Warning: Illegal string offset 'name' in [path]/includes/functions.php on line 6845
Cảm ơn Bộ GD&ĐT đã tăng lương GV gấp 2,1 lần! ( Thầy Văn Như Cương ) - Trang 2
Close
Login to Your Account
Trang 2 của 5 Đầu tiênĐầu tiên 1234 ... CuốiCuối
Kết quả 11 đến 20 của 45
  1. #11
    Ngày tham gia
    Jun 2009
    Bài viết
    1,408
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Năm 1983 khi mới ra trường thì nhà nước đã thực hiện chủ trương " GIÁ -LƯƠNG-TIỀN ".Lúc ấy giá cả không tăng như bây giờ .Lương hiện nay tăng có 1 mà giá cả sinh hoạt tăng 10 thì chỉ có vàng,bất động sản mới theo kịp.
    Lời văn của thầy toán Văn Như Cương sao mà nhẹ nhàng và nghiêm túc đến thế ! Đây sẽ là bài toán hóc búa cho Đảng ,bộ ,sở của ngành giáo dục đào tạo VN.Biết đến khi nào mới có lời giải đây?
    Lần sửa cuối bởi dohuuthuc, ngày 21-06-2010 lúc 03:53 PM.

  2. #12
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    292
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Nhận diện các địa phương "siêu thành tích" (I)
    Tác giả: Nguyễn Văn Tuấn và Nguyễn Đình Nguyên
    Bài đã được xuất bản.: 22/06/2010 06:00 GMT+7



    Bệnh hình thức trong giáo dục có thể hiểu như là tình trạng thành tựu giáo dục được nâng cao hơn khả năng thực tế một cách có hệ thống (nhằm đáp ứng yêu cầu hay áp lực chính trị).

    Trong vài năm gần đây, hầu như bất cứ một kì thi tốt nghiệp trung học phổ thông nào cũng để lại nhiều dấu hỏi trong công chúng. Kì thi năm nay, 2010, cũng không phải ngoại lệ, với nhiều ý kiến cho rằng tỉ lệ tốt nghiệp năm nay quá cao, và có lẽ bệnh thành tích trong giáo dục đang có nguy cơ quay lại hay đang tái phát.

    Tuy nhiên, chưa ai tìm ra cách định lượng bệnh thành tích, và cũng chưa ai chỉ ra những địa phương nào có bệnh thành tích. Bài viết này sử dụng các số liệu về tỉ lệ tốt nghiệp THPT hệ giáo dục thường xuyên trong các năm từ 2006 đến 2010 (số liệu trích từ các nguồn: Tổng cục Thống kê, Bộ GD và ĐT, Báo VietNamNet, và Báo Dân trí 18/06/2010) để nhận ra những địa phương có dấu hiệu bệnh thành tích.

    Tỉ lệ tốt nghiệp THPT năm 2010 có gì đáng chú ý?

    Theo phân tích của chúng tôi, có 3 điểm đáng chú ý trong tỉ lệ tốt nghiệp năm 2010: Tỉ lệ tăng nhanh từ năm 2007, độ dao động trong mỗi tỉnh cao hơn mức độ khác biệt giữa các tỉnh, và mối tương quan về kết quả của năm 2010 với tỉ lệ tốt nghiệp năm 2006 (năm được cho là đỉnh cao về bệnh thành tích).

    Tỉ lệ tốt nghiệp THPT năm nay xấp xỉ tỉ lệ tốt nghiệp năm 2006. Theo số liệu mới nhất mà chúng tôi thu thập được (có thể tham khảo ở đây), thì tỉ lệ tốt nghiệp trung bình trên toàn quốc năm 2010 là 90,2%. Tỉ lệ này tương đương với tỉ lệ năm 2006 ( ~92%), nhưng cao hơn hẳn so với các năm 2009 đến gần 10%, năm 2008 khoảng 17%, và năm 2007 đến 27% (Biểu đồ số 1 và 2). Nếu lấy thời điểm 2007 làm điểm khởi đầu, thì số liệu năm 2010 có nghĩa là tỉ lệ tốt nghiệp tăng trung bình khoảng 9% mỗi năm trong thời gian 4 năm qua.

    Tuy nhiên, tỉ lệ tốt nghiệp năm 2010, cũng như các năm trước dao động rất lớn giữa các tỉnh thành và vùng (Bảng 1). Năm 2010, tỉ lệ tốt nghiệp THPT được ghi nhận cao nhất ở các tỉnh thành đồng bằng sông Hồng (97,8%) và vùng Bắc Trung Bộ (97,7%). Các tỉnh thành thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, có tỉ lệ thấp nhất (82,3%).

    Một đặc điểm đáng chú ý khác là mức độ dao động về tỉ lệ tốt nghiệp trong mỗi tỉnh thành trong thời gian 2006 - 2010 rất cao. Biểu đồ 2 dưới đây trình bày tỉ lệ tốt nghiệp trung bình cho 63 tỉnh thành. Có một số tỉnh (chủ yếu là vùng Đông Bắc và Tây Bắc) có tỉ lệ tốt nghiệp giảm rất nhanh giữa năm 2006 và 2007 (từ 90% năm 2006 xuống dưới 20% vào năm 2007), nhưng sau đó thì cũng tăng rất nhanh.

    Trong khi đó, độ khác biệt giữa các tỉnh cho từng năm thì có xu hướng giảm theo thời gian. Điều này nói lên một nghịch lí là mức độ biến chuyển tỉ lệ tốt nghiệp trong mỗi tỉnh cao hơn mức độ khác biệt giữa các tỉnh!

    Căn bệnh luôn tái phát

    Một cách có thể dùng để thẩm định xu hướng "bệnh thành tích" có tái phát hay không là xem xét đến mối tương quan về tỉ lệ tốt nghiệp giữa các năm, mà thước đo là hệ số tương quan (coefficient of correlation). Hệ số tương quan là một chỉ số đo sự tương đồng giữa hai biến số, hay trong trường hợp này là tỉ lệ tốt nghiệp giữa 2 năm.

    Hệ số này dao động từ 0 (tức hoàn toàn không có liên quan) đến 1 (tức hoàn toàn tương quan). Khi hệ số tương quan giữa năm t và t+1 gần bằng 1, điều đó có nghĩa là tỉ lệ tốt nghiệp của năm t+1 có thể tiên đoán từ tỉ lệ tốt nghiệp của năm t. Áp dụng khái niệm đó, chúng tôi đã phân tích tỉ lệ tốt nghiệp của tất cả các năm 2006 - 2010 (Biểu đồ 3)

    Phân tích cho thấy một xu hướng rất thú vị và cũng có ý nghĩa. Mối tương quan giữa tỉ lệ tốt nghiệp của năm 2010 với các năm 2009, 2008, 2007 giảm dần. Tỉ lệ tốt nghiệp giữa năm 2010 và 2009 là 0,59, giữa năm 2010 và 2008 là 0,26 ; và giữa năm 2010 và 2007 chỉ còn 0,11, thậm chí không có ý nghĩa thống kê.

    Tuy nhiên, điểm đáng chú ý là tỉ lệ tốt nghiệp năm 2010 và năm 2006 là cao nhất (r = 0,70). Kết quả này cho biết, những tỉnh có tỉ lệ tốt nghiệp cao trong năm 2006 cũng chính là những tỉnh có tỉ lệ tốt nghiệp cao trong năm 2010. Thật vậy, tỉ lệ năm 2006 có thể tiên đoán khoảng 50% độ dao động về tỉ lệ tốt nghiệp năm 2010!

    "Bệnh thành tích" hay áp lực chính trị ?

    Để định lượng bệnh thành tích, chúng ta cần một định nghĩa khả dĩ. Thật ra, cho đến nay, chúng ta chỉ hiểu ngầm bệnh thành tích, chứ chưa có ai định nghĩa nó như thế nào. Có tác giả như Huỳnh Bảo Sơn chẳng hạn, xem bệnh thành tích là một hậu quả của chủ nghĩa hình thức.

    Theo tác giả này "Bệnh thành tích là hậu quả của chủ nghĩa hình thức và chính nó là mẹ đẻ của bệnh sao chép, học thuộc lòng và hiện tượng đào tạo hình ống của hệ thống đại học ở nước ta." Nhưng đó vẫn chưa phải là một định nghĩa của bệnh, mà chỉ là căn nguyên của bệnh.

    Theo chúng tôi, bệnh hình thức trong giáo dục có thể hiểu như là tình trạng thành tựu giáo dục được nâng cao hơn khả năng thực tế một cách có hệ thống (nhằm đáp ứng yêu cầu hay áp lực chính trị). Chẳng hạn như, một trường trung học vùng sâu vùng xa, dù thiếu khả năng và phương tiện để nâng cao trình độ học sinh bằng các trường ở thành phố, nhưng vì địa phương (tỉnh) cần con số đẹp để báo cáo lên trung ương, nên phải gây áp lực cho giáo viên và hiệu trưởng nâng cao điểm cho học sinh sao cho tương đương với điểm của học sinh thành phố.

    Chiếu theo định nghĩa trên, có ba vế: Thứ nhất là thành tựu giáo dục. Thứ hai là khả năng thực tế. Thứ ba là dùng cơ chế để đạt được thành tích ảo. Nếu dựa theo đó, chúng tôi có thể định lượng bệnh thành tích bằng các chỉ số cụ thể. Để định lượng bệnh, chúng ta cần một vài chỉ số thống kê để đo lường qui mô và xu hướng phát sinh của bệnh thành tích.

    Trong bài phân tích này, chúng tôi sử dụng tỉ lệ tốt nghiệp như là một chỉ số đo lường một "thành tựu" giáo dục, bởi vì con số này phản ảnh tình hình chung liên quan đến đầu ra của một địa phương. Nói đến xu hướng là nói đến thời gian, cho nên chúng ta cần phải xem xét đến tỉ lệ tốt nghiệp THPT trong thời gian qua.

    (Còn nữa)

  3. #13
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    292
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Giáo dục tiếp tục chuyển biến theo chiều hướng...tiêu cực (II)



    Tác giả: Nguyễn Văn Tuấn và Nguyễn Đình Nguyên (tiếp theo và hết)

    http://www.tuanvietnam.net/2010-06-2...g-tieu-cuc-ii-

    Một trong những tư duy cần xóa bỏ ngay là tư duy bệnh thành tích, bất kể tư duy này xuất phát từ áp lực chính trị hay mặc cảm địa phương.

    Vì số liệu không đầy đủ, nên chúng tôi phải tạm sử dụng số liệu đã được qua "chế biến", hiểu theo nghĩa các tỉ lệ tốt nghiệp của mỗi tỉnh đã được tính toán từ con số thí sinh dự thi và số thí sinh tốt nghiệp. Tuy nhiên, vì số học sinh dự thi thường cao (trên 1.000) nên những con số tỉ lệ tốt nghiệp cũng không chịu sự chi phối của các yếu tố mẫu và nhiễu.

    Hai phương pháp đo lường bệnh thành tích

    Về mặt phương pháp, 2 phương pháp để đo lường bệnh thành tích là: Hệ số biến thiên (coefficient of variatio, tức CV) và so sánh tỉ lệ tốt nghiệp trên thực tế với tỉ lệ dự báo thu được bằng phân tích hồi qui đa tầng (hierarchical model).

    Chỉ số thứ nhất: Hệ số biến thiên

    Nếu địa phương có triệu chứng bệnh thành tích, thì chúng ta có thể đoán rằng độ dao động về tỉ lệ tốt nghiệp của địa phương đó ắt phải cao một cách bất thường. Biểu đồ 4 dưới đây cho thấy một sự khác biệt rất rõ nét về độ dao động của tỉ lệ tốt nghiệp giữa 3 miền đất nước. Nói chung, các tỉnh miền Bắc có tỉ lệ dao động (giữa các năm) lớn nhất, kế đến là các tỉnh miền Trung. Riêng các tỉnh, thành miền Nam có tỉ lệ tốt nghiệp khác biệt thấp nhất.
    Do đó, vấn đề đặt ra là cần phải có một chỉ số thống kê định lượng, cụ thể hơn để đánh giá độ dao động, độ khác biệt giữa các năm trong một địa phương. Chỉ số đó là độ lệch chuẩn (standard deviation, SD). Theo định nghĩa, CV được tính bằng cách lấy SD chia cho số trung bình (average). Bởi vì SD và số trung bình có cùng một đơn vị đo lường (trong trường hợp tỉ lệ tốt nghiệp, thì đơn vị đo lường là phần trăm). Cho nên với CV, là một tỷ số, có thể sử dụng để so sánh giữa các địa phương một cách dễ dàng. Thí dụ:

    Tỉ lệ tốt nghiệp THPT của TP. Hồ Chí Minh trong thời gian 5 năm 2006 - 2010 lần lượt là 96,1 ; 95,1 ; 93,3 ; 94,6 ; và 94,6%. Như vậy, tính trung bình, tỉ lệ tốt nghiệp của TPHCM là 94,7 ; và SD = 1,01. Do đó, chỉ số biến thiên CV = 0,0107 hay 1,07%, tức là rất thấp.

    Ở Cao Bằng, tỉ lệ tốt nghiệp THPT trong cùng thời gian trên là 86,8% (2006), xuống còn 27,8% (2007), và nhanh chóng tăng lên 40,6% (2008), 64,2% (2009), đạt đỉnh 89,65% (2010). Do đó, tỉ lệ trung bình của 5 năm qua là 61,8%, nhưng với độ dao động rất lớn vì SD = 27,4%. Nói cách khác độ lệch chuẩn cao 44% (CV = 44%) so với chỉ số trung bình.

    Hai ví dụ trên cho chúng ta thấy rõ ràng rằng chỉ số CV có thể là một thước đo có ích để nhận ra các địa phương có tín hiệu bệnh thành tích. Nhưng bản thân chỉ số CV cũng dao động giữa các tỉnh thành, do đó, chúng tôi cần một ngưỡng (cut-off level) để đánh giá bệnh thành tích.

    Gọi số trung bình CV của 63 tỉnh thành là aCV, và độ lệch chuẩn của độ biến thiên trong 63 tỉnh thành là sdCV, chúng ta có thể phát biểu rằng những tỉnh thành nào có CV cao hơn aCV + sdCV là địa phương có thể xem là "bất thường".

    Qua phân tích thực tế, chúng tôi thấy chỉ số biến thiên trung bình cho toàn bộ 63 tỉnh thành là aCV = 17%, với độ lệch chuẩn sdCV = 11%. Do đó, chúng tôi chọn ngưỡng CV trên 30% để nhận dạng các địa phương có thể "có bệnh thành tích". Kết quả trình bày trong Bảng 2 cho thấy các tỉnh sau đây có CV trên 30%.

    Biểu đồ tỉ lệ tốt nghiệp trong 5 năm cho thấy từ năm 2006 - 2010, xu hướng chung là tỉ lệ tốt nghiệp gần như tăng theo một hàm số của phương trình bậc 2. Qua so sánh thì mô hình hồi qui đa tầng (multilevel regression) phản ánh xu hướng tỉ lệ tốt nghiệp chung và cho từng tỉnh tốt hơn so với mô hình đường thẳng (kết quả không trình bày ở đây). Nên mô hình này được áp dụng để đánh giá bệnh thành tích.

    Qua khảo sát các mô hình khả dĩ, mô hình ước tính tỉ lệ tốt nghiệp cho mỗi tỉnh tối ưu nhất là một hàm số mà thời gian tuân theo mô hình đa thức bậc 2, và phụ thuộc vào yếu tố vùng: TLTN = a + b*năm + c*năm^2 + d*vùng + e (1); trong đó TLTN là tỉ lệ tốt nghiệp, a là thông số ước lượng tỉ lệ tốt nghiệp chung cho năm 2006, b và c là thông số phản ảnh tốc độ tăng trưởng của TLTN, d là thông số phản ánh mức độ TLTN thay đổi theo vùng địa dư, và e là yếu tố ngẫu nhiên.

    Từ đó, chúng tôi ước tính và nhận dạng địa phương có tín hiệu bệnh thành tích qua 2 bước như sau :

    (a) Dùng mô hình (1) để ước tính các thông số cần thiết cho 4 năm 2006 đến 2009, và dùng thông số đó để ước tính tỉ lệ tốt nghiệp cho năm 2010.

    (b) Lấy tỉ lệ tốt nghiệp thực tế trong năm 2010 trừ cho tỉ lệ tốt nghiệp dự báo dựa vào mô hình trong bước (a), và gọi kết quả là D; D chính là một thước đo về bệnh thành tích.

    Nếu địa phương nào có D là số dương, thì điều này có nghĩa là địa phương đó có tỉ lệ tốt nghiệp tăng cao hơn so với xu hướng trong 4 năm qua. Tuy nhiên, bởi vì mô hình hồi qui vẫn còn có sai số, cho nên vấn đề là cần phải một ngưỡng của D để nhận dạng địa phương "có vấn đề".

    Bởi vì tỉ lệ tăng trung bình là 8,8% mỗi năm với sai số chuẩn là 0,8%, cho nên chúng tôi chọn ngưỡng D, được tính bằng một trị số trung bình (8,8) ± 2*sai số chuẩn (khoảng 10%) để nhận dạng địa phương có tỉ lệ tăng trưởng cao một cách "bất thường".

    Diện mạo các tỉnh có tín hiệu "bệnh" rõ rệt

    Dựa vào cách tính và ngưỡng trên, chúng tôi nhận ra 17 địa phương sau đây có sai lệch đáng chú ý, tức là một tín hiệu của "bệnh thành tích" (Biểu đồ 5): Bắc Cạn, Thừa Thiên, Lạng Sơn, Bắc Giang, Thái Bình, Kon Tum, Thanh Hóa, Lai Châu, Quảng Trị, Phú Thọ, Nghệ An, Hà Giang, Hòa Bình, Cao Bằng, Tuyên Quang, Yên Bái, và Sơn La.

    Trong số này, có đến 12 tỉnh thuộc vùng Đông Bắc và Tây Bắc! Những tỉnh thành này cũng nằm trong kết quả khi phân tích bằng hệ số biến thiên ở phần trên. Như vậy, có sự nhất quán giữa hai kết quả phân tích, và điều này cho thấy rằng các tỉnh thành vùng Đông Bắc và Tây Bắc quả thật có tín hiệu bệnh thành tích rất đáng chú ý.

    Vài nhận xét

    Kết quả phân tích chúng tôi trình bày trên đây cho thấy tỉ lệ tốt nghiệp THPT dao động rất lớn giữa các tỉnh thành trong cùng một vùng, và giữa các năm trong cùng một địa phương. Mức độ khác biệt giữa tỉnh có tỉ lệ tốt nghiệp cao nhất (Nam Định, 99,8%) và thấp nhất (Ninh Thuận, 69,1%) là 30,7%, một mức độ rất lớn so với các năm trước.

    Nhưng điểm quan trọng hơn là ngay trong cùng một tỉnh, mức độ biến chuyển về tỉ lệ tốt nghiệp còn cao hơn cả mức độ khác biệt giữa các tỉnh thành. Qua phân tích thống kê, chúng tôi nhận thấy phương sai của tỉ lệ tốt nghiệp giữa các tỉnh, thành là 30,6, nhưng phương sai trong mỗi tỉnh thành là 221,2, cao hơn 7 lần so với phương sai giữa các tỉnh.

    Đây là một điểm bất bình thường, bởi vì chúng ta kì vọng rằng mức độ khác biệt về tỉ lệ tốt nghiệp giữa các tỉnh, thành phải cao hơn so với độ dao động trong mỗi tỉnh, thành do điều kiện học hành khác nhau rất lớn giữa các địa phương.

    Tại sao mức độ biến chuyển trong mỗi địa phương cao hơn so với mức độ khác biệt giữa các điạ phương? Chúng tôi nghĩ đến 4 giải thích khả dĩ như sau: (a) Trình độ học sinh cao hơn trong thời gian qua. (b) Trình độ giáo viên đã được cải thiện. (c) Đề thi trở nên dễ hơn. (d) Tác động từ những "yếu tố ngoại tại".

    Theo nhận xét của chúng tôi, trình độ học sinh có thể cải thiện trong thời gian 5 năm qua, nhưng chưa có bằng chứng trực tiếp nào để công nhận như thế, và cũng rất khó có một sự biến chuyển về trình độ trong một thời gian ngắn. Nói một cách khác, yếu tố học sinh gần như là yếu tố biến đổi rất ít trong cùng một thế hệ. Tương tự, vì sự bổ nhiệm nhân sự trong các trường học, nên trình độ giáo viên cũng không thể nâng cao nhanh trong một vài năm được. Hơn nữa, lực lượng giáo viên trong cùng một tỉnh cũng gần như rất ít thay đổi với một khoảng thời gian ngắn.

    Trong khi đó, có nhiều bằng chứng cho thấy đề thi năm nay dễ hơn năm ngoái và các năm trước. Như vậy, thực chất, sự biến chuyển lớn về tỉ lệ tốt nghiệp trong 5 năm qua, và nhất là năm 2010, không thể nào do trình độ học sinh và giáo viên được cải thiện nhanh, mà rất có thể là do yếu tố đề thi và yếu tố ngoại tại mà chúng ta khó có thể định lượng một cách trực tiếp và chính xác.

    Ngoài ra, các kết quả trình bày trong bài này còn cho thấy bệnh thành tích giáo dục có xu hướng tái phát nhanh. Tỉ lệ tốt nghiệp năm 2010 (90%) tương đương với tỉ lệ tốt nghiệp năm 2006 (92%). Ngay sau khi nhậm chức, Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo phát động phong trào "Hai không", và tỉ lệ tốt nghiệp năm 2007 đột nhiên giảm xuống chỉ còn 63% (tức giảm 29% so với năm 2006). Nhưng ngay sau thời điểm đó, tỉ lệ tốt nghiệp liên tục tăng một cách nhanh chóng theo đường thẳng, gần 9% mỗi năm!

    Quan trọng hơn, như đã trình bày ở trên, các tỉnh thành có tỉ lệ tốt nghiệp cao hay rất cao năm 2006 cũng chính là những tỉnh thành có tỉ lệ tốt nghiệp cao năm 2010. Độ tương quan giữa tỉ lệ năm 2010 và năm 2006 lên mức cao nhất so với những năm khác. Đây chính là một tín hiệu rõ ràng nhất cho thấy bệnh thành tích đang tái phát, và lần này, tốc độ tái phát rất nhanh.

    Vậy, làm sao chúng ta có thể tin tưởng rằng có trường chỉ mấy năm trước đây có tỉ lệ tốt nghiệp 0%, mà nay thì tăng lên 90%? Nếu đó không phải là triệu chứng của bệnh thành tích, thì rất khó giải thích bằng một lí giải khác logic hơn!

    Do đó, trái lại với cách diễn giải của Phó TT, cựu Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân rằng "Chất lượng học sinh tốt nghiệp phổ thông tăng", chúng tôi nghĩ rằng những biến chuyển về con số tỉ lệ tốt nghiệp không phản ảnh chất lượng giáo dục tăng, mà chỉ phản ảnh bệnh thành tích đang tăng.
    Một trong những "phát hiện" thú vị của phân tích này là các tỉnh phía Bắc có tín hiệu bệnh thành tích cao hơn các tỉnh phía Nam. Dù sử dụng bất cứ thước đo thống kê nào, các địa phương có tín hiệu về bệnh thành tích thường là các tỉnh phía Bắc, nhất là Đông Bắc và Tây Bắc. Trong cả hai phương pháp định lượng, Sơn La là tỉnh có độ dao động về tỉ lệ tốt nghiệp bất thường nhất.

    Năm 2006, tỉ lệ tốt nghiệp THPT ở Sơn La là 91%, nhưng giảm xuống chỉ còn 39% trong năm 2007, tăng lên 55% vào năm 2008, rồi lại giảm xuống còn 24% trong năm 2009, và nay thì tăng lên 89%. Thật khó có thể tưởng tượng ra một yếu tố nào khác gây ra một sự biến chuyển bất thường như thế, nếu không do bệnh thành tích!

    Ngược lại với những gì Phó TT Nguyễn Thiện Nhân và Thứ trưởng Trần Quang Quý nhận xét về tình hình giáo dục theo chiều hướng tích cực, các kết quả phân tích này cho thấy tình hình giáo dục đang tiếp tục biến chuyển theo chiều hướng tiêu cực. Phong trào "Hai không" mà cựu Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân phát động trong thời gian đầu nhậm chức xem ra chỉ có kết quả ngay sau đó, nhưng nay thì căn bệnh thành tích đã tái phát, và mức độ tái phát đã tương đương với thời điểm ông mới nhậm chức.

    Có lẽ bài học ở đây là chúng ta không cần những phong trào với chữ "không" mà cần những thay đổi về tư duy một cách triệt để, và một trong những tư duy cần xóa bỏ ngay là tư duy bệnh thành tích, bất kể tư duy này xuất phát từ áp lực chính trị hay mặc cảm địa phương.

    ........... Giáo dục tiếp tục chuyển biến theo chiều hướng...tiêu cực (II)
    Lần sửa cuối bởi laotam, ngày 23-06-2010 lúc 11:39 AM.

  4. #14
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    292
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Làm tiến sĩ ở Mỹ nhưng không biết tiếng Anh

    Hơn một tuần nay, dư luận tỉnh Phú Thọ xôn xao khi được biết ông Nguyễn Ngọc Ân, giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao và du lịch tỉnh Phú Thọ đã có học vị tiến sĩ với đề tài “Vấn đề di sản văn hóa với việc phát triển kinh tế du lịch tỉnh Phú Thọ”.



    Sự việc bắt đầu từ khi ban tổ chức hát Xoan tỉnh Phú Thọ giới thiệu ông Ân là “tiến sĩ” làm nhiều người ngỡ ngàng, vì trước đó ông Ân chỉ là cử nhân tại chức kinh tế - quốc dân khóa 24 (lớp học được tổ chức tại thành phố Việt Trì).

    Ông Nguyễn Ngọc Ân cho biết, ông có ý định làm tiến sĩ về đề tài này đã lâu. Tháng 6/2008, ông được bổ nhiệm làm giám đốc sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch thì mọi việc mới bắt đầu với sự giúp sức của các cán bộ chuyên môn trong sở. Ông cũng cho biết học vị của mình là tiến sĩ kinh tế quản trị kinh doanh chứ không phải là tiến sĩ khoa học. Viện kinh tế (Bộ Tài chính) là nơi giới thiệu ông đi làm tiến sĩ tại trường đại học Nam Thái Bình Dương của Mỹ.

    Ông Ân khẳng định trong thời gian làm tiến sĩ từ tháng 2/2007 đến 9/2009, ông có sang trường đại học này để học hai đợt, mỗi đợt một tuần, được nghe giảng tiếng Anh qua phiên dịch sang tiếng Việt và ngay cả khi ông bảo vệ luận án cũng có người dịch cho ông từ đầu đến cuối.

    Ông Nguyễn Ngọc Ân khẳng định trong thời gian làm tiến sĩ có sang trường đại học Nam Thái Bình Dương để học hai đợt, mỗi đợt một tuần, được nghe giảng tiếng Anh qua phiên dịch sang tiếng Việt và ngay cả khi ông bảo vệ luận án cũng có người dịch cho ông từ đầu đến cuối.

    Và ông cũng khẳng định ông tự học là chính thông qua tài liệu của trường đại học Nam Thái Bình Dương soạn bằng tiếng Việt và đĩa CD. Trường đại học Nam Thái Bình Dương cũng không yêu cầu những nghiên cứu sinh như ông Ân phải biết tiếng Anh, không phải thi đầu vào mà chỉ cần gửi đề cương sang cho họ… chỉnh sửa là được.

    Ông Ân cũng cho hay, luận án tiến sĩ quản trị kinh doanh của ông không có người hướng dẫn nhưng lại có tới ba người phản biện!

    Trao đổi với chúng tôi, một lãnh đạo tỉnh Phú Thọ (xin được giấu tên) cho biết, khi ông Ân đi đào tạo tiến sĩ, tỉnh cũng hỗ trợ kinh phí. Sau khi hết thời gian “tu nghiệp” ở Nam Thái Bình Dương (thực chất là ông vẫn làm việc tại tỉnh nhà), ông Ân cũng trình văn bằng tiến sĩ với Ban tổ chức tỉnh ủy và bằng đó là bằng thật.

    Tuy nhiên, vị lãnh đạo tỉnh này cũng cho biết, quy trình đào tạo tiến sĩ của ông Ân “có vấn đề” vì Bộ Giáo dục - đào tạo đã có quy chế đào tạo tiến sĩ. Theo đó, nghiên cứu sinh phải có bằng thạc sĩ hoặc tốt nghiệp đại học hệ chính quy loại khá trở lên, có thư giới thiệu của hai giáo sư hoặc phó giáo sư có uy tín giới thiệu. Và một điều kiện bắt buộc là phải có đủ trình độ ngoại ngữ để tham khảo tài liệu, tham gia hoạt động quốc tế về chuyên môn phục vụ nghiên cứu khoa học và thực hiện đề tài luận án.

    Theo Hữu Lực - Hà Tuấn
    Sài Gòn tiếp thị

  5. #15
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    292
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    “Tôi làm tiến sĩ tốn 17.000 USD!”

    "Tôi có học tại trường đại học Nam Thái Bình Dương (Southern Pacific University) tại Hoa Kỳ. Trường này tọa lạc tại thành phố New York!".



    Ông Nguyễn Ngọc Ân, giám đốc sở Văn hóa - thông tin và du lịch tỉnh Phú Thọ (nhân vật được đề cập trong bài “Làm tiến sĩ tại Mỹ nhưng không biết tiếng Anh”) khẳng định như vậy khi trao đổi với phóng viên báo Sài Gòn Tiếp Thị online chiều 17/6.

    Tuy nhiên, khi PV đề nghị muốn xem tấm bằng tiến sĩ của ông thì ông Ân nói “để dịp khác”.

    Theo thông tin của một đồng nghiệp được đăng tải trên một tờ báo mạng, chúng tôi dễ dàng tìm được trường đại học Nam Thái Bình Dương (Southern Pacific University) mà ông Ân “tu nghiệp”. Theo đó, Trường đại học Southern Pacific University nằm trong danh sách 50 trường đại học bị chính quyền bang Hawaii khởi tố, thua kiện và bị đóng cửa. Trường Southern Pacific University đã bị giải thể từ ngày 28/10/2003 theo phán quyết của tòa án Hawaii. Bằng cấp của trường Southern Pacific University không được Mỹ công nhận.

    Còn trường đại học Nam Thái Bình Dương với tên chính thức là “The University of South Pacific” của Fiji, một quốc đảo gần Úc, mới là trường thật. Chúng tôi trao đổi với ông Ân về điều này và hỏi ông học ở Fiji hay Mỹ, ông Ân nói: “Có thể chỗ tôi học ở New York chỉ là phân viện của trường Southern Pacific University!”.

    Thưa ông, ông có thể cho biết chi phí học để lấy bằng tiến sĩ của trường Southern Pacific University hết bao nhiêu?

    Chắc cũng tốn hơn chục ngàn USD gì đấy!

    Ông có thể nói rõ hơn?

    17.000 USD!

    Thưa ông, đó là kinh phí của tỉnh Phú Thọ hỗ trợ ông đi đào tạo tiến sĩ?

    Không, đó là tiền cá nhân, còn tiền kinh phí hỗ trợ của tỉnh thì tôi chưa lấy, mặc dù tỉnh đã có quyết định rồi!

    Khóa học cùng ông có bao nhiêu người Việt Nam học cùng ông, ở Phú Thọ có ai học cùng ông không?

    Khoảng chín, mười người gì đó, họ đều ở Hà Nội, Thái Nguyên; còn ở Phú Thọ không có ai.

    Ông có thể cho chúng tôi xem giáo trình, đĩa CD của trường phát cho ông để ông tự học?

    Như tôi đã nói, tôi học trường này là theo kiểu đào tạo từ xa, nên tôi học qua mạng, nộp trả bài cũng qua mạng.

    Vậy ông có thể cung cấp cho chúng tôi trang web của trường đại học của ông không?

    Không, tôi không nhớ.

    Cảm ơn ông!

    Theo Hữu Lực- Hà Tuấn
    Sài Gòn Tiếp Thị

  6. #16
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    292
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    http://tuoitre.vn/Giao-duc/382846/Da...ach-nhiem.html

    http://tuoitre.vn/Giao-duc/382846/Dai-hoc-lon-xon-khong-ai chiu-trach-nhiem.html

    Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân: Các đời bộ trưởng cùng... chia sẻ trách nhiệm

    Theo nguyên tắc chung, giáo dục của chúng ta nằm trong sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội, quản lý chung của Chính phủ. Nếu để tình hình như hôm nay, mặt được hoặc chưa được thì các bộ trưởng Bộ GD-ĐT từ năm 1975 đến giờ chắc cùng được chia sẻ và chịu trách nhiệm.

    Về phần nhiệm kỳ của chúng tôi, năm 2008 chúng tôi có nói là không thể tiếp tục phát triển tăng số lượng mà không giám sát chất lượng. Năm 2009 chúng tôi xác định được nguyên nhân, cách làm đó là chúng ta mong muốn nâng cao chất lượng, làm rất nhiều nhưng chất lượng không hiệu quả.

    Vậy chứng tỏ có nhiều biện pháp chúng ta làm chưa đúng quy luật. Hoạt động giáo dục không chỉ chi phối bởi các quy luật sư phạm, mà còn quy luật của quản lý hệ thống, quy luật về kinh tế, quy luật về lợi ích của người trong xã hội và quy luật phát triển hoạt động khoa học - công nghệ. Cho nên, sửa yếu kém của giáo dục không phải chỉ sửa hoạt động sư phạm mà chính là sửa các hoạt động quản lý phù hợp với các quy luật như vậy.

    Chúng tôi xác định giáo viên thiếu, đúng; cơ sở vật chất thiếu, đúng. Nhưng tất cả những cái đó suy cho cùng do người quản lý các cấp góp phần tạo ra. Cho nên sửa ở đây là sửa quản lý, nhưng sửa như thế nào? Chúng tôi xác định một số nhiệm vụ, chẳng hạn như đầu năm nay tổ chức thảo luận trong toàn ngành, toàn xã hội, trong đó khẳng định cần tổ chức thảo luận để thống nhất nhận thức không thể tiếp tục phát triển quy mô giáo dục đại học mà buông lỏng quản lý chất lượng như trong thời gian vừa qua.

    (Trích phát biểu của Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân tại phiên thảo luận)
    LÊ KIÊN ghi

    http://tuoitre.vn/Giao-duc/382846/Da...ach-nhiem.html

  7. #17
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    292
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Nhu cầu dẫn đến bằng giả từ trường dỏm
    Tác giả: Nguyễn Văn Tuấn - Viện Nghiên cứu Garvan

    Câu chuyện chung quanh sự việc quan chức văn hóa một tỉnh có bằng tiến sĩ nhưng không biết tiếng Anh, thực chất là bằng dỏm là một hệ quả của sự nghịch lí về chức vụ và bằng cấp ở nước ta.



    Dư luận công chúng bức xúc về trường hợp một quan chức văn hóa của một tỉnh có bằng tiến sĩ nhưng không biết tiếng Anh. Thật ra, bằng tiến sĩ của vị quan chức này là một bằng dỏm từ một cơ sở kinh doanh bằng cấp bên Mĩ, và do đó không có giá trị học thuật gì cả.

    Nghịch lí tạo nhu cầu

    Ở nước ta đang tồn tại một nghịch lí về chức vụ và bằng cấp. Theo logic thông thường và qui trình bao đời nay ở nước ta và trên thế giới, người có năng lực chuyên môn (thể hiện qua kinh nghiệm và bằng cấp) được bổ nhiệm vào các chức vụ công quyền thích hợp.

    Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta có tình trạng đi ngược lại qui trình trên: bổ nhiệm trước, rồi hợp thức hóa sau. Thật vậy, trong thực tế, đã có biết bao trường hợp người được chỉ định (hay "cơ cấu") vào các chức vụ công quyền dù chưa có bằng cấp thích hợp. Điều này dẫn đến một hệ quả là người được bổ nhiệm phải hợp thức hóa bằng cách "chạy" bằng cấp.

    Đây là một nghịch lí phổ biến ở nước ta ngày nay, nhưng rất hiếm thấy trên thế giới.

    Có thể nói rằng nhu cấp bằng cấp rất lớn ở nước ta. Trong bối cảnh kinh tế - xã hội phát triển nhanh đặt ra nhu cầu cho rất nhiều vị trí công tác trong hệ thống quản lí và công quyền. Hàng năm, có lẽ có hàng vạn người được bổ nhiệm vào các chức vụ hành chính và quản lí, dù họ chưa có bằng cấp thích hợp, và dẫn đến nhu cầu bằng cấp. Trong nhiều trường hợp, việc hợp thức hóa bằng cấp được cấp trên khuyến khích và tạo điều kiện.

    Có lẽ do nhu cầu này mà hàng trăm đại học ồ ạt ra đời trong thời gian gần đây trên khắp các tỉnh thành ở nước ta. Tình trạng này dẫn đến một hệ quả có thể đoán được là chất lượng đào tạo bị suy giảm, do thiếu thầy cô và cơ sở vật chất cho giảng dạy và thực hành. Chất lượng đào tạo xuống cấp làm cho công chúng nghi ngờ tất cả những bằng cấp xuất phát từ các đại học ở Việt Nam.

    Dù muốn hay không, cũng phải ghi nhận một thực tế là người Việt chúng ta rất vọng ngoại. Tâm lí vọng ngoại nhìn người nước ngoài, nhất là người phương Tây, bằng con mắt nể phục. Từ nể phục, chúng ta xem cái gì của phương Tây hay xuất phát từ phương Tây cũng đều có giá trị hơn, có chất lượng cao hơn những gì xuất phát từ trong nước. Do đó, không ngạc nhiên khi bất cứ thời nào, những gia đình có điều kiện đều muốn gửi con em ra nước ngoài du học, lấy được một mảnh bằng với tiếng Anh hay tiếng Pháp làm chứng từ cho việc tiến thân sau này.

    Trong tình hình giáo dục Việt Nam xuống cấp thê thảm và hỗn loạn như hiện nay, không ai ngạc nhiên khi thấy một làn sóng mà có người ví von là "tị nạn giáo dục" ở nước ngoài, với hàng vạn học sinh và sinh viên từ VN đang theo học tại các trường trung học và đại học ở Mĩ, Úc, Anh, Pháp, Canada, Singapore, v.v... Các quan chức Việt Nam gửi con em ra ngoài học khá nhiều.
    Thật ra, chính các quan chức này cũng có nhu cầu kiếm một tấm bằng từ nước ngoài để làm phương tiện thăng quan tiến chức. Tiêu biểu cho tình trạng này là các quan chức ở tỉnh Phú Thọ tìm cách theo học ở Mĩ để có một học vị tiến sĩ, dù các vị này không biết tiếng Anh!
    Thông tin này làm công chúng hết sức bức xúc vì họ không ngờ ở Mĩ cũng có những trường đào tạo tiến sĩ mà nghiên cứu sinh không biết tiếng Anh!

    Nhận dạng trường dỏm

    Nhưng trong thực tế, thị trường giáo dục ở nước ngoài cũng có tình trạng vàng thau lẫn lộn. Bên cạnh những trường nổi tiếng như Harvard, Stanford, Yale, Cornell, Princeton, Columbia, v.v... cũng có hàng trăm trường xoàng xĩnh.

    Nguy hiểm hơn, bên cạnh những trường xoàng xĩnh, còn có hàng ngàn cơ sở thương mại giáo dục xuất hiện dưới danh xưng "đại học" chuyên bán bằng cấp. Đây là những "trường" dỏm, những trường mà chẳng có một tổ chức kiểm định giáo dục nào trên thế giới công nhận.

    Những cơ sở kinh doanh bằng cấp (tức trường dỏm) thường có một số đặc điểm chính sau đây:

    Thứ nhất, họ có những tên giống như trường thật. Vì để đánh lạc hướng người tìm hiểu và "lặp lờ đánh lận con đen", nên các cơ sở buôn bán bằng cấp thường lấy những tên mà đọc lên có âm tiết giống như các trường nổi tiếng. Chẳng hạn như thay vì đại học Harvard, họ nhái tên là đại học Horvard, hay đại học Harward.

    Vị quan chức tỉnh Phú Thọ cho biết ông theo học tại trường đại học Nam Thái Bình Dương. "Trường" này có tên tiếng Anh là Southern Pacific University, nhái theo tên trường thật của Fiji là University of South Pacific!

    Thứ hai, các cơ sở bán bằng cấp thường thay đổi địa chỉ rất thường xuyên. Chẳng hạn như trường "đại học Nam Thái Bình Dương" danh nghĩa là ở Hawaii (Mĩ), nhưng đăng kí thì ở... Malaysia! Trong thời đại internet, có rất nhiều "trường" chẳng có địa chỉ cụ thể, mà chỉ một website. Với công nghệ web và thông tin, họ có thể thiết kế một trang web "hoành tráng" giống y như trang web của trường đại học thật.

    Thật vậy, có thể nói rằng trang web của các doanh nghiệp bán bằng cấp còn hoành tráng hơn nhiều so với các trang web của đại học thật ở Việt Nam!

    Thứ ba, tài liệu trình bày thường sai chính tả và sai văn phạm tiếng Anh. Sự thật là những người chủ doanh nghiệp "đại học" không thạo tiếng Anh, hay xuất thân từ Phi châu. Chính vì thế mà tiếng Anh của họ có rất nhiều sai sót. Ngay cả "bằng cấp" họ cấp cũng có nhiều lỗi chính tả và văn phạm! Đương nhiên, đối với phần đông người Việt thì những lỗi này khó phát hiện.

    Thứ tư, họ thường nhấn mạnh thời gian hoàn tất học rất nhanh. Thay vì phải bỏ ra 3, 4 năm để hoàn tất chương trình cử nhân, các cơ sở này quảng cáo rằng chương trình cử nhân chỉ cần... 7 ngày. Ngay cả tiến sĩ cũng chỉ cần... 1 tháng!

    Bằng cấp của họ cũng rất mù mờ, không có gì là cụ thể. Thay vì gọi "cử nhân kinh tế", họ cố tình đổi thành "Cử nhân kinh tế quản trị kinh doanh" - một ngành học chẳng ai biết có ý nghĩa gì! Cố nhiên, vì đây là doanh nghiệp mua bán, nên không có vấn đề tiêu chuẩn về đầu vào và đầu ra. Bất cứ ai cũng có thể "ghi danh" theo học, miễn là có khả năng trả tiền.

    Thứ năm, những "trường" dỏm này không có giáo sư, không có giảng đường, và cũng không có chương trình học. Điều này thì ai cũng có thể hiểu được, bởi vì trong thực tế, những cơ sở kinh doanh này thực chất chỉ là một nhà để xe (garage) hay một khu nho nhỏ trong phòng ngủ hay phòng khách cũng đủ để thiết lập một "đại học" dỏm.

    Thời đại internet là cơ hội lí tưởng để các "đại học" dỏm này sinh sôi nảy nở. Những cơ sở thương mại này cũng chẳng khác gì những doanh nghiệp làm đồng hồ dỏm. Tức là cơ sở thương mại có đăng kí tên doanh nghiệp đàng hoàng, và hàng hóa của họ là bằng cấp.

    Cũng như đồng hồ dỏm, bằng cấp dỏm của họ rất giống bằng cấp thật. Họ bán những bằng cấp từ cấp cử nhân, thạc sĩ, đến tiến sĩ, với những cái giá khác nhau. Bằng cấp càng cao, giá càng cao. Một bằng tiến sĩ có khi giá khoảng 5000 USD. Là cơ sở thương mại, nên họ cũng cạnh tranh, và trong khi cạnh tranh, họ cũng... giảm giá (discount)!

    Cố nhiên, bằng cấp của họ không được ai công nhận. Khách hàng của họ thường là những người nhẹ dạ từ các nước thiếu thông tin và kém tiếng Anh như nước ta.
    Học tiến sĩ ở Mĩ nhưng không biết tiếng Anh

    Trong thực tế, đã có không ít người ở nước ta là nạn nhân của các cơ sở bán bằng cấp. Hai hôm nay, dự luận công chúng bức xúc về một số trường hợp giám đốc sở văn hóa tỉnh Phú Thọ lấy học vị tiến sĩ ở Mĩ nhưng không biết tiếng Anh. Vị quan chức này cho biết ông theo học tại trường "Đại học Nam Thái Bình Dương của Hoa Kỳ". Tuy nhiên, tôi e rằng vị quan chức đó là nạn nhân của một cú lường gạt.

    Qua tìm hiểu, tôi được biết trường này có tên là Southern Pacific University (tên pháp lí là Southern Pacific University, Inc, a Hawaii corporation). "Trường" có hẳn một website khá hoành tráng. Tuy nhiên, theo tài liệu của Bộ Thương mại và Tiêu thụ vụ (Department of Commerce and Consumer Affairs) thì "trường" đã bị giải thể từ ngày 28/10/2003 (nguyên văn: "Although incorporated in Hawaii, SPU was based in Malaysia. SPU's Hawaii corporation was dissolved on October 28, 2003.")

    Đây là một trường dỏm, và đã được đưa vào danh sách các trường dỏm. Trường này thậm chí còn được liệt kê vào danh sách scam, tức là những nơi chuyên lừa gạt người nhẹ dạ để lấy tiền bằng cách bán bằng cấp dỏm. Bằng cấp của trường Southern Pacific University không được các cơ quan kiểm định giáo dục của Mĩ công nhận.

    Nói tóm lại, tôi nghĩ vị quan chức này đã bị lừa gạt và chắc tốn nhiều tiền để có cái giấy tiến sĩ đó. Tờ giấy gọi là tiến sĩ đó chỉ là chứng từ của một sự lường gạt, chứ không phải là một học vị gì cả.

    Kinh doanh giáo dục không chỉ giới hạn trong việc buôn bán bằng dỏm, mà còn bao gồm buôn bán chức danh dỏm. Những chức danh hay danh xưng như "danh nhân thế giới" (Who is Who in the World), bộ óc vĩ đại, viện sĩ hàn lâm, v.v... đều có thể mua từ các nhóm kinh doanh qua mạng, thậm chí qua các tổ chức mà đọc qua tên thì có vẻ như thật. Vấn đề trở nên phức tạp khi phân biệt giữa tổ chức thật và giả.

    Chẳng hạn như Viện hàn lâm khoa học New York là một tổ chức khoa học thật sự, nhưng cách họ cấp bằng "viện sĩ" thì không nên hiểu là viện sĩ mà chỉ là hội viên. Khoảng 6 năm trước đây, người viết bài này đã giải thích những khác biệt đó, nhưng rất tiếc là mãi đến nay vẫn còn nhiều người ở Việt Nam bị sa đà vào cái bẫy danh xưng và tốn tiền một cách không cần thiết.

    Điều đáng nói là có cơ quan Nhà nước khuyến khích, chi tiền để nhân viên mình có được những danh xưng dỏm, những học vị dỏm đó! Trong tình trạng vàng thau lẫn lộn như hiện nay ở Việt Nam, những danh xưng tiến sĩ hay giáo sư, nhất là trong giới quan chức, càng ngày càng trở thành chuyện tiếu lâm dân gian. Nhưng nghiêm chỉnh và bình tâm mà nói, phải gọi đó là một quốc nạn giáo dục.

    Trong khoa bảng, không có phương cách gọi là "đi tắt đón đầu". Tri thức tích lũy theo thời gian chứ không thể nào một sớm một chiều mà có được. Tất cả những học vị khoa bảng hay bằng cấp nói chung là một chứng nhận về một quá trình học tập để tiếp thu kiến thức trong một thời gian dài, có khi rất dài và rất gian nan.
    Tiến sĩ là một học vị cao nhất trong hệ thống giáo dục hiện đại, và người có học vị này được công chúng phương Tây kính cẩn gọi là "Doctor". Người có văn bằng đó phải trải qua một quá trình học và nghiên cứu với những thành quả được cộng đồng khoa học quốc tế công nhận. Điều cốt lõi và cũng là đặc điểm để phân loại bằng tiến sĩ với các bằng cấp khác là nghiên cứu. Không có nghiên cứu khoa học thì không thể là tiến sĩ được.

    Do đó, văn bằng tiến sĩ thích hợp và giá trị cao nhất trong khoa bảng và nghiên cứu khoa học, chứ không phải trong hệ thống công quyền và quản lí hành chính.

    Bằng tiến sĩ càng không phải là món hàng để người ta mua làm vật trang sức hay làm phương tiện để thăng quan tiến chức.

    So với các nước trong vùng, nước ta có nhiều tiến sĩ và giáo sư. Tính đến nay, Việt Nam đã phong hàm giáo sư và phó giáo sư cho hơn 8300 người. Con số tiến sĩ còn cao gấp 4 lần con số giáo sư. Chúng ta không biết bao nhiêu tiến sĩ ở Việt Nam được cấp bởi những "trường" dỏm, nhưng chúng ta có thể nói rằng những tiến sĩ dỏm này làm cho năng suất khoa học Việt Nam thấp hơn các nước trong vùng.

    Thật vậy, hàng năm Việt Nam chỉ công bố được khoảng 1000 công trình khoa học trên các tập san quốc tế, tức chỉ bằng khoảng 1/5 Thái Lan và 1/10 Singapore. Lí do đơn giản là vì Việt Nam có nhiều giáo sư và tiến sĩ không làm việc trong khoa học, mà chỉ làm quản lí và hành chính. Rất nhiều các quan chức trong các bộ của chính phủ đều có bằng tiến sĩ. Phân nửa những bộ trưởng VN có bằng tiến sĩ. Nhưng trớ trêu thay, chỉ có khoảng ~20% giảng viên trong các đại học lớn ở VN có văn bằng tiến sĩ! Đó là một nghịch lí.

    Đã đến lúc phải phục hồi qui trình tuyển dụng quan chức theo logic thông thường: dựa vào kinh nghiệm và bằng cấp đã có, chứ không nên "cơ cấu" xong rồi mới hợp thức hóa sau. Đã đến lúc phải nhận thức rằng văn bằng tiến sĩ là để nghiên cứu khoa học và giảng dạy đại học, chứ không phải là một chứng chỉ để thăng quan tiến chức.

  8. #18
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    292
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Thi tuyển sinh vào lớp 10: Bỏ được không?
    Nhiều năm nay, học sinh THCS đã không còn phải thi tốt nghiệp. Tuy nhiên, tại một số thành phố lớn như Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Cần Thơ, vì áp lực trường lớp, học sinh đã phải dốc sức cho kỳ thi vào lớp 10.

    Kỳ thi trở thành nỗi ám ảnh của phụ huynh và học sinh khi phải vừa dốc sức ôn thi vừa căng đầu tính toán nguyện vọng...

    Với góc nhìn của người trong cuộc, các nhà quản lý, lãnh đạo của ngành giáo dục đã lên tiếng lý giải về sự cần thiết và khả năng bỏ kỳ thi này
    Đủ trường lớp sẽ bỏ thi!
    Ngành giáo dục TP.HCM xây dựng động cơ học tập của học sinh là học để biết, để trưởng thành, để phục vụ chứ không phải học để đối phó với thi cử. Hiện nay một số quận, huyện của TP đã thực hiện xét tuyển. Các quận, huyện còn lại vì áp lực học sinh đông, không đủ chỗ học nên nhất thiết phải thi tuyển mới công bằng, khách quan. Sở GD&ĐT tổ chức kỳ thi tuyển sinh lớp 10 ngay sau khi kết thúc chương trình học THCS một tháng nhằm rút ngắn thời gian để các em không phải đi luyện thi, chỉ tự ôn tập ở nhà. Thi tuyển sinh lớp 10 thực ra là để sắp xếp lại chỗ học cho các em, trên cơ sở đó lựa chọn học sinh ưu tú, có năng khiếu vào các trường danh tiếng.

    Để giảm áp lực thi cử, Sở đã tham mưu với lãnh đạo thành phố xây dựng trường lớp, thúc đẩy thực hiện quy hoạch trường lớp để đảm bảo đủ chỗ học cho con em nhân dân. Khi trường lớp đã đủ chỗ cho học sinh vào học thì không cần tổ chức thi nữa.

    TS HUỲNH CÔNG MINH, Giám đốc Sở GD&ĐT TP.HCM


    Cần có hệ thống trường nghề hiệu quả!
    Hiện nay, học sinh học xong THCS là phải cố thi đậu vào lớp 10 công lập. Dân ta còn nghèo, con cái không đậu trường công thì lấy tiền đâu mà học trường dân lập, tư thục. Ở lứa tuổi 14-15, nếu các em thi rớt, không vào được lớp 10 mà học nghề cũng không xong thì các em dễ bị khủng hoảng tâm lý, tệ nạn xã hội rình rập. Hơn nữa, có một nghịch lý là chúng ta đang chủ trương phổ cập THPT, tức là tạo điều kiện cho rất nhiều học sinh học hết THPT, vậy mà chúng ta tổ chức thi tuyển, kỳ thi chẳng khác gì tạo ra một rào chắn.
    Ở Pháp, hệ thống trường nghề đầu tư rất bài bản, trang bị thiết bị dạy nghề cũ, mới đều có. Học sinh được tiếp cận, học cách sử dụng và làm chủ thiết bị rất tốt, không bao giờ lo chuyện thất nghiệp. Học sinh của họ được doanh nghiệp đặt hàng ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Năm 1996, tôi có dịp đến một trường dạy nghề của Pháp. Tôi hỏi một học sinh ở đây: “Tại sao cháu không học tiếp THPT?”, cậu ta trả lời rằng: “Nếu học tiếp THPT thì trong ba năm đó bố mẹ phải lo. Bởi vậy cháu chọn học trung học chuyên nghiệp, chỉ sau ba năm cháu có một nghề trong tay, tự kiếm tiền nuôi sống mình rồi đăng ký học lên ĐH”.

    Chúng ta chưa hệ thống đào tạo nghề có uy tín và chất lượng để thu hút học sinh. Tầm nhìn giáo dục của chúng ta rất dở. Chúng ta hay tuyên truyền việc cha đạp xích lô, mẹ bán vé số, làm thuê làm mướn đủ kiểu để nuôi con học tới nơi tới chốn. Nhưng dân ta còn nghèo lắm, không phải ai cũng đủ sức lo cho con đi học. Nếu chúng ta có hệ thống trường nghề chuẩn như các nước thì tôi tin chắc các học sinh nghèo, hoàn cảnh khó khăn sẽ không học tiếp THPT mà sẽ chọn con đường học nghề. Lúc ấy, trường THPT sẽ… trống chỗ, việc thi tuyển sinh lớp 10 sẽ không còn!

    Ông NGUYỄN HỮU DANH, Phó Chủ tịch Hội Cựu giáo chức TP.HCM, nguyên Hiệu trưởng Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong



    Học bạ có đáng tin?
    Theo quy định hiện nay, học sinh vào lớp 10 chỉ cần thi hai môn văn, toán và kèm bảng điểm trong bốn năm học cấp hai. Chính vì vậy, phần lớn học sinh chỉ tập trung ôn hai môn văn, toán và bỏ bê các môn khác. Khi nhận học sinh vào trường, tôi thấy các em học các môn khác rất đại khái, kiến thức thì hổng nhiều, nhất là môn khối tự nhiên lý, hóa. Nếu bỏ kỳ thi này ngay thì thật sự nguy hiểm. Đặc biệt, với căn bệnh thành tích tràn lan như hiện nay thì ai dám chắc chỉ cần điểm học bạ cũng đảm bảo đánh giá chính xác chất lượng học sinh.

    Để giảm áp lực thi cử thì ngành giáo dục phải khắc phục hình thức đào tạo kiểu “đầu voi, đuôi chuột” và đào tạo cho học sinh theo kiểu “nước rút”, tất cả dồn vào những năm cuối cấp. Tôi đề nghị nếu không thi vào lớp 10 thì bắt buộc phải thay thế bằng hình thức tuyển chọn nào đó để đánh giá chất lượng của học sinh trong cả quá trình học tập. Đồng thời phải thống nhất việc xét tuyển học bạ và thi vào lớp 10 tại nhiều vùng, địa phương. Chứ kiểu nơi có xét, nơi không; miền Bắc thi hai môn, miền Nam thi ba môn như hiện nay thì sẽ khó đảm bảo chất lượng một cách đồng đều
    GS VĂN NHƯ CƯƠNG, Hiệu trưởng Trường dân lập Lương Thế Vinh, Hà Nội



    Căng thẳng và mệt mỏi

    Chị Huyền Nga, phóng viên một tờ báo thường trú tại TP.HCM, đang có con dự thi vào lớp 10 chia sẻ: “Thấy con trai ôn tập mệt mỏi trong vòng một tháng mà sốt ruột! Cháu học đêm học ngày, lại cứ mang tâm lý nơm nớp sợ thi rớt. Tôi phải tìm mọi cách để cân bằng tâm lý, sức khỏe cho cháu. Cũng may, giờ thì áp lực căng thẳng và vẻ mệt mỏi của cháu đã giãn ra khi cả ba môn cháu đều làm bài rất tốt”... Không chỉ chị Huyền Nga lo lắng mà hàng chục ngàn phụ huynh có con dự thi trong kỳ thi này cũng có cùng tâm trạng trên.

    Hiện nay, các TP lớn luôn bị sức ép tăng dân số, trường lớp xây mới nhiều nhưng vẫn thiếu chỗ học. Bởi vậy học sinh muốn vào học hệ công lập (học phí thấp, có uy tín) không còn cách nào khác là phải tham gia thi tuyển. Với tỉ lệ đậu vào lớp 10 công lập ở TP.HCM khoảng 85%, Cần Thơ 75%-80%, Hà Nội khoảng 70%... nên học sinh nào cũng dốc hết sức để vượt qua kỳ thi. Chưa hết, phụ huynh cũng khổ sở không kém khi phải cùng con mình chiến đấu với bài toán lựa chọn nguyện vọng. Và thực tế, nhiều năm qua, không ít học sinh giỏi không vào được lớp 10 công lập vì tính toán sai nguyện vọng.

    Liệu có nên duy trì một kỳ thi mà chỉ có một ý nghĩa duy nhất là để sắp xếp chỗ học?


    QUỐC VIỆT - TỐ NHƯ
    Ngày 17-7, các trường ở TP.HCM công bố điểm chuẩn

    Chiều 22-6, tại TP.HCM, thí sinh dự thi vào lớp 10 thường và lớp 10 chuyên đã hoàn tất các môn thi. Ông Lê Hồng Sơn, Phó Giám đốc Sở GD&ĐT TP.HCM, cho biết: Kỳ thi kết thúc an toàn, nghiêm túc, không có thí sinh, giám thị vi phạm quy chế. Tổng cộng có 517 thí sinh bỏ thi không lý do.

    Theo ông Sơn, dự kiến ngày 17-7, các trường sẽ công bố điểm chuẩn. Ngày 22-7, thí sinh nộp đơn xin phúc khảo nếu có khiếu nại về điểm thi. Điều kiện phúc khảo là thí sinh có điểm thi thấp hơn điểm trung bình của môn đó ở năm học lớp 9 là 1 điểm.

    Cùng ngày, hơn 13.000 học sinh Đà Nẵng cũng kết thúc kỳ thi tuyển sinh lớp 10. Mục tiêu chọn trường của những thí sinh khá, giỏi năm nay vẫn là hai trường THPT chuyên Lê Quý Đôn và THPT Phan Châu Trinh. Theo đó, Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn sẽ tiếp tục tổ chức thi tuyển vào trường trong ba ngày 24, 25 và 26-6.

    Ông Nguyễn Hiệp Thống, Chánh văn phòng Sở GD&ĐT TP Hà Nội, cho biết kết thúc hai môn thi văn, toán, có hơn 800 học sinh vắng mặt không rõ lý do. Theo đánh giá nhanh của các giám thị, không có vụ vi phạm quy chế nào xảy ra. Hôm nay (23-6), khoảng 9.000 thí sinh thi môn chuyên sẽ thi thêm môn ngoại ngữ và ngày 24-6, thi môn chuyên.

    QV - LP – TN

  9. #19
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    292
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia xây dựng xã hội học tập
    Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định 927/QĐ-TTg thành lập Ban chỉ đạo quốc gia xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2011-2020. Ban chỉ đạo có 22 thành viên do Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân làm Trưởng ban.



    3 Phó Trưởng ban gồm Thứ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào tạo (Phó Trưởng Ban thường trực), Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam.

    Các ủy viên Ban chỉ đạo gồm lãnh đạo một số Bộ, ngành liên quan.Ban chỉ đạo có Tổ thư ký do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định.

    Ban chỉ đạo có nhiệm vụ tham mưu, đề xuất với Thủ tướng Chính phủ về phương hướng, cơ chế, chính sách và các giải pháp xây dựng xã hội học tập.

    Ban chỉ đạo cũng giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, điều phối hoạt động giữa các Bộ, ngành, các địa phương và các cơ quan, tổ chức liên quan trong việc triển khai thực hiện các chính sách, chương trình, kế hoạch, đề án, dự án về xây dựng xã hội học tập; kiểm tra, đôn đốc, đánh giá kết quả thực hiện, định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

    Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan thường trực Ban chỉ đạo, có nhiệm vụ bảo đảm các điều kiện hoạt động của Ban chỉ đạo này.

    Theo Chí Kiên (Chinhphu.vn)

  10. #20
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    292
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Nỏ thần giả và bằng Tiến sĩ dỏm
    Tác giả: Hiệu Minh
    Chuyện bằng cấp dỏm thời nay có khác chi lẫy nỏ giả của Triệu Đà cách đây mấy ngàn năm. Sự dối trá đã len lỏi vào xã hội, vào giáo dục, vào y đức, vào quan trí, dân trí và được một số người chấp nhận như một việc bình thường...



    Bằng dỏm ở trường giả mang danh quốc tế

    Hơn 20 năm trước, tôi có người đồng nghiệp được mời sang giảng dạy bên AIT (Thái Lan) nhưng tiếng Anh hơi yếu. Khi hỏi, với ngoại ngữ yếu thì có mệt không, anh thản nhiên đùa "Chỉ có sinh viên nghe giảng mới mệt. Còn mình chả thấy vấn đề gì".

    Mấy anh lái xe cho văn phòng nước ngoài, vốn tập tọe tiếng Anh, kể vui rằng "Cha nội Chris Shaw gốc UK chính hiệu mà tiếng Anh rất...yếu. Lão ấy chả hiểu bọn em nói gì".

    Trong bối cảnh hội nhập, một lái xe và một giáo sư "tự tin"như thế là đáng khâm phục. Ít ra còn biết chút ngoại ngữ để mang chuông đi đánh nước người.

    Tuy nhiên, chuyện một vị cán bộ của ta sang Mỹ bảo vệ Tiến sỹ bằng tiếng Việt, rồi trong lúc làm luận án bên đó mà không cần biết tiếng Anh mới đáng khâm phục hơn cả, đáng ghi vào kỷ lục thế giới.

    Theo Sài Gòn Tiếp Thị đưa tin, dân chúng tỉnh Phú Thọ đang bàn về chuyện ông Giám đốc sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch của tỉnh, có học vị tiến sĩ với đề tài "Vấn đề di sản văn hóa với việc phát triển kinh tế du lịch tỉnh Phú Thọ".

    Khi được hỏi, ông nói có sang trường đại học này để học hai đợt, mỗi đợt một tuần, được nghe giảng tiếng Anh qua phiên dịch sang tiếng Việt. Khi ông bảo vệ luận án cũng có người dịch cho từ đầu đến cuối. Đại loại vị "tiến sĩ" này thuộc dạng một từ tiếng Anh bẻ đôi không biết.

    Đương nhiên còn nhiều chi tiết khá thú vị không tiện bàn ở đây như, vị tiến sỹ này tự học, đọc tài liệu của trường đại học Nam Thái Bình Dương soạn bằng tiếng Việt và đĩa CD. Trường đại học này cũng không yêu cầu nghiên cứu sinh phải biết tiếng Anh, không phải thi đầu vào mà chỉ cần gửi đề cương sang cho họ...chỉnh sửa là được.

    Một giáo sư có uy tín với nhiều năm công tác ở nước ngoài, đã tìm hiểu kỹ về trường ĐH Nam Thái Bình Dương và đi đến kết luận, bằng "tiến sỹ dỏm này được lấy từ trường giả".

    Trong bối cảnh ở nước ta bằng giả nhiều như đất thì chuyện trên của vị "tiến sỹ" nọ không có gì lạ. Lấy bằng dỏm ở trường giả mang danh Quốc tế cũng chẳng đáng ngạc nhiên. Thật lòng, chuyện ấy ở quốc gia nào cũng có.

    Chỉ có điều vị "tiến sỹ" nọ có thể giải thích với dư luận một cách đàng hoàng mới là chuyện lạ. Vị cán bộ này làm tới chức Giám đốc sở Văn hóa của tỉnh. Bỗng tôi ước, giá như ông có được sự "tự tin" về ngoại ngữ của vị giáo sư hay mấy bạn lái xe yếu tiếng Anh kể trên. Một chút thế thôi cũng là mừng lắm.

    Bằng dỏm hay nỏ thần giả
    Phú Thọ là vùng đất tổ cội nguồn, nơi đây các vua Hùng đã dựng nước. Miền đất này vốn giàu có về lịch sử, truyền thống và di sản văn hóa.

    Cách đây gần 6 thập kỷ, cụ Hồ về thăm Đền Hùng, gặp mặt và giao nhiệm vụ cho cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn quân Tiên phong trước khi về tiếp quản Thủ đô, từng căn dặn: "Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước".

    Giữ nước có nhiều cách. Xây dựng quốc gia hùng cường, mạnh về kinh tế và quân sự, dân trí và quan trí cao, gồm cả sức mạnh cứng và mềm, trong đó lấy văn hóa làm gốc cho phát triển. Gìn giữ, kế thừa và phát triển văn hóa là chìa khóa cho tương lai của một đất nước.

    Vì thế, quản lý văn hóa tại một nơi gọi là cái nôi sinh ra dân tộc Việt, cần một người đủ tâm, đủ tầm, đủ lượng tri thức cần thiết, nhưng không nhất thiết phải là... tiến sỹ.

    Thủa trước, người ta thường bàn tới những vị quan "nhân-nghĩa-lễ-trí-tín". Có trí mà không có tín cũng hỏng. Làm quan mà không có trí, không có tín lại càng hỏng.

    Dưới danh tiến sỹ dỏm của một trường giả để làm quan thì hỏi rằng ai có thể tin thành Cổ Loa được bảo vệ bởi một bàn tay tin cậy?

    Những lễ hội gần đây đã chứng minh rằng, chuyện bằng rởm đã được tái hiện lại trong những lễ hội được gọi là văn hóa, truyền thống hay lịch sử. Bánh chưng dâng vua bằng nệm mút. Cướp hoa trong lễ hội hoa. Rồi lễ hội xin ấn, chai rượu to, mâm cao, cỗ đầy chẳng phải để nhớ người xưa mà chỉ mong được làm quan. Lễ hội rất lớn nhưng chứa đựng toàn những điều không thật, phản ánh thực trạng quan trí nước nhà.

    Viết tới đây, tôi chợt nhớ chuyện Mỵ Châu Trọng Thủy. An Dương Vương có chiếc nỏ thần mà bảo vệ được thành Cổ Loa trước giặc Triệu Đà vì thần Kim Qui cho chiếc lẫy nỏ là móng của mình. Nỏ này bắn một phát diệt hàng vạn tên địch. Địch không thể chiếm được thành.

    Trọng Thủy là con Triệu Đà sang nước Nam tìm cách yêu Mỵ Châu và đổi được chiếc lẫy nỏ thật bằng một chiếc dỏm. An Dương Vương đã mất thành, mất nước. Ngày nay vẫn còn giếng Mỵ Châu - Trọng Thủy để người đời sau nhớ về bài học nỏ thần đắt giá.

    Chuyện bằng cấp dỏm thời nay có khác chi lẫy nỏ giả của Triệu Đà cách đây mấy ngàn năm. Sự dối trá đã len lỏi vào xã hội, vào giáo dục, vào y đức, vào quan trí, dân trí và được mọi người chấp nhận như một việc bình thường. Niềm tin đôi khi lại được đặt vào sự giả dối.

    Một lúc nào đó, chúng ta chợt nhận ra, di sản văn hóa được xây nên bởi những lâu đài tri thức không có thật mà sự bắt đầu chính là những tấm bằng tiến sỹ giả giúp cho đường quan lộ hanh thông. Sự suy vong của một quốc gia đôi khi cũng từ những lẫy nỏ "tiến sỹ dỏm" đó.

    Lời cụ Hồ năm xưa dặn ai còn nhớ. Nếu quên lời cố nhân và không nhớ bài học lẫy nỏ bị làm rởm từ mấy nghìn năm trước, rất có thể, một ngày nào đó không còn cả cái giếng Mỵ Châu rửa ngọc trai làm bài học cho đời sau.

Cảm ơn Bộ GD&ĐT đã tăng lương GV gấp 2,1 lần! ( Thầy Văn Như Cương )
Trang 2 của 5 Đầu tiênĐầu tiên 1234 ... CuốiCuối

Đánh dấu

Đánh dấu

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •  
.::Thăng Long Kỳ Đạo::.
  • Liên hệ quảng cáo: trung_cadan@yahoo.com - DĐ: 098 989 66 68