Kết quả 21 đến 30 của 45
-
24-06-2010, 09:48 PM #21
Nhận diện địa phương "học giỏi" nhất
Tác giả: Nguyễn Văn Tuấn
Nếu lấy ngưỡng 70% là tín hiệu của “bệnh thành tích” thì có thể nói rằng hầu hết các tỉnh thành đều có triệu chứng này không phải chỉ năm 2010 mà trong 4 năm qua..
Một trong những câu hỏi mà có lẽ công chúng muốn biết là trong số 63 tỉnh thành, địa phương nào có tỉ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT) cao nhất? Đây cũng là một câu hỏi chiếm khá nhiều thời lượng suy nghĩ của tôi. Nhận diện những địa phương có thành tích tốt (và những địa phương có kết quả kém) có thể dẫn đến những nghiên cứu chuyên sâu tìm hiểu căn nguyên và yếu tố liên quan, từ đó tìm biện pháp giảm những khoảng cách về chất lượng GD giữa các địa phương, là điều cần thiết.
Dễ mà không đơn giản!
Có lẽ đối với nhiều người, câu trả lời quá đơn giản: Chỉ cần tìm tỉ lệ tốt nghiệp THPT của một năm nào đó (như năm 2010 chẳng hạn), sắp xếp tỉ lệ tốt nghiệp từ cao xuống thấp, và nhận diện địa phương có tỉ lệ tốt nghiệp cao nhất. Thật ra, đây cũng chính là phương pháp mà các quan chức trong Bộ GD và ĐT từng làm. Phương pháp này có lợi thế là đơn giản, dễ hiểu, ai làm cũng được, kể cả học sinh tiểu học cũng có thể dùng máy vi tính để xếp hạng.
Nhưng phương pháp đơn giản đó có ít nhất là 2 khiếm khuyết lớn: Chưa tính đến độ dao động trong từng địa phương qua các năm, và chưa điều chỉnh cho hiện tượng "hồi qui" (sẽ giải thích dưới đây). Để thấy sai lầm của phương pháp đơn giản đó, chúng ta có thể xem qua Biều đồ 1 dưới đây.
Đặc điểm quan trọng nhất của biểu đồ này là tỉ lệ tốt nghiệp dao động rất lớn trong mỗi địa phương. Chẳng hạn như tỉnh Sơn La (ID số 63, ô bên góc phải, dòng đầu tiên) có tỉ lệ tốt nghiệp tăng và giảm một cách vừa liên tục vừa bất thường; nhưng trong cùng thời gian có những địa phương (như TP Hồ Chí Minh, ID số 1, ô đầu tiên góc trái của dòng cuối cùng) thì không có khác biệt gì đáng kể giữa các năm.
Điểm thứ hai là trong mỗi năm, tỉ lệ tốt nghiệp rất khác biệt giữa các địa phương. Thật ra, phân tích kĩ cho thấy phương sai của tỉ lệ tốt nghiệp trong mỗi địa phương cao gấp 7 lần phương sai giữa các địa phương! Những sự thật này nói lên rằng không thể sử dụng số liệu của một năm để đánh giá và so sánh tỉ lệ tốt nghiệp THPT.
Số trung bình đơn thuần không thể dùng để xếp hạng. Một cách khác để thấy khiếm khuyết của phương pháp xếp hạng dựa vào số trung bình có thể xem qua số liệu thực tế về tỉ lệ tốt nghiệp THPT của 2 tỉnh Quảng Nam và Phú Thọ trong 4 năm 2007 - 2010:
Tỉ lệ tốt nghiệp (trung bình) của Quảng Nam là 77.7%, và Phú Thọ là 77.8%. Nhìn vào bảng trên, chúng ta có thể kết luận rằng Phú Thọ tương đương, "học giỏi" như nhau? Cố nhiên là không. Bởi vì nếu nhìn kĩ, chúng ta sẽ thấy độ dao động của Phú Thọ cao hơn Quảng Nam. Thật vậy, phương sai của tỉnh Phú Thọ là 456, còn của Quảng Nam là 212.
Nói cách khác, tuy hai tỉnh có tỉ lệ tốt nghiệp tương đương, nhưng tỉ lệ của Quảng Nam đáng tin cậy (hiểu theo nghĩa dao động ít hơn) Phú Thọ. Do đó, không thể xếp hạng bằng cách đơn giản dựa vào tỉ lệ trung bình, và càng không thể dựa vào tỉ lệ tốt nghiệp của một năm, bởi vì độ dao động khá lớn giữa các năm trong một địa phương.
Một khía cạnh khác cũng có phần phức tạp hơn là mối tương quan giữa tốc độ tăng trưởng tỉ lệ tốt nghiệp và tỉ lệ tốt nghiệp năm 2007 (năm đầu khi Phó TT Nguyễn Thiện Nhân bắt đầu phong trào "Hai không"). Tính trung bình cho cả nước, tỉ lệ tốt nghiệp THPT tăng 9% mỗi năm (tôi gọi đó là "tốc độ tăng trường"). Nhưng không phải tỉnh thành nào cũng có cùng tốc độ tăng trưởng, mà tốc độ này dao động từ dưới 0 đến 25% mỗi năm!
Điều quan trọng hơn là tốc độ tăng trưởng có liên quan nghịch đảo với tỉ lệ tốt nghiệp năm 2007 (xem Biểu đồ 2 dưới đây). Theo biểu đồ này, những tỉnh có tỉ lệ tốt nghiệp thấp trong năm 2007 thì trong những năm sau tỉ lệ tốt nghiệp tăng rất nhanh. Ngược lại, những tỉnh có tỉ lệ tốt nghiệp cao (như TPHCM, Nam Định) thì tốc độ tăng trưởng khá chậm.
Đây còn gọi là hiện tượng "regression toward the mean effect", tức là ảnh hưởng hồi qui trung bình. Một "triệu chứng" của hiện tượng hồi qui trung bình này là các địa phương có tỉ lệ tốt nghiệp quá thấp thường biến chuyển tăng dần gần tỉ lệ trung bình của cả nước, và những tỉnh khởi đầu với tỉ lệ quá cao có xu hướng giảm trong thời gian sau đó. Trong thực tế, chúng ta thấy hiện tượng này ở rất nhiều tỉnh thành trong thời gian qua. Đây là một đặc điểm quan trọng, vì nó gợi ý rằng phương pháp phân tích đơn giản không thể giải quyết được vấn đề phương sai.
Phương pháp khách quan hơn
Do đó, phương pháp xếp hạng khách quan phải dựa vào hai chỉ số: Trung bình và phương sai. Một phương pháp xếp hạng dựa vào 2 chỉ số đó là mô hình mà giới thống kê học gọi là Empirical Bayes (EB), có lẽ tạm dịch là "Phương pháp Bayes thực tế" (nghe ngô nghê quá, nhưng ai hay chữ hơn, xin góp ý).
Thật ra, đây là phương pháp mà giới nghiên cứu về chất lượng GD và xếp hạng trường học thường hay sử dụng và kết quả rất thành công. Nhưng trong thực tế, chúng ta có đến 63 địa phương. Do đó, chúng ta có 63 giá trị thật, và 63 sai số. Chúng ta giả định rằng tập hợp các tỉ lệ thật tuân theo luật phân phối chuẩn với trung bình là m và phương sai là u, và tập hợp các sai số tuân theo luật phân phối chuẩn với trung bình 0 và phương sai v. Tôi dùng số liệu về tỉ lệ tốt nghiệp THPT của 63 tỉnh thành từ năm 2006 đến 2010 để ước tính các thông số m và u.
Theo phương pháp EB, tỉ lệ thật của một địa phương chính là một trọng số trung bình (weighted average) giữa tỉ lệ của địa phương đó và tỉ lệ toàn quốc, với trọng số là số đảo của phương sai của địa phương và phương sai của quần thể.
Theo cách tính này, những địa phương nào có phương sai cao (tức mức độ biến chuyển về tỉ lệ tốt nghiệp qua các năm) sẽ bị "phạt", vì tỉ lệ trung bình kém tin cậy so với những địa phương có phương sai thấp. Chẳng hạn như trong ví dụ trên, tỉ lệ của tỉnh Quảng Nam có độ tin cậy cao hơn tỉ lệ của tỉnh Phú Thọ, mặc dù 2 tỉnh có tỉ lệ tốt nghiệp trung bình tương đương nhau.
Như vậy, mỗi địa phương sẽ có 2 thông số: Tỉ lệ trung bình về lâu về dài (tỉ lệ "thật") và phương sai sau khi đã điều chỉnh cho hiện tượng hồi qui trung bình và độ dao động trong mỗi địa phương. Vấn đề kế tiếp là tìm một ngưỡng để xác định thứ hạng. Bởi vì tỉ lệ tốt nghiệp toàn quốc năm 2010 là 90%, nên tôi chọn ngưỡng 90% để so sánh tỉ lệ thật của một địa phương với "ngưỡng chuẩn" đó.
Gọi Ti là tỉ lệ "thật" của địa phương, và Wi là phương sai, tôi có thể tính một chỉ số (tạm gọi là Z90) như sau: Z90 = (Ti - 90) / sqrt(Wi). Chú ý kí hiệu "sqrt" là căn số bậc 2 (và căn số bậc 2 của phương sai là độ lệch chuẩn). Nói cách khác, công thức trên ước tính khoảng cách về tỉ lệ thật của một địa phương với ngưỡng chuẩn 90%, và đơn vị đo lường là độ lệch chuẩn của mỗi địa phương. Nếu địa phương có Z90 là số dương thì địa phương đó có tỉ lệ tốt nghiệp cao hơn ngưỡng chuẩn 90%; ngược lại, nếu địa phương có số âm thì tỉ lệ tốt nghiệp địa phương đó thấp hơn 90%.
Có sự mất cân đối nghiêm trọng
Tỉ lệ tốt nghiệp THPT của 63 tỉnh thành có thể xem qua Biểu đồ 1 ở phần đầu. Nếu dựa vào tỉ lệ tốt nghiệp (tính trung bình từ 2007 - 2010) thì 5 địa phương đứng đầu bảng là: Nam Định, 95.7%, kế đến là TPHCM 94.4%; Hà Nam 92.5%; Hải Phòng 89.9%; và Bắc Ninh 89.1%. 5 địa phương đứng cuối bảng là: Bắc Kạn 48.6%, Sơn La 52.3%, Cao Bằng 55.6%, Sóc Trăng 62.1%, và Yên Bái 62.6%. Tuy nhiên, như tôi trình bày trên, cách xếp hạng này không khách quan, vì chỉ dựa vào chỉ số trung bình, mà chưa tính đến độ dao động trong mỗi địa phương.
Kết quả phân tích theo phương pháp EB được trình bày trong Biểu đồ 3. Theo kết quả này, TPHCM được xếp hạng 1, và Nam Định xếp hạng 2. Mặc dù có tỉ lệ thực tế (trung bình 2007-2010) của Nam Định là 95.7%, cao hơn TPHCM (94.4%), nhưng vì phương sai của Nam Định là 17.75, cao hơn TPHCM (chỉ 0.59), cho nên tỉ lệ thật (hay tỉ lệ về lâu về dài) của Nam Định là 92.8%, thấp hơn TPHCM (94.3%).
Chú ý tỉ lệ thật của TPHCM không khác nhiều so với tỉ lệ thực tế, bởi vì độ dao động qua các năm của TPHCM quá thấp, và điều này chứng tỏ TPHCM không có bệnh thành tích như các nơi khác. Danh sách "top 10" và "bottom 10" có thể tóm lược trong bảng sau đây:
Điều thú vị là trong danh sách top 10, có đến 7 tỉnh từ miền Bắc, chỉ có 3 địa phương từ miền Trung và Nam (Đà Nẵng, Lâm Đồng và TPHCM). Trong khi đó, trong danh sách bottom 10 có đến 6 tỉnh từ Đồng bằng sông Cửu Long, 1 tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên (Dak Lak), và đặc biệt không có tỉnh nào thuộc miền Bắc.
Tuy nhiên, bất cứ phương pháp xếp hạng nào cũng chỉ có giá trị khi số liệu được thu thập một cách tối ưu, và đáp ứng các giả định đặt ra. Như tôi đề cập trong phần đầu, những số liệu này chưa phải là tốt nhất, vì thiếu số liệu về số học sinh thi qua từng năm. Ngoài ra, một giả định rất quan trọng trong phân tích này là tỉ lệ tốt nghiệp trong mỗi tỉnh thành phải tuân theo luật phân phối chuẩn, nhưng chúng ta chưa có dữ liệu đầy đủ để kiểm tra xem giả định này đúng hay không.
Trong bối cảnh tỉ lệ tốt nghiệp đều tăng theo thời gian, chúng ta có thể đặt câu hỏi về vấn đề giả định. Tuy nhiên, vì số học sinh tham dự thi tuyển thường trên 1000 nên các tỉ lệ này có thể không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố nhiễu, và kết quả trình bày trong phân tích này có thể xem là tín hiệu đáng tin cậy. Phương pháp tôi trình bày trong bài này thật ra có thể ứng dụng để xếp hạng các trường, nhưng số liệu đòi hỏi chi tiết hơn. Hi vọng rằng phương pháp này sẽ được sử dụng nhiều hơn nữa ở nước ta (thật ra thì các nước tiên tiến đều sử dụng phương pháp EB) để xếp hạng các trường hay tỉnh/thành một cách khách quan hơn.
Kết quả so sánh này cho thấy chỉ có 2 địa phương (TP Hồ Chí Minh và Nam Định) là có tỉ lệ tốt nghiệp trên 90% một cách nhất quán qua các năm, còn lại 61 tỉnh thành khác thì tỉ lệ tốt nghiệp đều dưới 90%. Mức độ khác biệt giữa địa phương có tỉ lệ tốt nghiệp thấp nhất và cao nhất lên đến 26%.
Mặc dù khác biệt giữa các địa phương là điều hoàn toàn có thể tiên đoán được, nhưng với một mức độ khác biệt đến 26% (tính trung bình) là một điều rất đáng quan tâm, vì điều này nói lên một thực tế là có sự mất cân đối nghiêm trọng trong "đầu ra" của ngành GD phổ thông giữa các địa phương.
Trong thực tế, chúng ta không biết tỉ lệ tốt nghiệp bao nhiêu là "chuẩn". Cần nói thêm rằng bởi vì tỉ lệ tốt nghiệp còn tùy thuộc vào điểm chuẩn của từng môn học, và có khi điểm chuẩn thay đổi theo thời gian. Tuy nhiên, kinh nghiệm từ nước ngoài (như Úc chẳng hạn), có thể nói rằng một tỉ lệ tốt nghiệp 70% đã được xem là một tỉ lệ cao, và 80% là rất cao. Trong khi đó ở VN, 61/63 tỉnh thành đều có tỉ lệ (trung bình) tốt nghiệp THPT trên 70%, và 17/63 tỉnh thành có tỉ lệ trên 80%! Do đó, nếu lấy ngưỡng 70% là tín hiệu của "bệnh thành tích" thì có thể nói rằng hầu hết các tỉnh thành đều có triệu chứng này không phải chỉ năm 2010 mà trong 4 năm qua.
Thêm vào đó, chúng ta thấy trong số "bottom 10" hầu hết là các tỉnh có cùng đặc điểm nghèo và khó. Nghèo về kinh tế, khó khăn về cơ sở vật chất. Do đó, kết quả trên gợi ý rằng nhà nước cần phải quan tâm đến các tỉnh vừa nêu, nhất là Ninh Thuận (một tỉnh mà bất cứ chỉ tiêu nào về GD cũng đứng cuối bảng), để nâng cao chất lượng.
Ở nước ta vẫn còn cách cho điểm và đánh giá học sinh bằng đơn vị "nhị phân" như đậu hoặc rớt. Theo tôi, đây là cách đánh giá khá cổ điển và có thể không còn phù hợp trong thời đại ngày nay. Thật vậy, ở các nước tiên tiến (như Úc chẳng hạn), người ta đánh giá thành tích của học sinh qua điểm đạt được, và không có một chỗ nào trong chứng chỉ tốt nghiệp trung học viết hạng (ưu, trung bình, hay thấp), mà chỉ là điểm đạt được trong kì thi tốt nghiệp so với điểm tối đa.
Do đó, những kết quả phân tích trong bài này còn gợi ý rằng trong tương lai, nước ta nên tiến đến một cách đánh giá học sinh theo điểm hơn là phân loại tốt nghiệp hay không tốt nghiệp. Đứng trên phương diện lí thuyết đo lường, điểm tốt nghiệp cung cấp nhiều thông tin hơn và có độ tin cậy tốt hơn cách phân nhóm đậu và rớt.Lần sửa cuối bởi laotam, ngày 24-06-2010 lúc 09:56 PM.
-
24-06-2010, 10:06 PM #22
4 năm, xử lý 24 cơ sở giáo dục có hành vi tham nhũng
(Dân trí) - Thông tin từ Bộ GD-ĐT, từ năm 2006 đến nay có 24 cơ sở giáo dục có hành vi tham nhũng đã được phát hiện và xử lý.
Cụ thể, tại ĐH Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên, 1 giáo viên nhận tiền của sinh viên để photo bài giải thi hết môn (với số tiền: 24.200.000đ), hình thức buộc thôi việc (hành vi mua bán điểm); tại ĐH Quy Nhơn, 1 vụ lạm thu chi quỹ xe đạp, xe máy. Cơ quan điều tra khởi tố 1 hiệu trưởng và 3 cán bộ nhân viên.
Tại ĐH Sư phạm Nghệ thuật Trung ương, 1 giáo viên yêu cầu sinh viên nộp tiền để chạy điểm, đã xử lý kỷ luật cảnh cáo (hành vi mua bán điểm); tại ĐH Kinh tế Quốc dân: 1 giáo viên yêu cầu sinh viên nộp tiền trong khi đang thực hiện nhiệm vụ hướng dẫn sinh viên làm đề án môn học, đã bị xử lý kỷ luật cảnh cáo và chuyển làm công tác khác 1 năm.
Tại Trung tâm tin học Kinh tế thuộc Đại học Kinh tế TPHCM, một nhóm người có hành vi vi phạm trong việc quản lý tài chính sai quy định để vụ lợi. Đã xử lý kỷ luật và chuyển công tác khác 4 người gồm: cảnh cáo giám đốc Trung tâm; khiển trách 1 phó Giám đốc và 2 nhân viên.
ĐH Nông lâm TPHCM: Năm 2009, đã xử lý kỷ luật 1 trưởng khoa vì có sai phạm trong việc quản lý kinh phí các lớp đào tạo liên kết tại đơn vị.
Đặc biệt, tại cơ quan Bộ đã kỷ luật cảnh cáo 1 cán bộ công chức vì hành vi lợi dụng trách nhiệm được phân công có vi phạm trong việc quản lý chứng chỉ...
Tại Sở GDĐT An Giang, xử lý kỷ luật 4 hiệu trưởng, 3 kế toán, 4 thủ quỹ vi đã vi phạm trong quản lý tài chính để vụ lợi; đề nghị khởi tố 1 vụ tham ô trên 700 triệu đồng tại trường THPT Xuân Tô, An Giang.
Sở GDĐT Kon Tum đã xử lý kỷ luật cách chức hiệu trưởng Trường THPT Bán công Duy Tân vì đã chỉ đạo thu tiền của học sinh không đúng quy định.
Sở GDĐT Cà Mau vi phạm trong quản lý tài chính, đã xử lý kỷ luật cách chức hiệu trưởng và cảnh cáo phó hiệu trưởng, thu hồi toàn bộ số tiền chi sai (hơn 110 triệu đồng) tại Trường THPT Cái Nước, Cà Mau.
Sở GDĐT Hải Phòng đã xử lý kỷ luật cách chức 2 hiệu trưởng và 1 phó hiệu trưởng (THPT Lý Thường Kiệt; THPT Nguyễn Đức Cảnh; THPT Tô Hiệu) vì có hành vi tiêu cực trong công tác quản lý. Sở GDĐT Bạc Liêu, cơ quan điều tra đã truy tố 1 giám đốc, 1 phó giám đốc và một số cán bộ công chức tại cơ quan Sở vì có hành vi tổ chức mua bán điểm thi tốt nghiệp THPT.
Tại Sở GD-ĐT TPHCM năm học 2006-2007, đã kỷ luật buộc thôi việc 1 hiệu trưởng và cảnh cáo một số cán bộ nhân viên Trường THPT Lê Quý Đôn vì có hành vi vụ lợi trong việc cho học sinh chuyển trường.
Theo lãnh đạo Bộ, tính riêng từ đầu năm 2009 đến nay, Bộ đã tiến hành thanh tra hành chính phòng, chống tham nhũng 35 đơn vị và hàng chục cuộc thanh tra chuyên ngành khác. Các cuộc thanh tra đã góp phần giúp các cơ sở giáo dục thấy rõ được những ưu điểm và những hạn chế, thiếu sót trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ.
Hồng Hạnh
-
25-06-2010, 05:08 PM #23
Mua "bằng cấp" xuyên quốc gia và lời...cơ chế
Tác giả: Kim Dung
Câu chuyện làm TS của ông Nguyễn Ngọc Ân đã không còn là chuyện lạ. Nó chỉ là trái đắng của một cái cây, mà gốc rễ từ lâu, đã không bình thường.
Nói thật, trong xã hội hiện nay, từ lâu người ta đã quá quen và cũng quá...chán ngán về những vụ việc gian lận trong học vấn và thi cử: Đạo văn, mua điểm, bán điểm, và nhất là học rởm, bằng dỏm, hoặc học rởm, bằng thật... Thế nhưng nếu những vụ việc ấy lại xảy ra ở các quan chức có trách nhiệm, đầu ngành, đầu tỉnh...thì hệ lụy và tai tiếng của chuyện dối gian sẽ loang xa và di hại rất nhiều, khiến dân mất lòng tin, và hơn nữa, dân sẽ coi thường cả tư cách, phẩm hạnh, coi thường cả phép nước.
Lời của con người...
Đó cũng là câu chuyện xảy ra gần mấy tuần nay ở tỉnh Phú Thọ. Trung tâm của câu chuyện gây xôn xao là ông Nguyễn Ngọc Ân, Giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Phú Thọ vừa có học vị tiến sĩ, với đề tài: "Vấn đề di sản văn hóa với việc phát triển kinh tế du lịch tỉnh Phú Thọ".
Chuyện sẽ "chẳng có gì mà ầm ĩ thế", nếu như dân tình trong tỉnh không nhiều người biết, trước đó ông Ân chỉ là cử nhân tại chức kinh tế- quốc dân khóa 24 (được tổ chức tại TP Việt Trì).
Xưa nay, ngay cả ngành GD cũng thừa nhận chất lượng của hệ đào tạo này chưa ổn, thậm chí dân gian còn ví von hài hước: "Dốt như chuyên tu...", nhất là những khóa đào tạo kiểu này đặt tại cơ sở.
Đùng một cái, ông Ân trở thành TS kinh tế quản trị kinh doanh của Trường ĐH Nam Thái Bình Dương (Mỹ). Việc ông bảo vệ luận án do do Viện Kinh tế (Bộ Tài Chính) giới thiệu, và có tỉnh Phú Thọ hỗ trợ kinh phí.
Dư luận xôn xao, bởi cách ông Ân làm NCS không bình thường. Theo chính ông nói: Trong thời gian làm TS (tháng 2-2007 đến tháng 9-2009), ông sang trường ĐH này học hai đợt, mỗi đợt một tuần để nghe giảng tiếng Anh (có người phiên dịch sang tiếng Việt). Ngay cả khi bảo vệ luận án, cũng có người dịch cho ông từ đầu đến cuối. Trường ĐH Nam Thái Bình Dương không yêu cầu những NCS như ông phải biết tiếng Anh, không phải thi đầu vào (?), mà chỉ cần gửi đề cương sang cho họ chỉnh sửa là được.
Điều ngạc nhiên, tuy hỗ trợ kinh phí, nhưng ngay một vị lãnh đạo của tỉnh Phú Thọ cũng thừa nhận, quy trình đào tạo để trở thành TS của ông Ân "có vấn đề". Vì theo quy chế của Bộ GD và ĐT, NCS phải có bằng thạc sĩ, hoặc tốt nghiệp ĐH chính quy loại khá trở lên... Và một điều kiện bắt buộc, phải có trình độ ngoại ngữ nhất định để tham khảo tài liệu, tham gia hoạt động quốc tế và chuyên môn phục vụ nghiên cứu khoa học, thực hiện đề tài luận án.
Cũng không chỉ có một mình ông Ân, hiện có khoảng chục cán bộ của các địa phương cũng được đào tạo TS kiểu này (!)
Chưa cần nói đến thời gian đầu tư thực chất, các quy trình... chỉ cần đối chiếu với 2 tiêu chuẩn quy định đầu tiên mang tính chất bắt buộc, đó là tốt nghiệp ĐH chính quy loại khá trở lên, đủ trình độ ngoại ngữ để tham khảo tài liệu, cũng thấy ông Ân chưa đạt yêu cầu.
Nhưng điều đáng ngạc nhiên hơn nữa, là cách hành xử của tỉnh Phú Thọ: Biết cán bộ "có vấn đề", nhưng vẫn tiếp tay! Vì lý do gì: Vì nể nang, vì ông Ân đã nằm trong đội ngũ được "quy hoạch" từ trước, hay còn vì lý do gì khó nói?....
Ngay sau khi thông tin về học vị TS của ông Ân xôn xao trong nước, trong bài viết mới đây: "Nhu cầu dẫn đến bằng giả từ trường dỏm", GS Nguyễn Văn Tuấn (Úc), người trước đó đã ngay lập tức tìm kiếm thông tin, khẳng định: "Trường ĐH Nam Thái Bình Dương không phải là một ĐH, mà chỉ là một cơ sở thương mại, buôn bán bằng cấp cho những ai có nhu cầu...Tuy nó đặt ở Hawaii, nhưng gốc gác lại ở tận...Malaysia. Và đã bị...giải thể từ ngày 28/10/2003(!).
Mặc dù, GS Nguyễn Văn Tuấn cho rằng đây là trường hợp "bằng giả, trường dỏm", người viết bài này không có ý đưa ra một khẳng định gì về cái bằng và Trường ĐH nơi ông Ân đươc cấp bằng TS.
Điều này, chỉ chính ông Ân hiểu rõ hơn ai hết.
Nhưng xin được giả định, nếu GS Nguyễn Văn Tuấn có sự nhầm lẫn, và trường ĐH nơi ông Ân làm NCS là trường ĐH thực chất, thì ông Ân vẫn vi phạm quy chế do Bộ GD và ĐT đề ra. Liệu cái bằng TS do biết cách "nhào lộn" đó có còn mấy giá trị? Và đâu là phẩm cách, là đạo đức trung thực của người cán bộ lãnh đạo ngành văn hóa của một tỉnh có "Đế Đô"?
Còn nếu như trường ĐH đó, lại chính là trưởng "dỏm" như phân tích của GS Tuấn, thì quả thật, tấm bằng TS đó chẳng có giá trị gì. Ông Ân đã bị lừa, hoặc chính ông cố tình để cho mình "bị lừa"!
Và lời của...cơ chế
Mọi chuyện về tấm bằng tiến sĩ của ông Nguyễn Ngọc Ân, mới chỉ là dư luận xã hội nghi vấn, chưa có kết luận gì của cơ quan quản lý cao nhất - Tỉnh ủy, UBND tỉnh Phú Thọ.
Thế nhưng, câu chuyện làm TS của ông Nguyễn Ngọc Ân đã không còn là chuyện lạ. Nó chỉ là trái đắng của một cái cây, mà gốc rễ từ lâu, đã không bình thường.
Hãy thử nhìn vào cái cây ấy - xã hội và cơ chế quản lý xã hội hiện nay.
Nền GD của chúng ta, về bản chất vẫn là nền GD hư danh, một nền GD "hư học". Với nền GD "hư học" ấy, trẻ em, thanh niên đi học cần "cái bằng" để làm quan, chứ không phải để "làm việc". Cánh cửa ĐH vẫn là cánh cửa duy nhất và đầu tiên để họ tiến thân
Và cơ chế xã hội, cha sinh - mẹ đẻ của nền GD "hư học" ấy, tuy không biết nói tiếng nói của con người, nhưng cơ chế đó nó lại "biết nói" bằng tiếng nói riêng của mình - những quy chuẩn, tiêu chuẩn cán bộ chính nó định ra, phục vụ cho hệ thống công quyền. Đương nhiên càng ở các vị trí lãnh đạo, trình độ con người ta càng phải nâng cao, và được quy chuẩn duy nhất bằng cái "bằng cấp": Chuyên môn thì Thạc sĩ, TS, chính trị thì lý luận trung cấp, cao cấp...v .v.. và v..v..
Những quy chuẩn đó, về hình thức, không sai, và tưởng như là đòi hỏi rất có lý về năng lực, phẩm chất cán bộ để "ngang tầm nhiệm vụ". Vì thế mới có chuyện Thủ đô Hà Nội từng có ý định đòi 100% cán bộ cốt cán phải có bằng tiến sĩ (!)
Nhưng thực chất, gắn với cách tuyển chọn, sử dụng, quy hoạch cán bộ như lâu nay, quy chuẩn "bằng cấp" đó lại rất hình thức, hời hợt. Nó đã không còn là sự khuyến khích con người ta phải có động lực rèn tài năng, phẩm hạnh đích thực. Vô tình còn là mảnh đất mầu mỡ để cho gian dối nở hoa, kết trái, để cho sự biến chất của phẩm cách, lương tâm. Bởi tự lúc nào, bằng cấp là cái đòn bẩy của bậc thang danh vọng.
Đã có bao nhiêu vụ bằng rởm, "học rởm bằng thật" bị phát hiện? Không thể thống kê hết, vì con đường tìm kiếm "bằng cấp" với mọi giá, xem ra lại là con đường được không ít người ham hố còn tiếp tục muốn đặt chân lên. Chắc chắn trên con đường ngắn nhưng đầy biếm nhục này ông Ân không phải là lữ khách cuối cùng.
Bằng cấp không kiếm được bằng năng lực trí tuệ, thì có thể kiếm bằng tiền, bằng rất nhiều tiền. Bằng cấp mua trong nước không có "tên tuổi" lắm, không "oai" lắm, thì có thể mua ngoài nước, xuyên đại dương, xuyên quốc gia.
Vì vậy, chuyện kiếm bằng cấp TS theo kiểu của ông Nguyễn Ngọc Ân không phải là trường hợp cá biệt, mà là chuyện, đáng buồn thay, phổ biến trong xã hội hiện nay.
Ông Ân có thể cảm thấy rất xấu hổ, nếu ông còn có lòng tự trọng. Nhưng có nhiều cán bộ, kiếm bằng cấp theo kiểu "tắt" như thế này, thì cơ chế xã hội có nên day dứt? Bởi phải chăng, với những thang bậc giá trị thực ảo, trắng đen lẫn lộn, cơ chế xã hội hiện nay, đã khiến không ít người như ông Ân tự nguyện làm những việc "phi văn hóa" trong cái guồng quay tham vọng chóng mặt. Nếu không có sự cố ồn ào này, liệu ông Ân và còn biết bao quan chức cùng "cảnh ngộ" như ông có biết điểm dừng?
Và nếu cơ chế này biết... "nói" tiếng người, nó sẽ nói gì nhỉ. Hay chính nó cũng phải thú nhận: Đã đến lúc cần thực sự phải đổi mới?
-
26-06-2010, 07:42 AM #24
Chủ nhân vụ "bằng cấp dỏm": "Tôi không may!"
Tác giả: Kim Dung (thực hiện)
Tôi xác định không đầy đủ thông tin nên phải chịu thiệt thòi cho cá nhân tôi thôi
Sau khi Tuần Việt Nam đăng một loạt các bài viết xung quanh vụ "Làm tiến sĩ ở Mỹ không cần biết tiếng Anh", sáng qua, 24-6, ông Nguyễn Ngọc Ân, Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin - Du lịch Phú Thọ, nhân vật chính của vụ việc này tìm đến Tuần Việt Nam chúng tôi.
Trong câu chuyện trình bày, ông cho biết một vài nét về nhân thân. Sinh năm 1958, đã đi bộ đội 8 năm, học Trung cấp Thương mại, rồi làm việc tại Công ty Du lịch Phú Thọ. Tiếp đó, ông học lớp ĐH tại chức Kinh tế quốc dân (đặt tại địa phương). Năm 2002, ông làm Trưởng phòng quản lý xuất nhập khẩu, lên Phó GĐ Công ty, rồi GĐ Sở Thương mại Du lịch Phú Thọ. Năm 2008, trở thành GĐ Sở VH - TT - DL đến hôm nay.
Ông Ân cho biết, bản thân ông đã học và bảo vệ luận án Thạc sĩ quản trị kinh doanh về du lịch tại ĐHQGHN (Khoa Quản trị kinh doanh, năm 2007)
Để rộng đường dư luận, tôn trọng tính thông tin đa chiều, Tuần Việt Nam có cuộc trao đổi với ông Ân xung quanh vụ việc bằng TS của ông, do Trường ĐH Nam Thái Bình Dương (Mỹ) cấp.
- Trước tiên, xin được hỏi, mục đích của ông tìm đến VietNamNet là gì?
- Vì VietNamNet là một tờ báo điện tử có uy tín, nên tôi muốn được trao đổi thêm thông tin cho dư luận hiểu rõ hơn về cá nhân tôi!
- Những bài viết của VietNamNet xung quanh vụ việc của ông có gì sai trái không, thưa ông?
-Tôi không có ý kiến gì về những bài báo của VietNamNet. Các bài báo không nói quá. Chỉ có hai điểm báo chí nói không đúng: Tôi đã có bằng Thạc sĩ, chứ không phải không có. Và số tiền 17.000 USD là tiền riêng tôi bỏ ra!
- Tuy nhiên, nếu so với quy chế Bộ GD và ĐT ông vẫn vi phạm, vì quy định của Bộ là phải có trình độ ngoại ngữ nhất định để tham khảo tài liệu, tham gia hoạt động quốc tế và chuyên môn phục vụ nghiên cứu khoa học, thực hiện đề tài luận án?
- Về quy chế, nói thật là sau khi được cấp bằng Thạc sĩ ở ĐHQGHN, tôi cũng có nhu cầu học tiếp lên. Thấy anh em bạn bè nói về trường ĐH này, (ĐH Nam Thái Bình Dương) không cần có ngoại ngữ, mà ngoại ngữ mình thì kém. Thế là học tiếp. Hình thức học là đào tạo từ xa. Vì không cần tiếng Anh nên mình mới đăng ký. Nếu không thì làm sao tôi đủ điều kiện?
- Ông hay ai là người tìm ra trường ĐH này?
- Trên mạng có cả. Bạn bè nói và họ cũng tìm giúp.
- Nhưng bây giờ, thông tin về trường ĐH "dỏm" cũng rất nhiều. Ở tuổi ông đã là tuổi khá trải nghiệm. Yêu cầu của Bộ GD và ĐT là phải có trình độ ngoại ngữ nhất định, trong khi đó, một trường ĐH tận bên Mỹ thông báo không cần biết tiếng Anh cũng có thể làm TS được. Ông không có linh cảm gì về điều này. Và ông vẫn tin tưởng?
- Tôi vẫn tin chứ. Vì tôi có thông tin của trường này, tôi tin tư cách pháp nhân của nó là có. Vì bản thân họ (Trường ĐH Nam Thái Bình Dương) gửi thư cho tôi (!). Và cũng có một số anh đã học theo kiểu này rồi!
- Nhưng chắc ông đọc báo cũng biết, GS Nguyễn Văn Tuấn(Úc) đã tìm kiếm thông tin về trường ĐH đó, và cho hay, trường đó có cơ sở tại Malaysia, và đã bị giải thể từ năm... 2003? Còn GS Trần Hữu Dũng (Mỹ) trong bài trả lời phỏng vấn đài RFA cũng cho biết, ở Mỹ, không bao giờ có trường thuộc nhóm đã được kiểm định giáo dục mà tiếp nhận những sinh viên nước ngoài, rồi trao học vị TS cho họ mà người học không có kỹ năng nghe- nói - đọc- viết tiếng Anh... Người ta phân biệt rất rõ hai loại trường. Loại trường đã bị gọi là "dỏm", thì nếu chìa bằng cấp đó ra sẽ bị không công nhận, và người ta cũng rất coi thường.
- Vừa rồi, tôi có hỏi một số anh em bạn bè, họ giải thích, ở bên đó, trường ĐH nào, nếu không nộp thuế, thì bị đóng cửa, còn nếu nộp thuế xong thì lại được mở cửa. GS Nguyễn Văn Tuấn nói trường bị giải thể từ năm 2003, bản thân tôi cũng rất suy nghĩ. Dư luận nào đúng hay sai, tôi không dám khẳng định. Vì năm 2008, thư của trường ĐH này, họ viết gửi cho tôi, vẫn khẳng định trường là cơ sở đào tạo rất có uy tín (!)
- Thế nhưng nếu bây giờ, trước thông tin từ các GS có tên tuổi ở nước ngoài họ cung cấp và nếu trong thực tế, đó là trường ĐH "dỏm" thì ông có suy nghĩ gì không?
- Tôi xác định không đầy đủ thông tin nên phải chịu thiệt thòi cho cá nhân tôi thôi!
- Khi có thông tin trên báo chí về vụ việc của ông, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Phú Thọ có kết luận gì không?
- Họ chưa có kết luận gì. Vì đây thực tế chỉ là nhu cầu học để nâng cao kiến thức của cá nhân mình thôi. Cái quan trọng là mình học được cái gì, áp dụng được gì cho công việc. Tôi học để cho tôi. Còn bằng cấp đó có được công nhận ở VN hay không lại là chuyện khác.
- Xin được hỏi thật ông, chắc ông cũng là một trong những người thuộc nguồn quy hoạch cán bộ cốt cán của tỉnh? (Ông Ân gật đầu, và nói thêm):
- Cũng có mấy trường hợp nữa, nhưng mà là bên doanh nghiệp. Vì đa số là cán bộ quản trị kinh doanh!
- Đến giờ, tỉnh Phú Thọ đã có hỗ trợ gì về kinh phí cho ông chưa?
- Chưa, chưa có hỗ trợ gì!
- Xin lỗi ông, tôi thấy trong thực tế, cơ chế quản lý của chúng ta còn có nhiều điều phải bàn. Như việc định ra tiêu chuẩn cán bộ. Về hình thức, có vẻ đúng. Nhưng quy định đó, nếu khi tuyển chọn, hoặc sử dụng cán bộ, chỉ căn cứ vào cái bằng cũng làm khổ không ít người.
- Đúng vậy. Tôi thấy quan trọng nhất là kinh nghiệm làm việc, chứ cái gì cũng bằng cấp giơ ra thì... Ở ngay cơ quan tôi, có anh TS hẳn hoi, làm việc chuyên môn rất tốt. Nhưng nếu làm quản lý lại không ổn.
- Nếu nói vậy, việc gì ông phải đi học tiếp?
- Nhưng nó vẫn ảnh hưởng chứ. Nên vẫn phải đi học. Việc báo chí thông tin như vừa qua, rất bất lợi cho tôi, nhất là trước kỳ Đại hội Đảng tỉnh nay mai sẽ diễn ra. Nhưng tôi vẫn tin ở đề tài (chuyên môn) tôi đang triển khai thực hiện
- Ông tự nhận xét gì về mình, với vụ việc vừa qua?
- Tôi thấy mình không may thôi!
Lời bàn của Tuần Việt Nam:
Quả thật, nếu nói rằng mình chỉ là người không may, thì ông Nguyễn Ngọc Ân chưa thấy hết dược trách nhiệm cá nhân, lẫn cái dở của mình. Tuy nhiên, ông có phần là người không may trong vụ việc vừa qua, bởi chắc chắn có không ít các cán bộ cốt cán làm TS theo kiểu này, trước đây, và biết đâu cả sau này nữa, mà "chưa bị lộ".
Chính cái cửa hẹp" bằng cấp" ấy đã xô đẩy, và thậm chí làm "tha hóa" con người bởi tham vọng, với bất kỳ giá nào. Sự không tương xứng giữa bằng cấp và năng lực, rút cục chỉ tạo ra một đội ngũ cán bộ không thể "đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ", không xứng đáng với niềm tin của nhân dân.
Nhân vụ việc này, Tuần Việt Nam chúng tôi rất mong mỏi nhận được sự tham góp của quý bạn đọc gần xa, trong nước và nước ngoài với những kiến giải để trả lời một câu hỏi nhức nhối: Làm thế nào để các cơ quan công quyền nhà nước tuyển chọn và sử dụng được một đội ngũ cán bộ cốt cán có đủ năng lực và phẩm chất tương xứng với vị trí và vai trò?
Bài vở xin các quý vị gửi về địa chỉ: Tuanvietnam@vietnamnet.vn
-
26-06-2010, 07:52 AM #25
“Đạo văn” ngoài tầm kiểm soát!
Nạn sao chép tài liệu, luận văn... đã khiến cho trường đại học - môi trường giáo dục bậc cao - trở thành nơi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ vừa nhiều vừa phức tạp.
“Việc vi phạm quyền sở hữu trí tuệ trong trường ĐH vừa nhiều về số lượng vừa phức tạp về tính chất. Nhiều giảng viên, sinh viên vi phạm rất hồn nhiên” - TS. Lê Văn Hưng, Trưởng Khoa Luật Trường ĐH Kinh tế TPHCM, nhìn nhận tại hội thảo “Bảo vệ quyền tác giả trong trường ĐH” do Trường ĐH Kinh tế TPHCM tổ chức sáng 23/6.
Chép từ tài liệu sao chép!
TS. Lê Văn Hưng nêu thực tế: Nhiều giảng viên sao chép tài liệu của người khác nhưng không dẫn nguồn. Hành vi đó đã trở thành một thói quen tồn tại nhiều năm. Giảng viên sử dụng lâu dần rồi trở thành “tài sản” của mình cho đến khi “xảy ra chuyện” mới giật mình thì sự đã rồi. Qua khảo sát về việc sử dụng công trình nghiên cứu khoa học của người khác để làm luận văn, luận án của nghiên cứu sinh, học viên cao học, TS. Lê Văn Hưng nhận định việc phát hiện sao chép rất khó. Đối với khóa luận tốt nghiệp của sinh viên thì lại càng khó hơn vì nhiều đề tài lặp đi lặp lại và số lượng sinh viên làm khóa luận mỗi năm đều rất đông. “Thực tế là việc sao chép trong trường ĐH nằm ngoài tầm kiểm soát. Thậm chí việc sao chép phổ biến đến mức có người lại sao chép cả những tài liệu đã được sao chép từ người khác” - TS. Lê Văn Hưng nói.
TS. Vũ Mạnh Chu, Cục trưởng Cục Bản quyền tác giả, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, cũng cho biết thực tế, có những người hướng dẫn lại cùng đứng tên cuốn sách của chính học trò của mình, rồi đưa vào hồ sơ để xin học hàm. Hay có những người làm chủ biên nhưng không viết chữ nào... Theo TS. Vũ Mạnh Chu, đây là thực tế đáng tiếc vì người thầy trước hết phải có danh dự của người thầy, bên cạnh đó là đạo đức của người làm khoa học.
Cần quy chế sở hữu trí tuệ trong trường ĐH
Thạc sĩ Trương Thùy Trang, Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM, cho rằng giảng dạy, nghiên cứu trong trường ĐH nhằm mục đích chủ yếu cung cấp nguồn nhân lực cho xã hội, nguồn nhân lực này không chỉ thành thạo kỹ năng và có hiểu biết mà còn phải có phẩm chất đạo đức. Họ cần nhận thức rằng cái gì sử dụng của người khác thì phải xin phép, có như vậy đạo đức nghề nghiệp mới được gìn giữ.
Thạc sĩ Trương Thùy Trang cho rằng các trường ĐH cần xây dựng quy chế quản lý sở hữu trí tuệ. Quy chế bao gồm các quy định về quyền sở hữu, ưu tiên bảo mật, về tổ chức khai thác thương mại, về phân chia lợi ích và các thủ tục... Bên cạnh đó, cần hình thành đầu mối chuyên trách theo dõi, giám sát và triển khai các nội dung liên quan đến sở hữu trí tuệ, kịp thời xử lý những xung đột liên quan đến sở hữu trí tuệ trong trường ĐH...
Thông qua việc so sánh kinh nghiệm bảo hộ sở hữu trí tuệ của một số trường ĐH nước ngoài, PGS-TS Phạm Duy Nghĩa, giảng viên Khoa Luật Trường ĐH Kinh tế TPHCM, cho rằng để tránh việc “đạo văn”, ngay khi nhập học tuần đầu tiên, sinh viên cần phải được giới thiệu về các nguyên tắc bảo vệ sở hữu trí tuệ, trong đó đặc biệt là đạo đức của người nghiên cứu khoa học và những hình thức kỷ luật nếu sinh viên “đạo văn”. Bên cạnh đó, các trường cũng tạo điều kiện cho các thầy cô có cơ hội sử dụng các công cụ phát hiện “đạo văn” như các phần mềm hỗ trợ việc phát hiện việc sao chép hiện đang được bán trên thị trường...
Theo Thùy Vinh
Người lao động
-
26-06-2010, 08:24 AM #26
laotam này chịu khó thật ,biết anh em mê cờ chẳng màng thế sự, thế nên đầu trên xóm dưới có chuyện gì ông mang tất tật vào đây , ông quả người có lòng ! xin thành thật cảm ơn ông .Thế nhưng trộm nghĩ cái băn khoăn lớn nhất của các anh em đây là cục nào hay cục nào dở ?khai cuộc sao cho khỏi bj lép , hôm nay ai thách đấu ai ? có bí kíp nào mới xin phổ biến cho ,còn điện nước giáo dục đã là chuyện muôn đời rồi ! muốn hay không cũng phải sống cùng nó thôi. Ông cho xem báo thật quí hóa quá !
-
27-06-2010, 02:40 AM #27
Bài văn “lạ” và niềm khẩn thiết mong phụ huynh giật mình
“Đây là toàn bộ bài văn của một học sinh lớp 11. Bài văn được viết trên lớp trong 1 tiết, là bài viết số 5 theo phân phối chương trình của Bộ GD-ĐT. Tôi rất bất ngờ và cảm thấy cần chia sẻ với các bậc phụ huynh...”.
“Các vị hãy đọc đi để có được dù chỉ là một lần giật mình”- trích nội dung thư của một cô giáo dạy văn.
Là giáo viên bộ môn, cô giáo này chưa kịp tìm hiểu rõ gia cảnh học sinh nên đã đưa bài văn cho thầy chủ nhiệm và nhờ thầy có biện pháp trao đổi với bố cháu. Dù đã gặp riêng học sinh và có những lời phê chí tình, chị vẫn cảm thấy lo lắng vì đã từng biết có một học sinh nữ khi gặp rắc rối gia đình đã uống thuốc ngủ tự tử.
"Nếu các bậc làm cha làm mẹ không chú ý tới diễn biến phức tạp của tâm lý lứa tuổi này, họ có thể đánh mất con trong gang tấc" - cô giáo viết.
Dưới đây là nội dung bài văn “lạ” và lời phê của cô giáo:
Đề bài: Anh (chị) hãy trình bày suy nghĩ về vai trò của gia đình.
Bài làm
Gia đình là một thành phần quan trọng không thể thiếu của mỗi chúng ta. Nó vừa là điểm khởi đầu cũng là nơi kết thúc của một đời người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Gia đình là tế bào của xã hội". Thật vậy, đó là nơi nuôi dưỡng, chở che cho mỗi chúng ta từ khi còn bé cho đến lúc lớn, nó luôn ở bên cạnh ta, nâng niu che chở cho mỗi chúng ta. Gia đình là nơi nuôi dưỡng tâm hồn của mỗi người. Tất cả chúng ta ngồi đây ai cũng đã, đang và sẽ có một gia đình mà chắc rằng nó sẽ không bao giờ được như tôi mơ ước.
Trong quá khứ, tôi đã từng có một gia đình, nơi đã nuôi dưỡng, che chở cho tôi từ lúc mới lọt lòng. Tôi sống trong tình yêu thương, đùm bọc của bố mẹ. Tôi sống, sống trong sự quan tâm, sống trong sự chở che... Rồi dần dần, càng ngày tôi càng núp trong một cái bóng, cái bóng của chính tôi. Chẳng có gì tôi phải đụng tay đến, tôi chẳng được làm những gì mà mình thích. Tất cả phải theo ý bố mẹ...
Bố vẫn thường dạy tôi về cách sống, cách làm người... Nhưng thử hỏi đã bao giờ tôi được làm chính tôi... Tôi luôn tự tạo cho mình một cái vỏ bọc để che giấu đi con người thực sự của mình. Mọi người thấy tôi hay cười... nhưng có ai biết, đó chỉ là những nụ cười giả tạo mà tôi cố gắng để che giấu đi nỗi đau của chính bản thân mình... Tôi đã từng ghét chính cuộc sống đó. Nhiều lần, tôi đã cố gắng để thoát ra khỏi cái vỏ bọc ấy. Nhưng rồi, tôi lại càng tiến sâu hơn.
Một ngày nọ, tôi phát hiện ra, bố tôi, người mà luôn che chở, dạy bảo cho tôi lại là một người... một người mà tôi... khinh bỉ... Đúng là cha nào con ấy... Tôi tự tạo vỏ bọc cho mình để che giấu con người thật của tôi. Bố tôi cũng thế, ông đã tạo ra cho mình một cái vỏ bọc thật hoàn hảo để che giấu con người mình, lừa gạt tất cả, và cả tôi.
Tôi sống vì cái gì??? Gia đình ư? Nhiều lúc tôi đã dẫm đạp lên nó... Tôi tự tách mình khỏi gia đình, và tách ra khỏi chính bản thân tôi. Tôi hoàn toàn là một con người khác...
Nhiều lúc chán cuộc sống giả tạo đó, tôi đã tìm, tìm đến một nơi, một nơi mà ở đó không có sự giả dối, và hơn cả, tôi được làm chính tôi: THẾ GIỚI ẢO. Dẫu biết rằng, tất cả chỉ là ảo, nhưng những gì tôi có thật gấp trăm nghìn lần cái thế giới mà tôi sống.
Ở đó, có người mà tôi yêu, có sự quan tâm, có tất cả những thứ mà thế giới thật đã có, hoặc không có... Tôi đã tìm lại được tiếng cười, cười một cách thật tự nhiên. Có những buổi offline làm tôi nhớ mãi...
Một phút xa nhau vạn phút nhớ
Một lần gặp gỡ vạn lần mơ.
Lạ thật, tôi đã từng mơ về một hạnh phúc được sống trong một gia đình thật, nhưng không ngờ đó chỉ là ẢO... Nhưng không sao, có lẽ đối với tôi đó cũng là một cái gì đó, một thứ gì đó thật khác biệt...
Thật lạ, hôm nay, ngày tôi viết bài văn này cũng là ngày kỉ niệm, ngày chúng tôi gặp nhau trong một gia đình (ẢO)... Nhưng tôi đang cố gắng gìn giữ một cái gì đó, dù biết nó chỉ là ẢO và lời nói có thể là giả tạo nhưng ít ra có còn hơn không. Hơn cả, tôi được làm chính tôi. Tương lai, một ngày nào đó tôi cũng sẽ có một gia đình. Gia đình đó sẽ như thế nào đây?
Gia đình... Không biết đối với các bạn, đó là gì? Nhưng đối với tôi, nó là một cái gì đó mà có lẽ cả đời này tôi cũng chẳng bao giờ với tới được.
Lời phê của giáo viên:
Em đừng nhìn mọi việc theo chiều hướng tiêu cực thế! Nếu quả thực gia đình em có những rắc rối, bố mẹ em có những sai lầm thì chưa chắc đã do họ muốn thế, hoặc cũng có thể họ phải chịu những áp lực nào đó mà hiện nay, em chưa thể hiểu hết được.
Và đã bao giờ, em nghĩ rằng gia đình là của em, chính bản thân em cũng cần có trách nhiệm vun đắp, xây dựng? Đã bao giờ, em thử mạnh dạn nói chuyện với bố mẹ, bày tỏ những suy nghĩ của mình? Biết đâu, vì sự nghiêm túc của em mà bố mẹ sẽ đổi thay...
Trong trường hợp xấu nhất, nếu em không thể thay đổi được điều gì, nếu em không thể có một gia đình như mong muốn trong hiện tại, thì em vẫn có thể bằng nỗ lực và tấm lòng mình để vun đắp, xây dựng một gia đình như em mong muốn trong tương lai - khi em đã trưởng thành.
Hãy tin rằng, cuộc sống sẽ mỉm cười với những ai biết cố gắng. Cô mong em có thể bình tâm và tìm thấy niềm hạnh phúc thực sự.
Cô giáo của em
Theo Vietnamnet
-
28-06-2010, 02:19 AM #28
Cả nước đang thiếu 26.000 giáo viên THPT
(Dân trí) - Thông tin từ Bộ GD-ĐT cho biết, hiện nay cả nước còn thiếu khoảng 26.000 giáo viên THPT
Theo Bộ GD-ĐT, cả nước có hơn 134.000 giáo viên THPT, tổng số học sinh THPT là 3.100.000. Tỷ lệ giáo viên THPT/lớp hiện nay đang là 1,98, trong khi theo định mức quy định thì tỷ lệ này là 2,25.
Để bảo đảm định mức trên cả nước cần phải có 153.000 giáo viên. Số giáo viên cần đào tạo bổ sung là khoảng 19.000 người. Ngoài ra, hằng năm số giáo viên THPT sẽ về nghỉ chế độ khoảng 7.000 người. Như vậy, tại thời điểm này, xét trên tình hình chung cả nước, số giáo viên THPT còn thiếu 26.000 người.
Để đảm bảo chất lượng giáo dục và đáp ứng yêu cầu xã hội, vừa qua, Bộ GD-ĐT đã chính thức yêu cầu các Sở GD-ĐT xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục và đào tạo năm 2011 và 5 năm 2011 - 2015.
Theo đó, các địa phương cần triển khai quy hoạch mạng lưới các cơ sở đào tạo giáo dục TCCN, ĐH, CĐ thuộc địa phương quản lý, tập trung đầu tư gắn phát triển quy mô đào tạo với đảm bảo chất lượng đào tạo.
Theo Bộ GD-ĐT, quy mô phát triển của bậc học này sẽ được tăng dần với mức tăng bình quân chỉ tiêu tuyển sinh ĐH, CĐ là 7%/năm, TCCN 5%/năm.
Hồng Hạnh
-
29-06-2010, 12:00 PM #29
Tiến sĩ: 'Không xưng danh thì ai biết là ai...?'
Sẵn sàng bỏ ra hàng chục ngàn đô la để sở hữu một tấm bằng tiến sĩ, hoặc lựa chọn những cơ sở đào tạo kém chất lượng để có tấm bằng này cho thấy quan niệm ấu trĩ ở một bộ phận trí thức "nửa mùa".
"Không xưng danh thì ai biết là ai...?"
Nếu đến một nước phát triển ở châu Âu và giới thiệu bản thân với một người dân bình thường: Tôi đang làm tiến sĩ ở trường X...thì hẳn là bạn sẽ nhận được câu hỏi: Tiến sĩ là làm cái gì?
Đừng nghĩ rằng dân trí những nước này thấp quá. Đơn giản là bởi "danh hiệu" đó không có gì đặc biệt đối với họ. Nếu giới thiệu mình làm tiến sĩ với người đang công tác trong trường đại học, người ta sẽ hiểu ngay công việc của bạn là gì. Tuy nhiên, với một người dân bình thường thì "danh hiệu" đó không có gì "ấn tượng".
Tuy nhiên, hãy nói điều đó với ai đó ở nước ta, từ thành thị cho tới nông thôn, ít nhất bạn cũng nhận được một ánh mắt yêu mến tức thì, trong đó có phần ngưỡng mộ, khâm phục.
Hay thử để ý trong một hội nghị, kể cả hội nghị của ngành giáo dục, trong phần kính thưa hay giới thiệu, lẽ ra chỉ cần nêu: "vụ trưởng A", "thứ trưởng A" hay thậm chí "bộ trưởng A" là đủ, nhưng không, trước chức vụ đó bao giờ cũng phải xướng lên cái danh hiệu "phó giáo sư, tiến sĩ A" hay "giáo sư, tiến sĩ A".
Tiến sĩ không phải là tước vị mà là một nghề
Nguyễn Thành Trung, một nghiên cứu sinh tại Bỉ cho biết: Sau khi làm nghiên cứu sinh 5 năm, tôi tự cười mình 5 năm về trước, khi đó tôi đã rất tự hào khi nhận được "học bổng" du học tiến sĩ do trường ĐH trực tiếp cấp. Nói tôi "từng tự hào" vì ngày đó có rất nhiều bài báo ca ngợi những người cùng lúc nhận được rất nhiều học bổng cấp từ các nước tiên tiến.
Anh nói: "Nhưng giờ thì tôi đã rõ, làm tiến sĩ không có gì quá khó khăn và to tát như người ta tưởng. Làm tiến sĩ là học cách làm nghiên cứu, là chập chững bước vào nghiên cứu khoa học. Trở thành nhà khoa học mới là cái đích cuối cùng. Nhưng con đường từ tiến sĩ tới danh hiệu nhà khoa học còn xa lắm, bởi vì làm tiến sĩ xong mà không nghiên cứu được cái gì, tấm bằng đó cũng coi như vứt sọt rác."
"Những người chính thức trở thành nghiên cứu sinh của trường (regular Ph.D student) làm việc giống hệt một công chức của trường và được hưởng một mức lương theo qui định. Hình thức trả lương này không phải là học bổng, mà gọi là trợ cấp (grant), một hình thức lương không đóng thuế.
Các nước Âu –Mỹ rất khuyến khích người nước ngoài ứng cử vào các vị trí này, vì người bản xứ ít người chịu làm công việc nặng nhọc nhưng lương thấp như thế, vào khoảng 1.800 euro/tháng (thu nhập thấp hơn một công nhân quét rác xứ Bỉ, vì họ có thêm 2 tháng lương một năm để đi nghỉ hè). Bên cạnh đó, đào tạo ra một người bản xứ đủ trình độ làm công việc này, họ phải mất chi phí nuôi người đó từ lúc mới sinh cho đến khi xong đại học hoặc thạc sĩ, trong khi đó nếu tuyển người nước ngoài, họ sẽ không mất khoản chi phí đó."
Anh Trung nhấn mạnh: "Trong quá trình học, tôi chứng kiến nhiều cuộc “ra đi” của đồng nghiệp, cả Tây, cả châu Á, không phải vì họ không giỏi giang mà vì không gặp may: họ gặp phải một đề tài không có đáp số. Tôi cũng ngạc nhiên khi thấy họ ra đi mà vẫn bình thản như không, vì hóa ra, học tiến sĩ với họ đơn giản là làm một công việc, là một phương tiện chứ không phải là một mục đích tối cao."
"Rõ ràng, đây không phải là chuyện một cá nhân đi tìm kiếm một tước vị mà là chuyện đào tạo một người làm khoa học, hay nói nôm na là đào tạo một nghề nghiên cứu. Chỉ đơn giản là thế. Trong xã hội ở đây, người ta không đặt nặng nề cái danh mà đặt các “thực” lên hàng đầu. Cụ thể là học bổng tiến sĩ của tôi cũng chỉ bằng thu nhập một công nhân nào đó làm việc 8 giờ/ngày. Tôi nói không ngoa, vì một điều rõ ràng nhất là về tiền, danh hiệu tiến sĩ không mang lại nhiều hơn cho họ, trong khi đó công việc nghiên cứu lại nặng nhọc, đầy áp lực về mặt tinh thần."
"Lương của một người làm việc “postdoc” (sau tiến sĩ) ở Bỉ chỉ khoảng 2.000 euro/tháng, giáo sư thì nhiều hơn tùy theo thâm niên. Tôi từng chứng kiến một bà giáo sư vì bất đồng chuyện cơ quan mà bỏ việc ở trường đại học, đi làm người tính tiền ở siêu thị. Về lương mà nói, cũng chỉ giảm một ít, bởi người tính tiền ở siêu thị cũng được trả khoảng 1.800 euro/tháng sau thuế, lại chẳng phải suy nghĩ gì nhiều!"
Tú Uyên
-
29-06-2010, 12:22 PM #30
Cảm ơn laotam về các bài sưu tầm phản ảnh một phần bộ mặt của Ngành Giáo Dục Đào tạo Việt Nam hiện nay!
Cảm ơn Bộ GD&ĐT đã tăng lương GV gấp 2,1 lần! ( Thầy Văn Như Cương )
Đánh dấu