Kết quả 1 đến 3 của 3
Chủ đề: Rau Tầm Ma
Hybrid View
-
08-01-2013, 12:03 PM #1
Milarepa, sau khi lĩnh đủ những cú đá văng trời của người thầy Marpa-nhà đại phiên dịch Tây Tạng đã nguyện cô độc đời mình trong các hang động trên dãy Himalaya. Milarepa là một con người bình thường nhưng biết hoà mình vào vũ trụ và sống một đời sống Thư*ợng Đế trong tâm thân tuyết bay gió thổi áo rách bốn mùa! Milarepa nhận thức rõ khả năng tồn tại hữu hạn của đời sống. Milarepa không trốn chạy, không mang theo lời cầu nguyện như người Ai cập đến cõi chết mà bằng lòng nhiệt tâm lắng nghe tiếng nói vi tế của hiện hữu bằng hành động tâm linh quyết liệt phá tan mọi giới hạn vô thường để nhìn thẳng và vượt qua cái chết!
Vì sợ chết tôi đi vào núi
Liên tục trầm tư về tính bất định của giờ chết
Bỗng bắt gặp thành trì bất tử, vô tận của tâm bản nhiên
Bây giờ tất cả nỗi sợ chết đều tan biến
Khi nỗi sợ chết tan biến, từng bước đi, cử chỉ, âm thanh của Milarepa là từng vần thơ thăng hoa Tây Tạng.
Hành trình cuộc đời Milarepa là hành trình tự do. Hành trình của những bài tán ca thay lời thuyết pháp!
Để biến đời mình thành bản thánh ca tự do, Milarepa hát rằng "tôi trái nghịch với tất cả những kẻ giả hình muốn làm thầy tăng để được kẻ khác kính trọng và tôn vinh, họ chỉ mặc áo nhà tu, trong khi họ vẫn cố gắng thu góp của cải, tìm kiếm danh vọng, và như* thế họ cố gắng đạt cho đư*ợc những gì tốt đẹp nhất của hai thế giới đó. Họ học thuộc lòng một cuốn sách vài cuốn kinh rồi họ tan biên mất trong sự xung đột bè phái không có vẻ đạo lý tý nào."
Hỡi những vị tăng sỹ, há không nghe tiếng hát của bậc tiền nhân nên hôm nay phải gánh chịu kiếp lưu vong ngay trên mảnh đất của chính mình! Gần 1000 năm qua, các vị đã làm những gì trên con đường tu tập, có vị nào dám nh*ư Milarepa suốt một đời chỉ hiến dâng đạo pháp, không màng đến trần gian dù chỉ là một hạt bụi trên cánh đồng Tsampa!
Khi trở về ngôi làng yêu dấu, trong căn nhà đổ nát xương tàn mẹ đợi con trai về bốc liệm, Milarepa rất đau khổ. Như*ng từ cõi nát tan ấy, Milarepa chợt nhận ra trần gian là chốn vô thư*ờng, rồi tất cả cũng tan hoang đổ nát, văn minh có thì con người có hạn nên thay vì trả thù Milarepa quyết chí ra đi, tìm đến những hang động xa xôi để sống trong trạng thái thiền định bằng phép luyện nội hoả !
Đói rách tả tơi. Thân thê? trần truồng tuyết trắng. Ngày qua ngày, ăn từng ngọn tầm ma. Bọn trộm vào, thấy nồi tầm ma, chúng không hề hay biết đó là thức ăn của một con ng*ười vĩ đại đang ẩn náu sau bộ xương khô quắt, làn da xanh ngắt màu rau!
"Ta chẳng có gì cả, chỉ có rau tầm ma thôi”.
Milarepa đã học được lòng can đảm từ những ngọn tầm mưa. Ngọn tầm ma của Milarepa vẫn còn đó trên những s*ườn đá như* vài giọt xanh rơi trên núi đèo. Bám đá, bấu tuyết, víu gió, sực mùi mặt trời, cây rau ấy vẫn sống tươi mới cùng lũ địa y. Rau mọc đã khó, ng*ười hái rau càng khó hơn nếu không có bản lĩnh kiên cường.
1000 năm trước, cái thân hình gầy yếu thiếu vải thừa da của Milarepa vẫn thản nhiên như thái độ của con trâu Yak rất hiền lành náu mình trong hình tướng dữ tợn với bộ lông dài chấm móng, không hề ngại ngần gió tuyết, tìm nhặt bầy địa y nõn nà lông tơ phủ thắm mặt đất, nuôi hình bóng mình thảnh thơi trên Himalaya.
Ngoài ngọn tầm ma, có hôm được thơ. săn biếu thịt. Milarepa ăn cho đến khi miếng thịt hoá giòi. Ông định bắt những con giòi tuyết ăn nhưng "lại cảm thấy nếu làm thế có khác gì tước đoạt thức ăn của giòi" vì thế Milarepa dành phần thịt thiu cho chúng và trở lại với ngọn tầm ma để tiếp tục cuộc tu luyện tự do.
"Thấy rằng một người không bao giờ biết cái chết bắt đầu khi nào, nên tôi không muốn lãng phí thì giờ quý báu trong việc đi xin bố thí. Dù cho tôi có phải chết rét thì đó cũng là chết cho chân lý. Tôi không bao giờ có thế thoả mãn được sự phô trương bề ngoài của tôn giáo như một nhóm người tụ hội vui chơi chè chén, tư. do ăn uống hi? ha? và mặc thứ quần áo may cắt đẹp đẽ và đắt tiền nhất-tất cả những việc như* vậy chỉ đánh mất lòng sùng tín chân chính mà thôi"
Một con giòi còn nhận được lòng bi mẫn huống chi là người, dẫu đó là ke? thù, Milarepa cũng không đành lòng chối từ sự chia sẻ!
Ngay trước khi chết, dù biết Lama Tsapnawa ghen ghét sai tình nhân bỏ thuốc độc, Milarepa vẫn uống. Socrates uống thuốc độc giã từ thành Athen cho triết lý của mình, còn Milarepa uống thuốc độc, sẵn sàng lấy cái chết của mình thức tỉnh cho kẻ giết mình thành một vị bồ tát! Và Milarepa không cần kẻ thù của mình biết ơn mình bởi tất cả nhưng ông đã hát lên với người con gái Zesaỵ
"Tôi đã biết rằng dù tôi có cả trần gian này, khi tôi chết tôi cũng không thể mang theo, như thế nếu bây giờ tôi từ bỏ tất cả mọi vật thì tôi sẽ được hạnh phúc trong cả đời này và trong cả đời sau" Đó là lý do, Milarepa từ chối tất cả mọi chăm sóc vật chất của người em gái Peta mặc dù ông biết những miếng cơm tấm vải ấy, người em gái của mình phải lang thang khất thực khắp nơi.
Từ chối vật chất, từ chối luôn cả tình yêu của cô gái hàng xóm Zesay dành cho Milarepa từ khi còn là một đứa bé. Trong Milarepa, tự do là tình yêu vĩ đại nhất.
"Tất cả mọi cuộc theo đuổi thế gian đều chỉ được một quả không thể tránh được là sự phiền não" Milarepa hát cho các đệ tử "Được kết thúc trong mất. Xây kết thúc trong đổ vỡ. Gặp gỡ kết thúc trong chia ly. Sinh kết thúc trong tử. Biết được điều này, ngay từ đầu ng*ười ta phải viễn ly tất cả những ý tưởng về góp nhặt các đồ vật, về xây cất, về gặp gỡ, .. bắt đầu cuộc tu hành của chân lý siêu việt sinh tử!"
Tâm hồn của Milarepa trong nh*ư n*ước hồ Yamdrok dưới chân đèo. Từ trên đỉnh lâu đài nội tâm của vũ tru. này, có con mắt của trái đất, đó là con mắt của muôn vàn cư dân ẩn cư trong lòng đất đang ngước nhìn bầu trời bao la vượt ra ngoài biên độ không gian và thời gian. Màu mắt xanh sâu thẳm bào thai của Mẹ, hồ Yamdrok là nguồn nước thiêng người Tây Tạng dâng lên các thiên thần. Trong chu vi rộng 640 km vuông của hồ n*ước này, nơi nào dấu chân Milarepa ngày trước đến đây nhờ hồ nước dạy phép thanh tịnh.
Mặt hồ ngọc lục bảo, đưa tay như vớt lên từng sợi ánh sáng nhuộm xanh khí trời!
Mặt hồ mịn màng da bụng nữ thần Tarâ! Nàng đã sinh hạ cho Tây Tạng một tiếng hát bất khuất trước đau thương và hạnh phúc!
Nơi nào Milarepa đã rong ca cho tôi vớt hơi thở Người! Trên những ngọn núi tuyết trầm mặc kia, nơi nào có hang động của Milarepa cho tôi tìm đến trú thân trong giây lát. Biết tìm đâu thấy giữa mênh mông Himalaya. Cũng chẳng cần tìm đâu cả bởi lúc chết, sau khi co rút thân hình để chuyển hoá thành ánh sáng vĩnh cửu trên giàn lửa thiêu, Milarepa không có một hạt ringsel hay dung- hạt xá lỵ nào cho đệ tử. Khác với các vị đạo sư* đạt đến cảnh giới đại giải thoát, khi chết đư*ợc Đại chuyển hoá-Pho-ba Ch’en-po- thành thân ánh sáng vi tế sống vĩnh cửu, hay trở thành Thân Thể Cầu Vồng-Jalus để lại tóc và móng tay, hoặc thi hài vẫn giữ nguyên nh*ư các vị Dalai Lama hay Panchen cất trong các Tschorten cho hậu thế thờ vọng.
Milarepa ra đi chẳng để lại bất cứ cái gì ngoài những bài thánh ca! Milarepa điềm nhiên nằm trên giàn lửa và ra đi trong niềm tự do tuyệt đối. Các anh - Các thiên nữ nói với các đệ tử đau buồn mong *ước được Milarepa để lại thánh tích- tất cả các anh há đã chiếm đư*ợc những thánh tích quý báu nhất là các diệu lý theo đó các anh có chính pháp thành hình trong tâm các anh!
Tôi không biết, phép luyện nội hoả, đưa Milarepa bay lang thang qua hàng trăm năm như thế nào nhưng tôi đã nhìn thấy Milarepa là một người thơ, bằng tình yêu thương và tự do, ông đã biến cuộc đời này thành bản thánh ca bất tử! Muốn tự do không bị tổn thương, Milarepa có thái độ sống "không cần để ý tuân theo những tiêu chuẩn ước lệ tầm thường về lễ độ hay không lễ đô.. Bất cứ kẻ nào không chân thành đều có một tín ngư*ỡng khác hẵn với tôi, và bất cứ ngư*ời nào chân thành, dù họ có mang bất cứ một nhãn hiệu tôn giáo nào, họ và tôi đều cùng chung một con đ*ường tín ng*ưỡng". Tín ngưỡng của Milarepa là Ngọn Cờ Tình Th*ương như ông ngợi ca. "Nếu các con không chế ngự được dục vọng xấu xa bằng tình thương thì lời khuyên dạy chỉ là những âm thanh trống rỗng".
Tôi ôm lấy những đứa trẻ Tây Tạng đang dắt trâu Yak trang trí đủ màu sắc cho du khách cỡi. Một con phải trả 5 tệ. Trên đỉnh cao hàng ngàn mét này, tiền vẫn bay cùng mây gió. Những đứa trẻ kia, vì nông nổi gì không ở nhà đọc kinh sách mà phải lên đây! Chúng có biết, con trâu đang chăn dắt, giá cho thuê 5 tệ kia xưa kia từng mang Lão Tử sang Tây Trúc viết nên cuốn Đạo Đức Kinh, chúng có bao giờ nghe tiếng hát Milarepa tìm lên "trên núi có một con đường đá, nơi đó con người đánh đổi sự luân hồi hỗn loạn với hạnh phúc thanh tịnh vô biên!"
Ôi Tây Tạng, 40 triệu năm qua sau ngày biển dâng, nắng tuyết không thể bào mòn. Từ đôi bàn tay xếp đá, từ tiếng hát của con người, Tây Tạng đang cao dậy. Trên đỉnh đèo Kamala ngùn ngụt gió lạnh tràn qua, kỳ lạ thay, tháp đá gập ghềnh vẫn đứng vững đến cùng như* khát vọng đối thoại với thần linh không bao giờ tàn lụi trong đôi mắt trẻ thơ Tây Tạng.
Milarepa! Tiếng hát tự do như* con thú doha lang thang nuôi mình bằng sương khuya và bình minh trên Himalaya!
Có lẽ khi thốt lên cái từ Thopaga đặt tên cho con trai- tay đánh bạc vô song, thầy phù thuỷ cao tay, người cha Mila- không thê? ngờ, cái từ Thopaga chính là định mệnh gắn liền với đứa con trai của mình. Bởi cho đến bây giờ, mỗi khi rơi xuống vực sâu nỗi buồn, tôi vẫn vươn lên nhờ "vui nghe" tiếng hát của Milarepa! Không ai như Milarepa! Tiếng hát thuyết pháp của ngài đã trở thành dân gian hoá trên miền đất Tây Tạng.
Hồi trẻ dại đọc Milarepa, tôi hình dung ông là một huyền thoại trên dãy núi Himalaya động viên con ngư*ời vư*ợt qua khổ đau và khắc nghiệt của thời tiết. Nhưng lúc này đây trên Tây Tạng, thấy những người Tạng nằm khoả thân phơi mình giữa gió lạnh rực nắng bên vực sông Yarlung Tsangpo, tôi tin việc Milarepa bất chấp khắc nghiệt cuộc sống để ẩn tu trên Himalaya, rèn luyện phép nội hoả là điều có thật. Milarepa không còn là huyền thoại. Ông là một con người, con người nghệ sỹ.
Khi Milarepa giã từ cuộc đời vào tháng cuối năm con Mèo, tức tháng giêng năm 1135. Trước giờ lên giàn hoả thiêu, ông đã chia cho đệ tử Upa-Tonpa đ*ược chiếc mũ, Shiwa-Wod cây bút gỗ, Ngan là sọ người, Seban Repa viên đá lửa và miếng bùi nhùi, Bri Gom là chiếc muỗng xương và Rechung là cây trúc tr*ượng và tấm áo vải tư*ơng truyền là tấm áo của tổ sư Naropa được thầy Marpa truyền lại cho Milarepa. Đó là tất cả những gì gọi là của cải trong suốt 84 năm Milarepa tồn tại trên mặt đất nàỵ
Cái gì Milarepa có thì ông đã chia. Tôi biết xin gì đây ngoài chiếc nồi đất - chiếc nồi đất vỡ tan hoang sau những ngày tháng luộc rau tầm ma! Chiếc nồi ấy vỡ, một lớp cặn bã màu xanh đóng cứng trong nồi rớt ra, rơi xuống đất bản sao chiếc nồi đất thứ hai.
Có được chiếc nồi đất ấy, tôi sẽ hái rau tầm ma trên đỉnh Kamala luộc lên và hát như ngày xưa Milarepa xưng tụng đạo sư Nồi Đất dạy vô thường sinh tử và trách nhiệm làm người. "Bao lâu trên đầu các con còn bầu trời, chừng đó vẫn còn các loài hữu hình cần sự giúp đỡ của các con. Hãy nghĩ đến hiện tại, quá khứ, t*ương lai chỉ là một!”.
Chiếc nồi tầm ma ấy đã hoá thân vào đất đai Tây Tạng.
Từ nơi này Himalaya, tiếng hát của Milarepa lại địa y xanh mướt vọng lên Không nên hy vọng chứng đạo, mà hãy hành đạo suốt đời bạn!
Tiếng hát hiện sinh mẫu mực ấy sẽ vang mãi cho đến ngày loài người chối từ tự do!(st)Lần sửa cuối bởi Lâm Đệ, ngày 08-01-2013 lúc 12:12 PM.
Rau Tầm Ma
Đánh dấu