấy được cái gì?”

    Thật ra thì người ta có thể nhìn được nhiều thứ trong quán Central đã được phục hồi lại đấy chứ. Gần như không một quán cà phê nào khác ở Wien lại lộng lẫy hơn: Trần vòm nhọn cao có bích họa trang trí, cột bằng đá hoa cương, đèn treo sang trọng, băng ghế được bọc vải hồng với nhiều đường nét trang trí, góc ngồi nhỏ với những cửa sổ để quan sát người khác và ở cửa ra vào là bức tượng của nhà văn Peter Altenberg (1859-1919) bằng giấy bồi, người khai địa chỉ của quán cà phê này làm địa chỉ cư ngụ chính thức. Cuối thế kỷ 19, khoảng thời gian được gọi là fin de siècle, Café Central là nơi gặp gỡ của giới tinh hoa Wien. Ở đây có đến 250 tờ báo bằng 22 thứ tiếng. Karl Kraus (1874-1936), một trong những nhà văn và nhà báo người Áo nổi tiếng nhất của thế kỷ 20, đã có ý tưởng cho nhiều tiểu luận sắc bén tại đây, nhà văn Franz Kafka (1883-1924) đã thảo luận về triết học ở đây với người bạn của ông là nhà văn Max Brod (1884-1968) và Leon Trotsky cũng là một người khách đánh cờ quen thuộc, nhưng dưới tên trong khai sinh của ông.



    Tượng nhà văn Peter Altenberg trong Café Central.

    Tất cả những cái đó đã qua lâu lắm rồi, giới văn sĩ thời nay đã chuyển sang quán Café Bräunerhof (số 2 Stallburggasse trong quận 1), nơi nhà văn Thomas Bernhard (1931-1989) đã là khách quen thuộc. Đến Café Central ngày nay chủ yếu là khách du lịch. Họ gọi to “à” và “ồ” rồi bấm máy ảnh số và chăm chú lật những quyển sách hướng dẫn du lịch thay vì đọc báo. Số phận quán Café Griensteidl ở tại Michaelerplatz đối diện với Cung điện hoàng đế cũng vậy. Đây là nơi nhà văn người Áo-Do Thái Theodor Herzl (1860-1904) phác thảo tác phẩm “Nhà nước Do Thái” nổi tiếng. “Café hoang tưởng” là tên gọi châm biếm thời đó cho cái quán cà phê của nghệ sĩ này, nơi lui tới của Arthur Schnitzler (1862-1931) và Hugo von Hofmannsthal (1874-1929), những nhà văn đại diện cho Wiener Moderne – phong trào văn học Hiện đại Wien, cũng như của các nhà soạn nhạc Hugo Wolf (1860-1903) và Arnold Schönberg (1874-1951).

    Khi quán cà phê Griensteidl cổ xưa trong dinh Dietrichstei bị giật sập năm 1897, nhà văn Karl Kraus đã than vãn rằng: “Nền văn học của chúng ta đang đối mặt với một thời kỳ vô gia cư, dòng chỉ sản xuất thơ văn đã bị cắt đứt đi một cách tàn nhẫn”. Nói rồi ông, cũng như nhiều người khác, “dọn nhà” sang quán Central. Bây giờ vào quán Griensteidl mới tái khai trương năm 1990 nhiều du khách đã trang bị bàn ghế trông có vẻ cũ kỹ đánh lừa. Quán Café Museum (số 6 Friedrichstraße thuộc quận 1) cũng vậy. Khai trương năm 1899, quán này đã là nơi lui tới thường xuyên của các nhà văn Franz Werfel (1890-1945), Robert Musil (1880-1942), Hermann Broch (1886-1951), Georg Trakl (1887-1914) và Elias Canetti (1905-1994), của họa sĩ Gustav Klimt (1862-1918) và nhiều nghệ sĩ khác thuộc nhóm Ly khai Wien, là nhóm đã tạo một phong cách riêng biệt của Tân Nghệ thuật. Quán được xây lại năm 1930, thời gian gần đây trang trí bên trong đã được phục hồi theo phiên bản nguyên thủy của kiến trúc sư Adolf Loos (1870-1933) nổi tiếng. Chỉ có điều là thời nay đường nét đơn giản của kiến trúc sư Loos không còn mang tính cách mạng nhiều như ngày xưa nữa, thời mà Hoàng đế Franz Josef đã phải cho đóng ván che kín những cánh cửa sổ của cung điện nhìn xuống Michaelerplatz để không phải nhìn thấy một ngôi nhà do kiến trúc sư Loos xây. Những người khách quen của Café Museum thường hay nhớ đến trang bị nội thất mang tính viễn tưởng thời thập niên 1930 của nhà thiết kế và kiến trúc sư Josef Zotti (1882-1953), cả những chiếc ghế ngồi không thoải mái và người phục vụ bẳn tính đến mức đã trở thành huyền thoại nữa. Chúng đã được mang vào viện bảo tàng năm 2003. Ít ra thì có thể tham quan bàn ghế trong Viện bảo tàng Hofmobilien và người phục vụ cáu gắt thì cũng có ở nhiều nơi khác.



    Nhà Loss, ngôi nhà gây sốc ngay trong trung tâm Wien. Hoàng đế Franz Josef đã cho đóng ván che kín những cửa sổ của cung điện nhìn ra ngôi nhà này và từ đấy cho đến cuối đời không bao giờ dùng lối vào cung điện ở Michaelerplatz nữa để không phải nhìn thấy "căn nhà kinh tởm" này.


    Nhưng nguyên thủy còn lại ở đâu? Người hoài cổ nên đến Diglas (số 10 đường Wollzeile quận 1), nơi còn có những món đồ ngọt tuyệt diệu nhất của Wien. Trong Café Sperl (số 11 Gumpendorfer Straße thuộc quận 6), cũng đã là nơi lui tới của nhiều nghệ sĩ thuộc nhóm Ly khai Wien, gần như tất cả đều như cũ, và việc cấm sử dụng điện thoại di động cũng mang lại sự yên tịnh dễ chịu. Thay vào đó người ta có thể lướt web không dây: truyền thống và hiện đại không nhất thiết phải cắn nhau. Cũng cổ xưa tuyệt vời như vậy là Café Eiles ở số 2, Josefstädterstraße trong quận 8.

    Đứng hàng đầu trong số các quán cà phê huyền thoại của Wien vẫn là Hawelka. Năm 1958 nhà thơ, nhà văn H. C. Artmann (1921-2000) đã gọi cái quán tối tăm đầy khói thuốc lá trong ngõ mang tên Dorotheergasse (quận 1) là “quán cà phê đẹp nhất”. Lúc đó, quán này đã có gần 20 năm và được nhiều văn nghệ sĩ ưa thích vì Hawelka chưa từng được sửa chữa một lần. Cho đến ngày nay tất cả đều như ngày xưa, với băng ghế đỏ, bàn bằng đá hoa cương và khay mạ nickel.



    Quán cà phê Hawelka.

    Bà Josefine Hawelka đã khéo léo sắp xếp khách ngồi để cho nhiều con tim cô đơn tìm đến với nhau. Lúc bà qua đời năm 2005 sau khi cùng với chồng là Leopold Hawelka dẫn dắt quán cà phê suốt 66 năm trời, tất cả các tờ báo tại Wien đều đồng loạt đăng tin này trên trang nhất: Đã mất đi một phần lịch sử văn hóa Wien. Cho đến ngày nay, ông chủ quán Leopold vẫn ngồi chào khách đến ngay tại lối ra vào, mặc dù ông đã gần 100 tuổi. Và bây giờ người cháu Amir đang tiếp tục làm loại bánh Buchteln huyền thoại của cố bà chủ Josefine, cũng là người sẽ tiếp nhận quán cà phê này. Tức là du khách vẫn có thể tiếp tục đến đây để tìm “người khỏa thân trong Hawelka”, cho đến nay hình tượng này chỉ có trong bài hát “Jo, schau” năm 1976 của Georg Danzer (1946-2007) mà thôi.

  2. Thích Kiem_Nhat, kt22027, Tontu, tamthaplucke, ChienKhuD, Aty, huyenmapu đã thích bài viết này
  3. #1332
    Ngày tham gia
    Jan 2010
    Bài viết
    1,540
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Thấy mấy quán cà phê của bác Lâm mê quá. Giá gì có dịp ghé qua dù 1 lần.
    Coi phim Mỹ thấy mấy cái quán thời người hùng Texas có cái cửa ra vô 2 mảnh. Lúc đi vô ra đẩy nó rồi nó tự động đóng lại. Ngày đến Mỹ cũng được dẫn đi uống cà phê với cái quán như vậy ở Iowa. Lòng bồi hồi như đang ngồi trong quán thời nước Mỹ còn nội chiến. Nhìn người Mỹ họ uống cà phê noí chuyện rất xôm. Chỉ là vì lần đầu uống cà phê của Mỹ cho nên chưa thấy được cái hượng vị ngon của cà phê. Sau thời gian ngắn uống gần quen mới thấy à thì ra loại này cũng có cái ngon của nó. Chỉ là cái ly cà phê to hơn bình thường. Nhưng với 60 cents thời đó mà ngồi quán nhâm nhi thì sướng lắm lận.

    Bây giờ lại thấy mấy quán cà phê của bác Lâm chợt nghĩ giá gì.. . Hi hi, lòng tham nỗi dậy rồi.

    Cuối tuần rồi, các bác xả xì-trét nhé.

    Cầm lên được tất bỏ xuống đươc.

  4. Thích Kiem_Nhat, kt22027, ChienKhuD, Tontu, Thợ Điện, huyenmapu, tamthaplucke đã thích bài viết này
  5. #1333
    Ngày tham gia
    Jun 2012
    Bài viết
    1,779
    Post Thanks / Like

    Mặc định Ca ve

    Trước hết, thử nói về chữ “cavalière”. Ngày xưa ở Pháp, vào đầu thế kỷ 17, “cavalier” (giống cái là “cavalière”) có nghĩa là “người cưỡi ngựa” (homme monté à cheval), rồi chữ này mang thêm nghĩa là “người đàn ông lịch lãm, một trang nam tử” (galant homme, homme du monde). Đến năm 1688 thì nó lại thêm nghĩa là “người đàn ông tháp tùng một phụ nữ” (celui qui accompagne une dame), và đến năm 1690 thì nó có thêm nghĩa là “người đàn ông khiêu vũ với một phụ nữ” (celui qui danse avec une dame). Sau đó, chữ “cavalier” được dùng cho cả phái nữ (gọi là “cavalière”), và có nghĩa là “người bạn khiêu vũ”. Trong một đôi nam-nữ khiêu vũ, thì người nam là “cavalier”, người nữ là “cavalière”.

    Đầu tiên, chữ “cavalière” theo người Pháp sang Hà Nội, rồi xuống Sài Gòn. Người Pháp yêu thích khiêu vũ như một thú tiêu khiển thanh lịch. Buổi tối, sau khi ăn những món ngon miệng và uống vài cốc rượu, với cảm giác lâng lâng, từng đôi nam-nữ “cavalier”/“cavalière” mời nhau ra sàn nhảy. Thế nhưng, không phải lúc nào và không phải ai cũng có sẵn người tình của mình để làm bạn khiêu vũ, nên đôi khi họ phải mời một người nào đó cùng khiêu vũ với mình. Nhưng nếu không có ai ngồi một mình để mời, thì tính sao? Thì đành phải uống rượu trong sự cô đơn và xem thiên hạ khiêu vũ dập dìu chung quanh chứ sao!

    Có cầu, ắt có cung. Thế là sinh ra một cái nghề mới ở Việt Nam, đó là nghề “vũ nữ”. Khác với “vũ công” trong các đoàn múa chuyên nghiệp, “vũ nữ” là người có khả năng khiêu vũ nhưng không sống bằng nghề trình diễn trên sân khấu mà sống bằng một nghề khác: ban đêm họ đến ngồi uống nước lai rai ở các phòng trà để chờ người đến mời mình làm bạn khiêu vũ và cho tiền thưởng.

    Để được nhiều người mời khiêu vũ thì trước hết phải có nhan sắc, và tất nhiên phải có khả năng khiêu vũ điêu luyện và gợi cảm. Ai vừa có sắc vừa có tài thì được rất nhiều khách hâm mộ. Trong những năm 40, ở Hà Nội có những vũ nữ nổi tiếng tài sắc như cô Lý Lệ Hà (hoa khôi áo lụa Hà Đông), cô Mộng Điệp... Tài sắc của họ khiến bậc quân vương như Bảo Đại cũng phải say mê.

    Thuở ấy, nhạc sĩ Phạm Duy chơi nhạc ở một trong hai phòng trà đầu tiên ở Hà Nội là Quán Thiên Thai ở phố Hàng Gai. Theo lời ông kể, ông có dan díu và sống chung với một vũ nữ của phòng trà Hanoi Bar. Nàng tên là Định. Năm 1946, trong thời gian sống cung với nàng, ông đã sáng tác bài “Tình Kỵ Nữ”. Trong tập Ngày Đó Chúng Mình Yêu Nhau của Phạm Duy in tại Sài Gòn năm 1970, nhan đề của ca khúc này được in là “Tình Kỵ Nữ”, nhưng trong những năm gần đây lại thấy có nơi ghi là “Tình Kỹ Nữ”.

    Nhan đề “Tình Kỵ Nữ” thật là thú vị, vì chữ “kỵ nữ” là do Phạm Duy dịch từ chữ “cavalière” mà ra. Sau này, khi bài hát “Tình Kỵ Nữ” đã bị các ca sĩ tự ý đổi thành “Tình Kỹ Nữ”, thì Phạm Duy có giải thích: “Ðáng lẽ ra, phải gọi bài này là TÌNH KỊ NỮ thì mới đúng với nghề ‘cavalière’ tức là nghề ‘taxi girl’ của nàng.

    Lời giải thích của Phạm Duy thật thú vị ở chỗ ông dịch “cavalière” thành “kỵ nữ”, nhưng cũng dở ở chỗ ông cho rằng nghề “cavalière” tức là nghề “taxi girl”. Đúng ra, “cavalière” đâu phải là “taxi girl”. Chữ “taxi girl” bắt đầu xuất hiện ở Cambodia từ trước những năm 50, để chỉ những cô gái hành nghề mại dâm cá nhân, chuyên đón khách ở các công viên, quán nhậu, phòng trà... (chứ không phải làm việc trong những ổ mại dâm), và những cô “taxi girl” thì không có tài khiêu vũ như các “cavalière” chuyên nghiệp, và chắc hẳn phần lớn cũng không thể sánh với các “cavalière” chuyên nghiệp về nhan sắc.

    Phạm Duy đã mô tả nhan sắc nàng “cavalière” Định như sau: “Vũ nữ Định đẹp một cách lộng lẫy, trông như con gái nhà lành. Hơn thế nữa, trông như con nhà quyền quý.

    Hiển nhiên nàng “cavalière” Định không phải là “taxi girl”, vì sau khi làm công việc khiêu vũ với khách ở phòng trà Hanoi Bar, nàng về nhà ở Phố Hàng Gai với Phạm Duy, chứ không hề đi lang thang... bắt khách.

    Những năm 50, 60 ở Sài Gòn cũng có những “cavalière” rất nổi danh về tài sắc, như Cẩm Nhung của vũ trường Kim Sơn, chẳng hạn. Báo chí Sài Gòn thời đó thường ca ngợi nhan sắc và đôi chân dài điệu nghệ của “nữ hoàng vũ trường” Cẩm Nhung. Đầu những năm 70, một “cavalière” khác cũng nổi danh tài sắc là cô Ánh Hoa của vũ trường Văn Cảnh...

    Nhắc lại những chuyện ngày xưa, tôi muốn nói rằng các “cavalière” ở Hà Nội những năm 40, và ở Sài Gòn từ những năm 50 đến trước năm 75, là những vũ nữ chuyên nghiệp, có tài sắc. Họ có thể sống lãng mạn buông thả và vương vào nhiều mối tình rắc rối, éo le, bi thảm... nhưng họ không phải là những cô gái mại dâm. Họ hoàn toàn khác với những cô “cave” trong những thập kỷ gần đây ở Việt Nam.

    trên tờ Đời Sống & Pháp Luật mô tả hình ảnh những cô “cave” ở Hà Nội thời bây giờ như sau:

    “... Ẩn hiện sau mỗi gốc cây là những cô cave hết ‘đát’, quần áo nhầu nhĩ, son phấn lòe loẹt. Với họ chỉ cần một manh chiếu hẹp cùng với hơn 100.000 đồng là có thể ‘hành sự’ giữa ‘khách sạn ngàn sao”...; “... các ả cave ở các gốc cây túa ra nườm nượp, chào mời, tiếng cười khanh khách đến rợn người. Có những cô còn dè chừng vẫn núp trong những bụi cỏ cất tiếng gọi mời the thé...”; “... Để đề phòng và giả làm người dân bình thường đi dạo công viên, cô nào cô đấy cũng kín bưng trong bộ áo chống nắng chỉ khi có khách mới ló mặt, cởi cúc để lộ bộ quần áo hở hang đến nửa khuôn ngực...”; “... Mùi son phấn rẻ tiền quyện với mồ hôi nhớp nhúa sộc lên khiến tôi khó chịu. Gương mặt trát đầy phấn mà tôi tưởng như mỗi lần chị gái nhếch mép, trề đôi môi ra là tảng phấn son kia rụng lả tả. Cuộc ngã giá chóng vánh bắt đầu. 150.000 một cuốc tàu nhanh, bao cao su đầy đủ, hành sự ngay tại ‘công viên ngàn sao’ phía đằng sau. Nếu khách muốn vào nhà nghỉ, thì tiền phòng tự trả..

    Vậy thì quá hiển nhiên rằng “cave” ở Hà Nội thời bây giờ là những cô gái điếm mạt hạng, hoàn toàn khác với những cô “cavalière” tài sắc ở Hà Nội những năm 40 và ở Sài Gòn từ những năm 50 đến trước năm 75.

    Ngày xưa có ông Đại thi sĩ hứa hẹn với giới cave sau này đời sẽ khá hơn bằng những lời đẹp đẽ như sau

    Bài thơ có những câu:

    ... Ngày mai cô sẽ từ trong ra ngoài
    Thơm như hương nhụy hoa lài
    Sạch như nước suối ban mai giữa rừng.
    Ngày mai gió mới ngàn phương
    Sẽ đưa cô tới một vườn đầy xuân
    Ngày mai trong nắng trắng ngần
    Cô thôi sống kiếp đày thân giang hồ
    Ngày mai bao lớp đời dơ
    Sẽ tan như đám mây mờ đêm nay
    Cô ơi tháng rộng ngày dài
    Mỏ lòng ra đón ngày mai huy hoàng...


    Thôi đừng hót mãi lời chim chóc

  6. #1334
    Ngày tham gia
    Oct 2010
    Bài viết
    1,270
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Sáng nay ra vườn thấy các búp của cây đào bắt đầu ra hoa, nhớ là gần Tết rồi. Mời các bác xem hình hoa đào sau vườn, hình chụp hai năm trước.



    hoa đào sau một trận mưa Đông.
    Lần sửa cuối bởi roamingwind, ngày 19-01-2014 lúc 01:22 AM.
    Anh có thể biết tôi, tạm gọi là vậy, qua ngọn gió trên đồi
    Anh sẽ không biết tôi bằng danh xưng nào khác.

    You can know me, if you will, by the wind on the hill
    You'll know me by no other name.
    (No Other Name - Peter, Paul and Mary)

  7. #1335
    Ngày tham gia
    Jan 2010
    Bài viết
    1,540
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Hoa tàn sau cơn mưa hả bác Wind ?


    Và đây là hoa nở sau cơn mưa :










    Hi hi...
    Cầm lên được tất bỏ xuống đươc.

  8. #1336
    Ngày tham gia
    Oct 2010
    Bài viết
    1,270
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Trích dẫn Gửi bởi Aty Xem bài viết
    Hoa tàn sau cơn mưa hả bác Wind ?
    Bông người ta như vậy mà ông gọi là tàn !!

    Cho ông xem thế nào là bông nở. Lan đất.




    Lần sửa cuối bởi roamingwind, ngày 19-01-2014 lúc 03:58 AM.
    Anh có thể biết tôi, tạm gọi là vậy, qua ngọn gió trên đồi
    Anh sẽ không biết tôi bằng danh xưng nào khác.

    You can know me, if you will, by the wind on the hill
    You'll know me by no other name.
    (No Other Name - Peter, Paul and Mary)

  9. #1337
    Ngày tham gia
    Jun 2012
    Bài viết
    1,779
    Post Thanks / Like

    Mặc định Sinh chó

    Nguyễn Bảo Sinh, sinh năm 1940, sống trong một gia đình đã định cư nhiều đời ở Hà Nội. Thời trẻ, ông từng đi lính, từng là võ sư Judo. Từ trẻ đến già, Nguyễn Bảo Sinh chỉ ở số 30, ngõ 167 Trương Định (ngõ Bảo Sinh). Gần như suốt đời không hề chuyển dịch đi đâu, luôn ở cùng gia đình, xung quanh có vợ con, anh em, họ hàng, bè bạn nhưng ông luôn tự nhận mình là một tay sống trong giang hồ(!), một người tu tại gia(!).

    Nguyễn Bảo Sinh từng có hỗn danh là Sinh chó. Việc này duyên do từ chuyện có thật:

    Hồi bé, vốn tính ngỗ ngược, thân phụ ông là cụ Nguyễn Hữu Mão (năm nay 95 tuổi, cũng là người rất hay thơ) có lần tức giận bảo rằng:
    - Lớn lên thì chó nuôi mày!
    Một lời ra là một vận vào! Lời nguyền của người cha tự nhiên vận vào số phận đứa con. Từ nhiều năm nay Nguyễn Bảo Sinh vẫn sống bằng nghề nuôi chó mèo cảnh, nuôi gà chọi, cũng có khi làm hậu cần cho các xới chọi gà khắp một vùng nội ngoại thành Hà Nội.

    Làm thơ, nuôi chó, chọi gà
    Ba trò chơi ấy làm ta bơ phờ
    Suốt ngày nửa tỉnh, nửa mơ
    Trông ai cũng thấy nửa thơ nửa gà!


    Nguyễn Bảo Sinh khá điển hình cho một dạng nhà thơ dân gian vốn tồn tại từ xưa đến nay ở nhiều nơi trên thế giới. Trí tuệ dân gian thông qua hình thức nói vần được truyền khẩu nhiều khi biến thành ca dao, tục ngữ, thành lời các bài hát dân ca. Có thể nhận ra đặc tính chính của lối thơ này là ở chỗ luôn ngẫm sự đời để từ đó rút ra những kinh nghiệm sinh tồn, những kinh nghiệm sống. Việc ngẫm sự đời ấy dựa trên những quan sát trực tiếp ở những ngành nghề, ở những hoàn cảnh nhiều khi rất lạ lùng, hiếm có. Nhà thơ dân gian là người trực tiếp ở trong cuộc, trực tiếp lội xuống bùn để bắt những con cá chân lý trong cuộc sống. Yếu tố kinh nghiệm cá nhân không thể chia sẻ cho ai được đã làm nên nhiều sự bất ngờ và độc đáo của lối thơ này.

    Khi yêu cái xích dưới chân
    Thì xiềng xích ấy là thần Tự do!
    Tự trói thì gọi là tu
    Bị trói thì gọi là tù mọt gông!
    Mê là mê theo cách mê của người
    Ngộ là mê theo cách mê của mình.
    Tự do sướng nhất trên đời
    Tự lừa lại sướng hơn mười tự do!


    Khi mê bùn chỉ là bùn
    Ngộ ra mới biết trong bùn có sen
    Khi mê tiền chỉ là tiền
    Ngộ ra mới biết trong tiền có tâm
    Khi mê dâm chỉ là dâm
    Ngộ ra mới biết trong dâm có tình
    Khi mê tình chỉ là tình
    Ngộ ra mới biết trong tình có dâm!


    Lối nghĩ dân gian nôm na (nôm na là cha mách qué) dựa trên những nghịch lý oái oăm trong cuộc sống. Phát hiện ra những nghịch lý ấy, hiểu được nó khiến người ta nhiều khi lâm vào tình trạng dở khóc dở cười:

    Con ta không phải của ta
    Tai họa của nó mới là của ta
    Của chìm của nổi trong nhà
    Của ta rồi sẽ lại là của con
    Con ta không phải của ta vì nó không phải của nó.

    Vợ là thánh chỉ vua ban
    Có sao dùng vậy không bàn đúng sai!

    Làm thơ anh chỉ nghiệp dư
    Hội thơ chuyên nghiệp họ chưa cho vào
    Yêu em anh cũng nghiệp dư
    Hội yêu chuyên nghiệp họ chưa cho vào!


    Trong thơ của Nguyễn Bảo Sinh có yếu tố Phật giáo (mới chỉ là yếu tố Phật giáo chứ chưa phải là tư tưởng Phật giáo). Yếu tố thiền đôi lúc đã xóa đi những ranh giới thị phi trong cuộc đời gây nên những hiệu quả bất ngờ khá độc đáo:

    Cùng chung một chuyến đò ngang
    Kẻ thì sang bến người đang trở về
    Lái đò lái mãi thành mê
    Sang về chẳng biết mình về hay sang?


    Không phải tự nhiên mà Nguyễn Bảo Sinh đặt tên cho những bài thơ truyền khẩu của mình là huyền thi. Điều ấy có phần nào đúng. Vì sao vậy? Vì tôi nghĩ thơ của Nguyễn Bảo Sinh chưa phải thơ thiền. Nếu là thiền thực thì trong nội dung thơ đương nhiên sẽ hết ý nghĩa sâu sắc hoặc không sâu sắc (sâu sắc cũng vô nghĩa lý mà không sâu sắc cũng vô nghĩa lý). Thơ của Nguyễn Bảo Sinh mới chỉ mang yếu tố thiền, đang tiến tới thiền. Đấy là thiền giả chứ chưa thiền thật. Sự thú vị của Nguyễn Bảo Sinh là ở đấy. Đấy cũng là nét đặc biệt của văn học dân gian, nghệ thuật dân gian. Tính không chuyên nghiệp nửa đời nửa đoạn của văn học dân gian, nghệ thuật dân gian gắn liền với đời sống và số phận nửa giăng nửa đèn của chính những người sáng tạo ra nó. Sự ỡm ờ, nhập nhằng giữa chân lý và phi lý, thực và ảo, thị và phi, hay và dở cứ lẫn vào nhau, huyễn vào nhau. Trên thực tế, đã có nhiều người coi thường, coi khinh thơ của Nguyễn Bảo Sinh là không ra gì, vớ vẩn, nửa đời nửa đạo, nửa nạc nửa mỡ. Ở những bạn đọc tuân theo nguyên tắc bất nhị thì sự phản ứng của họ cũng rất dễ hiểu. Họ không biết rằng văn học dân gian, nghệ thuật dân gian hình thành ở chính sự nhập nhằng vớ vẩn đó. Tỉ như ở trò kéo co: mấy người nắm lấy sợi dây chia ra hai phe, buông dây cười xòa sẽ là trò vui, nhưng trong trường hợp hoàn cảnh nào đấy sẽ là được thua, sẽ là sinh tử, là tranh chấp đầu rơi máu chảy. Trò chơi dân gian, nghệ thuật dân gian ai cũng chơi được, xú xí, xí xóa cũng được nhưng cũng có thể nghiêm trọng hóa nó cũng được. Truyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn là văn học dân gian, nghệ thuật dân gian. Khi có một bàn tay chuyên nghiệp dúng vào, thôi xao cho nó thì nó sẽ có một ý nghĩa khác đi nhiều.

    Khi đọc Nguyễn Bảo Sinh, bạn đọc dễ có liên tưởng đến thơ Bút Tre. Tôi nghĩ, xét cho cùng, Bút Tre cũng là một kiểu thơ dân gian, nghệ thuật dân gian. Ở thơ Bút Tre, kiểu nửa giả nửa thật trộn lẫn giữa hình thức và nội dung gây nên hiệu quả rất độc đáo:

    Hoan hô đại tướng Võ Nguyên
    Giáp ta đánh trận Điện Biên lẫy lừng.
    Anh đi công tác Plây
    Cu dài dằng dặc biết ngày nào ra
    Con thuyền dịch đít sang ngang
    Trông ra thấy một cái làng xa xa.

    Ở Nguyễn Bảo Sinh, không có kiểu nửa giả nửa thật ấy mà ở đây tính chất nửa đời nửa đạo, nửa đúng nửa sai (của đời sống và chân lý đời sống) có phần nào rõ ràng hơn. Thơ Nguyễn Bảo Sinh không tếu như thơ Bút Tre. Thơ Nguyễn Bảo Sinh có vẻ nghiêm túc tìm chân lý hơn. Chính vì vậy nếu xét về phong độ (thơ) tôi nghĩ ở Bút Tre lớn hơn, phá đám hơn, ngầu hơn. Đọc thơ Bút Tre người ta cười to hơn. Đọc Nguyễn Bảo Sinh người ta cười nhỏ đi, đôi khi không cười mà chỉ à một tiếng: à ra thế, à là thế… Không phải tự dưng đã có trường phái thơ Bút Tre: sự châm biếm, tiếng cười là thứ rất dễ lây. Chính sự huyền thi (bãi miễn thơ) đã làm hại Nguyễn Bảo Sinh nhưng có lẽ chính sự hại ấy cũng không quan trọng gì đối với ông. Tôi nghĩ ông không phải là người cố ý làm thơ, càng không phải là người cố ý làm thơ để phổ biến hay truyền bá. Ông làm thơ như một cách ghi nhật ký, ghi lại những ý nghĩ bất chợt mỗi khi ông ngẫm ra một điều gì đấy trên cơ sở quan sát hiện thực và mỗi khi ông rút ra được kinh nghiệm gì đấy từ cuộc đời ông.

    Tôi khá bất ngờ và lý thú thấy Nguyễn Bảo Sinh ở tuổi U.67 vẫn có những bài thơ bay bướm kiểu:

    Yêu là nhớ ít tưởng nhiều
    Yêu là chẳng biết mình yêu cái gì
    Yêu nhau đâu bởi hàng mi
    Đắm say đâu phải chỉ vì đôi môi
    Yêu là yêu, có thế thôi…


    Tình yêu ấy, tôi nghĩ chính là tình yêu cuộc sống. Ông làm thơ cũng chính vì ông yêu cuộc sống.
    Tôi chắc ở nhiều nơi trên đất nước ta cũng có nhiều thi sĩ dân gian kiểu như Nguyễn Bảo Sinh. Họ yêu cuộc sống và họ làm thơ theo kiểu của họ. Rất tiếc tôi chưa có được nhân duyên gặp gỡ và đọc thơ họ. Nhưng cũng chẳng sao vì thực ra điều ấy với họ, với tôi cũng chẳng có gì quan trọng. Nhiều khi gặp gỡ lại là hệ lụy, thậm chí chắc chắn sẽ là hệ lụy, đúng như Nguyễn Bảo Sinh từng viết:

    Yêu sao giây phút hình như
    Cho nhau những cái còn chưa của mình
    Buồn sao hình chạm với hình
    Đôi bong bóng vỡ hồn mình chợt tan.


    Tôi viết bài này vì tình cảm quý mến của tôi với Nguyễn Bảo Sinh, vì nhân duyên gặp gỡ của tôi với ông thoắt cái thế mà đã 15 năm trời hết một đời Kiều lưu lạc, khi ấy tóc tôi còn xanh, chưa có một sợi bạc nào.

    Nguyễn Huy Thiệp

  10. #1338
    Ngày tham gia
    Jan 2010
    Bài viết
    1,540
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Trích dẫn Gửi bởi roamingwind Xem bài viết
    Bông người ta như vậy mà ông gọi là tàn !!

    Bông này cũng chưa tàn đâu nè bác Wind.


    Hình này mới chụp nhe bác.
    Cầm lên được tất bỏ xuống đươc.

  11. #1339
    Ngày tham gia
    Jun 2012
    Bài viết
    1,779
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Kéo cưa lừa xẻ
    Ông thợ nào khoẻ
    Về ăn cơm vua
    Ông thợ nào thua
    Thì về bú tí


    Chẳng biết ông thợ nào phải về bú tí .Ông suhsi hay ông mì hoành thánh .Lịch sử chứng minh suhsi chuyên nắm tiên thủ ,mì hoành thánh đánh với người nhà thì hay (như Tam quốc Chí,Hán Sở tranh hùng ) còn đụng với người ngoài như rợ Kim ,Mông Cổ,Nhật Bản toàn phải về bú tí





    Chiến tranh Trung - Nhật lần thứ nhất đã quyết định số phận Triều Tiên

    Với Phương Tây, chiến thắng của Nhật trong trận cảng Lữ Thuận với Nga (1904-05) là quan trọng hơn cả vì người Nhật lần đầu đã thắng 'người da trắng', nhưng với châu Á thì cuộc chiến Trung - Nhật (1894-95) lại có ý nghĩa sâu xa hơn.
    Trận chiến Giáp Ngọ (Jiawu) năm 1894 đánh dấu sự vươn lên của một nước 'đồng văn đồng chủng' với Trung Quốc nhưng sớm tự cường và bắt đầu bành trướng, hạ bệ nhà Thanh.
    Vì thua trận, Thanh triều phải ký hòa ước Mã Quan (1895) mà Phương Tây gọi là hòa ước Shimonoseki, lấy tên địa điểm ký kết tại thành phố phía Nam Nhật Bản và rơi vào các đợt nhượng bộ lãnh thổ ở phía Bắc với Nhật, Nga và các nước khác.
    Cuộc đọ sức về hải quân tuy nhỏ nhưng đã diễn ra theo đúng quy luật của trào lưu các nước công nghệ cao xâm lấn các nước lạc hậu trên toàn châu Á và để lại nhiều bài học đến ngày nay.

    Vỡ một trật tự

    Bắc Kinh phải bồi thường chiến phí cho Nhật và rút quân khỏi Triều Tiên, thừa nhận nước này không còn là chư hầu, tương tự như 10 năm trước khi nhà Thanh phải ký với Pháp hiệp ước Patenotre buông Việt Nam ra.
    Về mặt quân sự, không phải nhà Thanh không tìm cách tăng cường quân bị mà trái lại, Từ Hy Thái hậu đã hoàn toàn ý thức được sức mạnh của vũ khí Tây Phương.
    Ngay từ thời nội chiến với phe Thái Bình Thiên Quốc, quân Thanh đã có những chỉ huy như Charles Gordon ‘Chinese’, người Anh, và có các đơn vị được huấn luyện và dùng vũ khí Phương Tây.
    Quân Thanh thua Nhật trong trận đánh tại sông Áp Lục chính vì quá tự tin vào chiếm hạm Định Nguyên do Đức thiết kết và coi thường hải quân Nhật.



    Tượng ở Thành Đô kỷ niệm cuộc chiến Trung - Nhật lần thứ hai 1937-1945

    Tăng cường quân sự không thôi đã không đủ để Trung Quốc chiến thắng.
    Sau Chiến tranh Trung – Nhật lần một, Triều Tiên dần dần bị lệ thuộc vào Nhật Bản, rồi mất chủ quyền, trở thành thuộc địa bị Nhật khai thác tàn khốc.
    Triều đại Joseon của Triều Tiên, giống như nhà Nguyễn ở Việt Nam, đã mất nước vì chậm chân trong cuộc chạy đua hiện đại hóa.
    Ở cả hai nước này, vì giới cầm quyền không dứt được khỏi tư duy hệ thống nặng về Hán học, quan chế, lễ nghĩa nên xã hội đã không thể tiến lên được.
    Tại Hán Thành khi đó cũng có phái cải cách (như Nguyễn Trường Tộ ở Việt Nam) nhưng yếu hơn phe bảo thủ và hậu quả là hai phe đánh nhau (chính biến Gapsin), khiến Trung, Nhật có cớ can thiệp rồi chiếm đóng.
    Hàn Quốc ngày nay không còn như vậy nhờ họ quyết tâm tự cường sau nhiều cuộc chiến.

    Trên thực tế, bài học năm 1894 vẫn còn nguyên giá trị cho mọi quốc gia trong vùng.
    Một trật tự cũ gồm các mặt như thể chế, kinh tế và cán cân quân sự thường chỉ thay đổi khi có chiến tranh.

    Cẩn thận chiến tranh

    Trong lịch sử xung đột Trung Nhật, cuộc chiến Giáp Ngọ 1894 không phải là lần đầu tiên.
    Nhà Nguyên đã tấn công đảo Nhật Bản hai lần, vào năm 1274 và 1281 nhưng không thành.
    Sau trận chiến 1894, đế quốc Nhật chiếm toàn bộ Trung Hoa (1937-1945) và chỉ thất bại khi Hoa Kỳ và đồng minh vào cuộc.
    Nhìn chung Nhật Bản chưa bao giờ thua Trung Quốc, nước lớn hơn gấp bội, trong tất cả các trận đánh từ thế kỷ 13 đến nay.



    Nhà văn Nhật được giải Nobel, Kenzaburo Oe thăm bảo tàng Thảm sát Nam Kinh

    Điều này khiến một số nhà quan sát tin rằng một phần dư luận Trung Quốc có nhu cầu ‘rửa hận’, nhất là sau các tội ác chiến tranh quân đội Nhật Hoàng gây ra tại Trung Quốc vẫn để lại vết thương khó phai mờ cho người dân nước này.
    Một số tác giả như James Holmes tin rằng nếu xảy ra chiến tranh Trung Nhật lần nữa trong thế kỷ 21, đây sẽ là 'cơn ác mộng cho châu Á' (Asia's Worst Nightmare: A China-Japan War).
    Trong cuốn sách vừa ra, Bấm David Pilling đánh giá truyền thống ‘biến tàn phá thành sức mạnh’ của người Nhật và kết luận rằng đừng ai vội loại Nhật Bản ra khỏi cuộc chơi trong thế kỷ này cả về kinh tế và quân sự.
    Nước Nhật ngày nay đã khác xưa và đang là một nền dân chủ và người dân đa số yêu hòa bình.
    Hồi 2005, chính tòa tối cao Nhật còn cho một công dân Trung Quốc thắng kiện trong vụ kiện nhà văn cánh hữu Nhật, Matsumura Toshio tội bôi nhọ vì cuốn sách về Thảm sát Nam Kinh.
    Là quốc gia tự do, Nhật Bản cũng có những gương mặt khác như nhà văn được giải Nobel, ông Kenzaburo Oe đã viết cuốn sách khác hẳn về vụ thảm sát.
    Nhưng có thể chế dân chủ - chẳng hạn như Mỹ, Anh, Pháp - không có nghĩa là chính phủ không đem quân tham chiến hoặc gây chiến bên ngoài.
    Cùng lúc Trung Quốc cũng đang không chỉ tăng cường quân bị mà còn dùng truyền thông dân tộc chủ nghĩa để tăng tính chính danh cho hệ thống.

    "Không khí dân tộc chủ nghĩa nguy hiểm đang kéo đến với xã hội chúng ta"
    Nhà văn Kanzaburo Oe

    Cuộc chiến nào cũng cần một lý do cụ thể, thường là không quan trọng lắm nhưng lại xảy ra trong một bối cảnh quan trọng, để bùng nổ.
    Cuộc chạy đua vũ trang tại châu Á quả là đáng lo ngại vì các chính phủ nhiều khi tìm cách ‘chuyển lửa’ ra ngoài, thổi lên tinh thần dân tộc nhằm làm dịu đi bức xúc nội bộ vì tham nhũng hoặc khoả lấp đi bế tắc kinh tế.
    Nhiều trí thức, sử gia châu Á không làm gì để lý giải các vấn đề phức tạp này mà còn hà hơi tiếp sức cho thái độ cực đoan nhằm ghi điểm với dư luận.
    Ngoài nhu cầu năng lượng ngày càng tăng, châu Á đang có nhiều tranh chấp lãnh hải, đôi khi chỉ vì một vài mỏm đá, bãi san hô không người ở nhưng mang giá trị danh dự dân tộc, biểu tượng của sức mạnh trong cuộc đọ găng giành vị thế.
    Tính cố chấp của các bên liên quan thậm chí có thể khiến một khi xảy ra xung đột, Hoa Kỳ cũng chỉ có thể can dự ngắn hạn vì dư luận Mỹ không sẵn sàng ủng hộ lâu dài cho các tranh chấp khó hiểu với họ.
    Với Việt Nam, Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên, Đài Loan, Philippines thì vấn đề không phải chỉ là tự cường trước mắt mà các xã hội đó chọn định hướng gì nếu cục diện an ninh biến đổi nhanh trong quan hệ Trung – Nhật, kể cả khi xảy ra chiến tranh.
    Vì như đã thành quy luật, các xã hội nhỏ hơn sẽ luôn phải chọn những gì hoàn cảnh đưa lại khi các nước lớn có chuyện.

  12. #1340
    Ngày tham gia
    Oct 2010
    Bài viết
    1,270
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Trích dẫn Gửi bởi Aty Xem bài viết
    Bông này cũng chưa tàn đâu nè bác Wind.


    Hình này mới chụp nhe bác.
    Sân nhà ông đó hả. Nhìn đã phát lạnh hihi... ông Đ ngần ngại qua Phần Lan cũng đúng. Ỗng sợ mình sẽ như cây bông trong hình ... không phải cuốn theo chiều gió mà teo trong ngày đông.


    California thì ấm vô cùng. Cũng hình mới chụp hôm qua đây. Những búp đào mới nở










    Vợ hiền chụp. Chụp kỹ thuật như vầy tôi không cách chi.
    Lần sửa cuối bởi roamingwind, ngày 20-01-2014 lúc 01:03 AM.
    Anh có thể biết tôi, tạm gọi là vậy, qua ngọn gió trên đồi
    Anh sẽ không biết tôi bằng danh xưng nào khác.

    You can know me, if you will, by the wind on the hill
    You'll know me by no other name.
    (No Other Name - Peter, Paul and Mary)

Cà phê Đen
Trang 134 của 151 Đầu tiênĐầu tiên ... 3484124132133134135136144 ... CuốiCuối

Đánh dấu

Đánh dấu

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •  
.::Thăng Long Kỳ Đạo::.
  • Liên hệ quảng cáo: trung_cadan@yahoo.com - DĐ: 098 989 66 68