Kết quả 41 đến 45 của 45
-
08-07-2010, 11:25 AM #41
Học tiến sĩ để làm gì?
Tác giả: Nguyễn Văn Tuấn
Người trí thức chân chính phải nghĩ đến những đóng góp có giá trị nhằm đem lại phúc lợi thực sự cho nhân loại, và không bao giờ phụ thuộc vào học vị, học hàm hay các danh xưng phù phiếm để gây ảnh hưởng trong cộng đồng.
Tiến sĩ không phải danh xưng phù phiếm
Để có được văn bằng tiến sĩ (TS), ứng viên phải đạt hai điều kiện. Thứ nhất, ứng viên phải có kiến thức uyên bác và làm chủ kiến thức về một đề tài khoa học. Thứ hai, ứng viên phải mở rộng hay phát triển thêm tri thức về đề tài đó. Để làm chủ đề tài nghiên cứu, nghiên cứu sinh (NCS) phải tìm đọc và cố gắng hiểu tất cả những gì đã viết hay công bố về đề tài đó.
Không phải như bậc cử nhân, kiến thức thường có thể tìm thấy trong sách giáo khoa, đối với bậc TS, kiến thức thường được tìm trong các tập san khoa học. Để mở rộng kiến thức về một đề tài, NCS phải làm nghiên cứu khoa học (NCKH) theo sự hướng dẫn của thầy cô. Chính phần NCKH này phân biệt giữa TS và các chương trình cử nhân hay thạc sĩ. Không có NCKH thì không thể là TS được.
Cũng cần phải nhấn mạnh rằng đề án nghiên cứu cấp TS không nhất thiết phải mang tính ứng dụng thực tiễn (như nhiều người ngộ nhận), mà phải thể hiện một đóng góp mới vào tri thức cho chuyên ngành. "Tri thức mới" ở đây bao gồm việc phát hiện mới, khám phá mới, hay cách diễn giải mới cho một vấn đề cũ, hay ứng dụng một phương pháp mới để giải quyết một vấn đề cũ, v.v...
Những tri thức như thế có thể không có khả năng ứng dụng trong tương lai gần, nhưng có thể góp phần thúc đẩy chuyên ngành phát triển một mức cao hơn. Xin nhớ rằng khám phá insulin phải đợi đến gần 50 năm sau mới ứng dụng trong lâm sàng.
Học TS không chỉ là hoàn tất luận án. Có rất nhiều người tưởng rằng học TS chủ yếu là hoàn tất một luận án, nhưng thực tế thì không phải như thế vì luận án chỉ là một phần của chương trình đào tạo.
Luận án là một báo cáo có hệ thống những phương pháp và kết quả nghiên cứu của NCS. Do đó, luận án chỉ là một tiêu chuẩn (có thể quan trọng) trong các tiêu chuẩn để được cấp bằng TS.
Ngoài luận án ra, NCS phải đáp ứng 6 tiêu chuẩn như sau :
- NCS phải chứng tỏ mình có những kiến thức cơ bản về khoa học, và những kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực nghiên cứu mà thí sinh theo đuổi.
- NCS phải am hiểu các tài liệu nghiên cứu cần thiết về lĩnh vực chuyên môn mình theo đuổi. Có khả năng cập nhật hóa kiến thức cũng như tất cả những phát triển mới liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu.
- NCS phải chứng tỏ kĩ năng phát hiện vấn đề hay đặt câu hỏi có ý nghĩa cho nghiên cứu chuyên ngành của mình.
- NCS phải làm chủ được phương pháp NCKH hay phương pháp thí nghiệm cơ bản.
- NCS phải chứng tỏ đã đạt được những kĩ năng về truyền đạt thông tin, kể cả trình bày kết quả nghiên cứu trong các diễn đàn khoa học quốc gia và quốc tế, khả năng viết báo cáo khoa học.
- NCS phải chứng tỏ mình đã nắm vững kĩ năng thiết kế một công trình nghiên cứu và độc lập trong nghiên cứu.
Một luận án khi hoàn tất mà chỉ để trên giá sách của thư viện trường cũng chỉ là một mớ tài liệu ít người biết đến. Vì ít người biết đến và nằm trong thư viện, nên chẳng có bao nhiêu người biết được luận án đó có cái gì mới hay xứng đáng với cấp TS hay không.
Do đó, NCS cần phải công bố vài bài báo khoa học trên các tập san khoa học quốc tế trước khi viết luận án. Công bố quốc tế là một hình thức "thử lửa" tốt nhất cho NCS, bởi vì qua đó mà đồng nghiệp khắp thế giới có thể thẩm định chất lượng của công trình nghiên cứu và luận án của NCS.
Thật ra, công bố quốc tế là một điều gần như tất yếu trong quá trình học TS ở các ĐH bên châu Âu, châu Mỹ, và châu Úc, những nơi mà họ khuyến khích (có nơi gần như bắt buộc) NCS phải công bố vài bài báo khoa học trước khi viết luận án TS. Ở một số nước Bắc Âu, luận án TS thực chất là tập hợp một số bài báo khoa học đã công bố trên các tập san quốc tế. Ngày nay, các ĐH lớn ở Thái Lan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Philipin v.v... cũng có qui định tương tự.
Một trong những câu hỏi mà NCS khi mới bước vào học TS là cần phải có bao nhiêu bài báo khoa học để có thể bảo vệ luận án TS? Câu hỏi này khó trả lời, bởi vì nó còn tùy thuộc vào qui định của trường ĐH, của phân khoa, và những qui định này rất khác nhau giữa các trường ngay cả trong cùng một nước.
Chẳng hạn như trong các khoa xã hội và kinh tế học, yêu cầu bài báo khoa học không được đặt nặng bằng các khoa khoa học tự nhiên và thực nghiệm. Ở Mỹ người ta không có những qui định "cứng" phải có bao nhiêu bài báo khoa học để viết luận án TS, vì NCS phải học "coursework" một thời gian trước khi bắt tay vào nghiên cứu.
Ở Anh và Úc thì TS hoàn toàn làm nghiên cứu chứ không có coursework, nhưng cũng không có quy định trên giấy trắng mực đen bao nhiêu bài báo. Tuy nhiên, có quy ước ngầm theo kiểu "unspoken rule" là một luận án TS cần phải có ít nhất 2 bài báo khoa học, hoặc 3 bài báo khoa học, cộng với các bài khác chưa công bố.
Trong một phân tích mới công bố trên Scientometrics, tác giả Hagen phân tích cho thấy tính trung bình, một luận án TS ở Viện Karolinska có 4 bài báo khoa học, và con số bài báo dao động từ 3 đến trên 6 bài. Theo phân tích (xem biểu đồ dưới đây), gần 80% luận án có 4 bài báo khoa học; 12% có 5 bài; 5% có trên 5 bài; một phần nhỏ (4%) có 3 bài.
Học vị TS là một học vị cao nhất trong hệ thống giáo dục ĐH. Ở các nước phương Tây, xã hội kính trọng những người có học vị TS và gọi họ bằng danh xưng "Doctor".
Để xứng đáng với danh xưng đó, xã hội đòi hỏi người có học vị phải đạt hai điều kiện chung: Phải chứng tỏ rằng mình đã quán triệt và làm chủ được lĩnh vực nghiên cứu; và thứ hai, phải phát triển hay cống hiến được một cái gì mới cho kho tàng của tri thức nhân loại. Cái cốt lõi của học vị TS (và cũng là khía cạnh dùng để phân biệt học vị TS với các học vị ĐH khác) có thể tóm lược bằng hai chữ: Nghiên cứu. Để phát triển hay mở rộng tri thức, thí sinh phải khảo sát, điều tra, và suy ngẫm, chứ không đơn thuần là một kỹ thuật viên về một lĩnh vực chuyên môn nào đó.
Học tiến sĩ để...thay đổi xã hội và con người
Mặc dù những cảnh báo trên là hoàn toàn sự thật và có thể xảy ra cho thí sinh, nhưng tôi phải công bằng mà nói rằng cũng có một vài "an ủi" cho thí sinh nào cảm thấy mình có đủ khả năng và đức tính để theo học TS.
Thứ nhất, thí sinh có thể tự hào rằng mình đã hoàn tất chương trình học, hoàn tất nghiên cứu, và được trao văn bằng TS. Nếu thí sinh có khả năng và đam mê, sự nghiệp NCKH có thể đem lại cho thí sinh nhiều phần thưởng vật chất và tinh thần có giá mà các ngành nghề khác không có được.
Thứ hai, trong khi theo học TS hay sau khi tốt nghiệp, thí sinh có thể sẽ gặp gỡ và làm việc với những người thông minh nhất trên hành tinh này. Thí sinh sẽ tiếp cận và tiến dần đến những lý tưởng và ý tưởng không nằm trong tầm tay của mình, làm được việc đó, thí sinh sẽ cảm thấy tri thức mình trưởng thành thêm. Thí sinh sẽ giải quyết nhiều vấn đề mình chưa bao giờ gặp trước đó, khám phá các khái niệm chưa bao giờ được nghe đến. Hoặc phát hiện những nguyên lí có thể làm thay đổi xã hội và con người.
Thứ ba, là lý tưởng sống của người làm NCKH rất có ý nghĩa. Tôi có thể nói lại câu này mà không sợ bị chê là "nói ngoa". Nói về niềm hân hoan trong nghiên cứu, có một "chân lí" mà có lẽ bất cứ nhà khoa học nào cũng đồng ý: Trong các hoạt động của con người, NCKH là lẽ sống có ý nghĩa nhất. Tại sao nhà khoa học phải tiêu tốn nhiều thời gian trong phòng nghiên cứu, mày mò sách vở, bận tâm với từng con số, quan tâm đến từng biểu đồ, trong khi họ có thể sống với gia đình, làm cỏ trong vườn, hay tán gẫu với bè bạn tại quán cà phê, quán nhậu?
Đúng là nhà khoa học cũng có thể có một cuộc sống gia đình như hàng triệu triệu người khác, làm những việc trong gia đình như bao nhiêu người khác trên thế giới này. Nhưng cái khác nhau là thay vì làm những việc đó, nhà khoa học có thể làm việc trong một phòng thí nghiệm, trong phòng máy tính, trong thư viện, bên giường bệnh với bệnh nhân, hay thậm chí trong chuồng nuôi chuột bạch v.v...nơi mà họ có thể khám phá những điều thú vị nhất trên đời mà chưa có người nào biết đến.
Có thể nói NCKH là một niềm vui tuyệt đối. Còn gì vui hơn khi khám phá của mình đem lại lợi ích cho hàng triệu người trên thế giới, như khám phá vi khuẩn H. pylori của giáo sư Marshall, người vừa được giải Nobel y học vừa qua.
Mục đích thực và chính của việc học hành là để mở mang trí tuệ, trau dồi kiến thức, rèn luyện nhân cách, và làm người hữu ích cho xã hội. Bằng cấp không phải dùng để đo những kết quả trên, mà chỉ là những phân chia đẳng cấp khoa bảng rất tương đối.
Bằng cấp, dù là học vị cao nhất như TS, chỉ là một bước đầu trong hoạt động khoa học, và tự nó chưa nói đủ về khả năng chuyên môn của nhà khoa học. Tương tự, một học hàm cao nhất như giáo sư cũng không phản ánh chính xác được mức độ đóng góp vào kho tàng tri thức của nhân loại. Người trí thức chân chính phải nghĩ đến những đóng góp có giá trị nhằm đem lại phúc lợi thực sự cho nhân loại, và không bao giờ phụ thuộc vào học vị, học hàm hay các danh xưng phù phiếm để gây ảnh hưởng trong cộng đồng.
-
08-07-2010, 11:27 AM #42
Gánh nặng trên vai tân Bộ trưởng Bộ GD-ĐT
Tác giả: Mai Lan (DNSGCT)
Chưa bao giờ ngành giáo dục (GD) lại ngổn ngang trăm mối đến thế. Hàng loạt vấn đề của giáo dục chưa có câu trả lời thấu đáo: triết lý, quản lý, tài chính, chương trình - sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy, công bằng về cơ hội học tập, tham nhũng… Với tân Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phạm Vũ Luận - đứng trước một gánh nặng của “nhiều đời bộ trưởng để lại” (?) - ông sẽ chọn khâu nào làm điểm đột phá, để tạo một bước chuyển mới cho nền giáo dục Việt Nam?
Triết lý giáo dục - la bàn không chỉ hướng Bắc!
"Mọi sai lầm cụ thể hiện nay đều bắt nguồn từ một triết lý giáo dục sai. Sai về căn bản. Đó là nguyên nhân gốc của mọi chuyện, từ đó dẫn đến điều mà GS Hoàng Tụy đã nghiêm khắc chỉ ra: chúng ta không chỉ đang lạc hậu, mà đang lạc hướng! Lạc hướng chính là lạc hướng về triết lý giáo dục" - Nhà văn Nguyên Ngọc không hề đơn độc với nhận định trên của mình.
Theo GS.TSKH Phạm Minh Hạc, một người lạc quan nhất cũng có thể nhận thấy rằng, nền giáo dục Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều vấn đề nghiêm trọng, nhất là sự thiếu thích ứng với những biến đổi to lớn của nền kinh tế - xã hội và những đòi hỏi ngày càng cao của thế giới, đó là vì Việt Nam thiếu một triết lý giáo dục cho thời kỳ mới.
GS.TS Nguyễn Hữu Châu, Viện trưởng Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục cho rằng do Việt Nam chưa có một triết lý giáo dục rõ ràng và thống nhất, gây khó khăn cho quá trình nghiên cứu và phát triển chiến lược giáo dục, xây dựng chương trình giáo dục cụ thể. GS Nguyễn Hùng Hậu (Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) cũng thấy cần có một triết lý giáo dục đi trước mở đường, chứ không thể xây dựng chiến lược theo kiểu "dò đá qua sông".
Ý kiến thì rất nhiều, song Bộ GD-ĐT có nghe không? Trước sức ép của dư luận, năm 2007 Bộ cũng đã tổ chức hội thảo về triết lý giáo dục. Và, đến hôm nay mọi việc coi như... chìm!
Triết lý nào cho giáo dục Việt Nam thời kỳ mới? Câu hỏi tiếp tục treo lơ lửng!
Đổi mới quản lý là đổi mới cái gì? Ai cần đổi mới?
TS Vũ Thị Phương Anh, Giám đốc Trung tâm Khảo thí và đánh giá chất lượng đào tạo của ĐHQG TP.HCM nói về kinh nghiệm rút ra được của bà: "Hiện nay cái gì hay đều do những sáng kiến và nỗ lực cá nhân hoặc tập thể nhỏ, hay nói cách khác, là từ cấp cơ sở, mà ra. Còn cái dở, đa số nằm ở tầm chiến lược, chính sách, và cơ cấu tổ chức, nhân sự điều hành quản lý. Mà... sai ở tầm vĩ mô, thì nguy hiểm lắm chứ! Ảnh hưởng lâu dài và sâu rộng đến toàn bộ một dân tộc trong một vài thế hệ. Rất đáng lo!".
GS Chu Hảo nói thẳng: "Trong thực tiễn nền giáo dục của chúng ta áp dụng một hệ thống quản lý tập trung quá mức. Quyền tự quản không được thực thi, đặc biệt là ở các trường đại học".
Trong buổi trực tuyến ngày 31/8/2009 tại Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Phó thủ tướng, nguyên Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Thiện Nhân, cũng phát biểu: "Nếu nói khâu đột phá để nâng cao chất lượng giáo dục thì đó chính là đổi mới quản lý nhà nước đối với hệ thống GD-ĐT". Ngay Nghị quyết trung ương 2, khóa 8 năm 1997 chỉ ra bốn nguyên nhân làm yếu kém nền giáo dục nước nhà, trong đó có nguyên nhân thuộc về công tác quản lý.
Vấn đề tưởng đã quá rõ. Song, công tác quản lý giáo dục ở cấp vĩ mô nhiều năm qua vẫn gần như "dậm chân tại chỗ".
Trước thực trạng quản lý giáo dục ngày càng bộc lộ những yếu kém, Thủ tướng Chính phủ đã phải ra chỉ thị về "Đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010-2012". Lý giải về việc chọn đổi mới quản lý giáo dục đại học là khâu đột phá, Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân cho rằng nguyên nhân cốt lõi nhất của tất cả các yếu kém mang tính hệ thống ở bậc đại học thời gian qua là do thực hiện các giải pháp khoa học quản lý chưa sát.
Tiếc thay, Bộ GD-ĐT lại triển khai cuộc "cách mạng" quản lý bằng tư duy "phong trào" chứ không bằng tư duy "khoa học": hàng loạt cuộc hội thảo, hội nghị của các trường ĐH-CĐ trên cả nước được mở ra với nhiều chương trình hành động và khẩu hiệu "nổ rền", nhưng lại chẳng liên quan gì đến việc đổi mới quản lý cả! Hàng loạt cuộc ký kết giữa Bộ GD-ĐT với Trung ương Đoàn TNCS HCM, giữa các ban giám hiệu, đảng ủy nhà trường với Đoàn TNCS HCM của các trường về chương trình hành động của sinh viên (!) đối với cuộc "đổi mới quản lý giáo dục".
Đổi mới diễn ra "lạc đề, lạc chủ thể"? Trong khi đó, nội dung được các trường và xã hội mong chờ nhất là: việc đổi mới công tác quản lý của Bộ đối với hệ thống các trường đại học ra sao? Giao quyền tự chủ đến đâu? Đổi mới cơ chế tài chính như thế nào? Mức độ phân công, phân cấp quản lý cho các trường? v.v... Tất cả chìm khuất!
Tài chính - càng lên cao càng "mờ"?
Trên trang web chính thức của Bộ GD-ĐT nhiều năm trước đây, số sinh viên học sinh, số giảng viên, tổng đầu tư của Nhà nước, tổng chi từng năm đều được công khai. Nhưng, nay những số liệu trên đã gần như biến mất. Vì sao thông lệ công khai tài chính của nhiều đời bộ trưởng trước, nay lại bỏ?
GS Phạm Phụ nhiều lần kiến nghị: Có kế hoạch từng bước minh bạch hóa tài chính giáo dục, minh bạch rồi sẽ có hiệu quả, có chất lượng và hạn chế được tham nhũng. Trước mắt đề nghị minh bạch năm khâu: Quy trình cấp ngân sách nhà nước cho các cơ sở giáo dục; Các dự án vốn vay ODA; Quy trình cấp phép lập trường và nâng cấp trường; Xuất bản sách giáo dục; Công khai tài chính ở các cơ sở giáo dục.
Hiện nay, ngân sách nhà nước chi cho giáo dục đã chiếm 20% tổng chi ngân sách. Về con số tuyệt đối, ngân sách nhà nước đã tăng từ 19.747 tỉ đồng năm 2001 đến 2012 sẽ là 137.566 tỉ đồng. Ngoài ra, người dân đóng góp dự kiến từ năm 2008-2012 sẽ là 190.904 tỉ đồng, tương đương 2% GDP (tính toán của Bộ GD-ĐT). Chưa kể vốn vay ODA và các khoản viện trợ không hoàn lại của quốc tế vào khoảng trên 2 tỉ USD trong mười năm qua.
Trong lúc tiền đầu tư tăng vùn vụt thì ngành giáo dục lại thừa nhận: không có điều kiện đánh giá hiệu quả chi của Nhà nước, bởi 74% ngân sách nhà nước dành cho giáo dục do các UBND tỉnh quản lý, 21% do các bộ ngành khác quản lý, Bộ GD-ĐT chỉ quản lý 5%. Không có quy định về chế độ báo cáo sử dụng ngân sách giáo dục, mà các địa phương và bộ ngành khác quản lý cho Bộ GD-ĐT nắm tình hình để điều phối.
Bộ GD-ĐT đã mất quyền kiểm soát về tài chính!?
Với Đề án Đổi mới cơ chế tài chính, Bộ GD-ĐT có chuyển động bước đầu với chủ trương bốn kiểm tra, ba công khai: kiểm tra thu, chi ngân sách, học phí, và kinh phí các chương trình mục tiêu; công khai cam kết chất lượng giáo dục, các điều kiện bảo đảm, thu chi tài chính. Theo Vụ trưởng Vụ Kế hoạch tài chính Đặng Văn Ngữ, đến nay Bộ chỉ nhận được báo cáo từ 150 trường đại học và 227 trường cao đẳng, trong đó chỉ có 34% trường báo cáo đủ các nội dung. Tuy nhiên, theo Hiệu trưởng Đại học Kinh tế Hà Nội, các trường tự tuyên bố, kê khai là một chuyện, cần phải có cơ quan kiểm định để ghi nhận thực tế đó đến đâu. Còn GS Phạm Phụ lại băn khoăn: ba công khai rất tốt, nhưng có lẽ khó có một ai phán xét nổi chất lượng ở đó là đáng giá "bảy triệu đồng hay 10 triệu đồng".
Một nội dung lớn khác của tài chính giáo dục: nền giáo dục Việt Nam đã đa dạng hóa loại hình đầu tư, hàng loạt ĐH-CĐ dân lập, tư thục đã ra đời trong suốt mười năm đổi mới. Tuy nhiên, cũng ngần ấy thời gian vấn đề lợi nhuận của khu vực này đã rất không rõ ràng: là trường "lợi nhuận" hay "phi lợi nhuận"? Bởi trên thế giới, ứng xử của Nhà nước giữa hai loại hình trường này rất khác nhau.
Một khi tài chính thiếu minh bạch sẽ ngáng trở rất lớn trong việc đánh giá hiệu quả, thiết lập kế hoạch đầu tư chính xác cũng như đóng góp của xã hội cho giáo dục.
Không lắng nghe và chưa thấu hiểu?
Có thể nói quá không: trong suốt hơn 10 năm đất nước bước vào công cuộc đổi mới một cách quyết liệt, chưa bao giờ trên các diễn đàn giáo dục, các phương tiện truyền thông đại chúng, người dân cũng như giới trí thức trong và ngoài nước ngừng nghỉ việc đóng góp ý kiến của mình để góp phần chấn hưng nền giáo dục nước nhà.
Điểm qua các kiến nghị về giáo dục của các nhóm trí thức lớn thời gian qua, có thể thấy năm 2004 GS Hoàng Tụy cùng 23 nhà khoa học khác đã gửi bản kiến nghị lên Trung ương Đảng, Thủ tướng Phan Văn Khải và Bộ trưởng Bộ GD-DT Nguyễn Minh Hiển kêu gọi cải cách giáo dục toàn diện và mạnh mẽ. Năm 2005, nhóm nhà khoa học Việt kiều gồm các giáo sư: Hồ Tú Bảo, Trần Nam Bình, Trần Hữu Dũng, Trần Văn Thọ, Hà Dương Tường, Vũ Quang Việt đã có đề án "Sử dụng trí thức Việt kiều để góp phần xây dựng giáo dục đại học chất lượng cao tại Việt Nam". Năm 2006 là bản kiến nghị của Liên hiệp Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam về những vấn đề của giáo dục. Năm 2007, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đưa ra đề xuất "Đổi mới có tính cách mạng nền GD-ĐT của nước nhà". Năm 2008, nguyên Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình và 15 nhà quản lý và chuyên gia giáo dục như Trần Hồng Quân, Nguyễn Thị Tâm Đan, Nguyễn Minh Hiển, Chu Hảo, Đặng Quốc Bảo, Vũ Ngọc Hải, Phạm Phụ... cũng đã "Đề xuất chủ trương, chính sách phát triển giáo dục phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu và đầy đủ".
Nhưng tiếc thay, tất cả như rơi vào "hố thẳm của im lặng"!
Thông báo kết luận của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển GD-ĐT đến năm 2020 đã nhận định: công tác quản lý giáo dục còn nhiều yếu kém và là nguyên nhân chủ yếu của nhiều yếu kém khác. Cơ chế quản lý giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp sự đổi mới trên các lĩnh vực của đất nước. Đạo đức và năng lực của một bộ phận cán bộ quản lý giáo dục còn thấp.
* Theo Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần
-
08-07-2010, 10:42 PM #43
Nhộn nhịp “chợ phao” trước giờ G
- Những ngày gần đây, các hàng quán photo có tiếng ở Tạ Quang Bửu, Trần Khát Chân, các ngõ gần trường ĐH KHXH & NV, ĐH Sư Phạm HN... trở nên đông đúc hơn thường lệ.
150 đến 300 ngàn một bộ ba môn
Mặc dù xuất hiện nhiều thủ đoạn tinh vi quay cóp nhưng phương pháp truyền thống (phô tô thu nhỏ tài liệu) vẫn là phương pháp đầu tiên mà nhiều sĩ tử tìm đến.
Nhiều năm nay, các tuyến phố nổi tiếng là chợ phao đã trở nên e dè lui vào hoạt động bí mật nhưng những ngày gần đây trở nên sôi động bởi có cầu ắt có cung. Giới học trò vẫn rỉ tai nhau các hàng, quán có tiếng ở Tạ Quang Bửu, Trần Khát Chân, các ngõ gần trường ĐH KHXH & NV, ĐH Sư Phạm HN…
Hầu hết các quán này đều là quán phô tô chỉ khi nào có khách hàng quen hoặc sau khi thăm dò cẩn thận mới dám đưa “thượng đế” đi chọn hàng.
Đặc biệt quán phô tô phía sau kí túc xá Đại học Quốc Gia Hà Nội còn rất cẩn thận khi cho khách xem hàng qua máy tính. Nếu khách ưng ý chủ quán mới bắt đầu cho in sau đó đóng bộ. Những tài liệu này được anh T. – chủ quán lưu vào máy tính với tên file “tài liệu mật”. Chủ quán này in thử một trang nếu khách cảm thấy ưng ý lúc này cuộc ngã giá mới bắt đầu.
Giá “phao” ở mỗi nơi mỗi khác nhau. Tuấn (một cậu bé giúp việc cho quán photo gần trường ĐH Sư phạm) rỉ tai với tôi: “Tiền nào của nấy chị ạ. “Bèo” nhất là phao ở Tạ Quang Bửu “mắc” nhất là khu vực gần trường ĐH Sư phạm HN và ĐH Quốc gia”.
Tôi đang chần chừ thì một cô bé chừng độ tuổi THPT vào, chủ quán không ngần ngại hét giá 150 nghìn/ 1 bộ gồm ba môn. Cô bé này kêu đắt thì anh chủ quán nói gần như hét: “Này, tài liệu đây đâu có phải vỏ hến đâu, muốn rẻ thì ra mấy hiệu cop y nguyên từ sách tham khảo ấy.
Đây là phần giảng của các thầy cô sư phạm có tiếng cả. Nhiều người mấy năm ra đề đại học đấy”. Cô bé này cũng cho tôi biết: “Em cũng hỏi quán kế bên đến 300 nghìn/ bộ”.
Cảnh giác cao độ
Các chủ quán đều “cảnh giác” cao độ với tất cả những người vào hỏi phao. Chiều ngày 7/8 chúng tôi có mặt tại một quán phô tô trên đường Tạ Quang Bửu trong lúc nhân viên của quán đang hối hả làm việc thì một cậu học sinh vào nói oang oang giữa quán: “Anh ơi, có bán phao khối C không làm cho em một kiểu ruột mèo hết bao nhiêu em cũng được”.
Cậu em họ cũng là học sinh THPT đi cùng tôi rỉ tai: “Hét to như thế chủ quán mà đưa ra khác gì bảo với tất cả mọi người lạy ông tôi ở bụi này”. Đúng như cậu em tôi dự đoán, ông chủ quán quát oang oang:
“Phao với chả thuyền gì ở đây. Đi đi cho người ta làm việc, đã nắng nóng lại còn quấy rầy nữa ai mà làm được”. Cậu học sinh ngẩn mặt tiu nghỉu sang quán khác.
Tuy nhiên, một lúc sau khi vãn khách trong quán tôi lại hỏi nhỏ thì chủ quán nhìn đầy dò xét rồi trả lời: “Ở đây không có muốn lấy thì để anh về nhà lấy cho”.
Giá phao ở đây "dễ thở" hơn, chỉ 75 nghìn/ bộ, các thượng đế đã “nắm chắc trong tay đề thi năm nay”. Anh chủ quán còn chắc như đóng đinh: “Đảm bảo là đề văn năm nay đấy, anh làm bao nhiêu năm chả lẽ lại bán đồ rởm cho em. Em tìm được chỗ nào giá rẻ hơn thì đến đây anh biếu không luôn”.
Hầu hết các chủ quán đều rất cảnh giác và trả lời hiện có phao ở quán nếu muốn lấy thì để về nhà đưa ra nhưng theo cậu em tôi tiết lộ thì có nhiều cửa hàng có phao tại chỗ nhưng phải làm thế để “nắn gân” xem có đúng là khách đến mua phao hay không.
Một số quán khác cẩn thận hơn không làm sẵn phao mà nếu khách có nhu cầu thì sẽ liên hệ qua điện thoại đặt chủ quán làm. Nội dung gì, kiểu phao nào…tất cả sẽ được giao dịch qua điện thoại.
Cách này chủ quán chỉ ưu tiên những khách hàng quen hoặc được người quen giới thiệu. M.N (một nữ sinh ở Cầu Giấy) cho biết: “Cách này tốn kém hơn nhưng phao rất chất lượng. Đợt thi tốt nghiệp vừa rồi lớp em cũng có mấy bạn đặt làm. Dùng được hay không phải tùy cơ ứng biến nhưng đưa phao đặt này vào bọn em yên tâm hơn”.
-
09-07-2010, 07:14 PM #44
Cả một nền giáo dục "không may"(!)
Tác giả: Hà Văn Thịnh
Nếu 30% máy cái bị hỏng thì sản phẩm tạo ra thuộc loại nào? Đây là câu hỏi không hề nhỏ vì đó là nỗi đáng lo đối với sự xuống cấp, thậm chí có phần "tha hóa" của một nền giáo dục nhìn đâu cũng thấy "dỏm".
Đọc bài báo của Tuần Việt Nam (26/6/2010) nói về chuyện ông Nguyễn Ngọc Ân, Giám đốc Sở VH-TT-DL tỉnh Phú Thọ nói về chuyện "không may" của mình khi bỏ ra 17.000 USD để có bằng TS do một trường ĐH ở Mỹ cấp, mà không cần người học có kỹ năng nghe- đọc- nói tiếng Anh, một trường ĐH, theo GS Nguyễn Văn Tuấn (Úc) đặt tại...Malaysia, đã bị giải thể từ năm...2003, mà thật xót xa cho nhiều điều, nhiều chuyện của nền giáo dục nước nhà. Phải chăng cũng là nền giáo dục "không may"?
Ngành giáo dục...đùa dai và duy ý chí
Nhưng điều đáng buồn nhất, cả ngành giáo dục vẫn đang "tự sướng" vì kết quả thi tốt nghiệp THPT vừa rồi đạt trên 90% (không ít tỉnh có số học sinh đậu từ 97-99%). Kết quả đó giống như một sự "đùa dai" vì ai cũng biết trong tất cả mọi hình thái, công đoạn của sự di truyền thì di truyền văn hóa - giáo dục luôn là điều khó khăn, phức tạp nhất.
Đức Bodhidharma (Bồ Đề Đạt Ma) có nói rằng trên đời có 3 điều không thể mua: đó là tình cảm chân thành, thời gian sống và...hiểu biết. Làm sao một nền giáo dục khủng hoảng và bất cập trầm trọng, chỉ trong thời gian ngắn, các điều kiện quyết định về chất lượng không cải thiện được bao nhiêu, mà lại có thể có một kết quả như từ trên trời rơi xuống?
Cứ 10 người dân thì 9 người không tin kết quả đó. Bởi ai cũng ngầm định, ngầm hiểu rằng để "hóa phép giả - thật" là điều dễ nhưng để có hiểu biết thật thì không dễ một chút nào. Không thể có chuyện một địa phương năm ngoái kém cỏi, bết bát trong chuyện thi cử mà năm nay lại "thăng hoa" một tấc đến trời, bởi giáo dục là một quá trình.
Điều buồn thứ hai, Bộ GD và ĐT vẫn bất chấp dư luận, "duy ý chí" khi biết rằng trong 65 năm của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Cộng hòa XHCN Việt Nam chúng ta chỉ đào tạo được có 15.000 tiến sĩ. Thế nhưng, Bộ đã ký cái rụp đề án trong 10 năm tới sẽ có 20.000 TS - không biết để làm gì, với tổng kinh phí là 14.000 tỷ đồng- tương đương với 778 triệu USD.
Theo GS Nguyễn Văn Tuấn, chỉ riêng việc đào tạo 10.000 TS ở nước ngoài, chi phí thấp nhất đã là 900 triệu USD. Vậy, lấy tiền đâu để bù vào khoản thiếu hụt 122 triệu USD đào tạo ở nước ngoài và vài trăm triệu USD nữa cho kinh phí đào tạo trong nước?
Kế hoạch gì kỳ cục vậy khi Bộ cứ ký, nhưng tiền không đủ, thiếu cả hàng trăm triệu USD? Đó là chưa nói đến việc số lượng TS "trên mây" nhiều như thế mà đất nước cứ đói nghèo, dân tộc cứ lẹt đẹt đi sau người ta thì đào tạo TS nhiều để làm gì?
Điều buồn thứ ba, cựu Thứ trưởng Bành Tiến Long cách đây mấy năm đã thừa nhận trước công luận rằng có đến 30% TS không đạt chuẩn - nói nôm na là "dỏm". Bộ GD và ĐT đã thừa nhận như thế nhưng tại sao vẫn chấp nhận thực tế ấy? Tại sao Bộ - cơ quan chủ quản lại không làm một cuộc thanh tra, sát hạch toàn diện về bằng cấp thật - giả để chấn chỉnh đội ngũ này?
Và tham vọng "cá chép" vượt "vũ môn"
Các TS đương nhiệm hiện nay, nhiều người có khả năng là những máy cái đào tạo ra nhiều thế hệ TS nữa cho nước nhà. Nếu 30% máy cái bị hỏng thì sản phẩm tạo ra thuộc loại nào? Đây là câu hỏi không hề nhỏ vì đó là nỗi đáng lo đối với sự xuống cấp, thậm chí có phần "tha hóa" của một nền giáo dục nhìn đâu cũng thấy "dỏm".
Nhưng, quả thật, nếu Bộ tổ chức được những cuộc khảo sát có chất lượng do những người có tâm huyết với nước, với ngành chịu trách nhiệm thì người viết bài này, e con số không dừng lại ở tỷ lệ 30%.
Những người có trách nhiệm của ngành có thấy đau buồn không khi ông GĐ Sở VH- TT- DL Nguyễn Ngọc Ân cho rằng cái sai của ông chỉ là do "không may" - có nghĩa là rất nhiều người may mắn "chưa bị lộ" vẫn có bằng cấp ấy, chức phận kia, nghênh ngang, chễm chệ làm xấu, làm hỏng nền học vấn của nước nhà?
Nếu muốn bàn thêm thì cái tư tưởng cố đấm ăn xôi với tham vọng là "cá chép" mong vượt "vũ môn" ở kỳ Đại hội tỉnh Đảng bộ sắp tới (như ông Ân nói) quả là vấn nạn đáng buồn cho đất nước này.
Bộ GD và ĐT vừa có Bộ trưởng mới. Là một giảng viên, tôi tin chắc xã hội, số đông các nhà giáo ở cơ sở đang chờ mong sự thay đổi quyết đoán, táo bạo và có hiệu quả, nhất là về cơ chế quản lý GD và ĐT của Bộ trưởng Phạm Vũ Luận.
Xin kiến nghị với Bộ trưởng, trước khi có được một nền giáo dục tốt đẹp, nhất thiết phải "thay máu" - thay đổi triết lý giáo dục. Phải làm sạch tất cả những sự dối trá - điều quyết định làm cho đất nước đã và đang tạo ra rất nhiều những con người dối trá và kém cỏi...
Mong mỏi lắm thay!
-
10-07-2010, 10:33 AM #45
Bằng cấp và năng lực có "đá" nhau?
Tác giả: Diệp Văn Sơn
Có học vị cao chưa chắc lãnh đạo giỏi mà thậm chí chưa chắc có đủ năng lực đòi hỏi đối với một công chức.
Bằng cấp- tiêu chuẩn thăng tiến?
Tuần Việt Nam đang có chủ đề về bằng cấp tiến sĩ. Tôi xin góp thêm một số suy nghĩ xuất phát từ thực tiễn tuyển chọn và sử dụng người lao động của chúng ta, với mong muốn góp phần tìm mô hình quản lý công chức thực chất hơn.
Theo tôi, có học vị cao chưa chắc lãnh đạo giỏi mà thậm chí chưa chắc có đủ năng lực đòi hỏi đối với một công chức!
Rõ ràng là vấn nạn "bằng dỏm", tình trạng hữu danh vô thực là chuyện không phải của riêng ai, của một quốc gia nào, mà là vấn nạn có tính toàn cầu! Nhưng có điều xử lý và ngăn chặn không cho vấn nạn này có đất sống và hoành hành, thao túng trong các cơ quan công quyền lại là một chuyện khác đối với mỗi quốc gia.
Cơ chế quản lý xã hội chúng ta hiện nay đặt nặng một cách thái quá bằng cấp làm tiêu chuẩn thăng tiến, vô hình chung đã tạo điều kiện cho vấn nạn "bằng dỏm, bằng giả" có mảnh đất màu mỡ để tồn tại!
Người viết bài này đồng tình với ý kiến của Phó GS, TS Lê Đức Ngọc, (Giám đốc Trung tâm Kiểm định, đo lường và đánh giá chất lượng giáo dục thuộc Hiệp hội các trường ĐH- CĐ ngoài công lập VN): "Về việc sử dụng văn bằng, chứng chỉ, phải nhận rõ đây mới là "giấy chứng nhận trình độ học vấn". Còn năng lực của người có văn bằng, chứng chỉ đó là một việc có thể không tương ứng. Vì vậy, việc sử dụng văn bằng, chứng chỉ chỉ nên là điều kiện cần để xem xét tuyển chọn và phân công trách nhiệm ban đầu mà thôi. Trong thực tiễn, sau thời gian thử việc, bao giờ cũng có sự tuyển dụng hay phân công trách nhiệm lại, phù hợp với năng lực thực chất".
Qua nghiên cứu cho thấy, có 4 loại năng lực cơ bản cần cho công chức, giúp họ có khả năng hoàn thành nhiệm vụ một cách chủ động và sáng tạo trong bối cảnh đầy thách thức hiện nay và tương lai. Đó là:
Năng lực tư duy: - Khả năng nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, nhận biết vấn đề. Hiểu nguyên nhân của vấn đề cần được xử lý, giải quyết trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công việc.
- Khả năng lập luận, phân tích và nhận thức một cách linh hoạt, tiếp cận khách quan vấn đề theo nhiều cách, nhiều góc độ khác nhau, hiểu được tính logic, tính hệ thống khi xem xét, nghiên cứu vấn đề.
- Khả năng đưa ra ý tưởng, giải pháp, cách làm để giải quyết vấn đề, thực thi nhiệm vụ một cách linh hoạt, sáng tạo, thích hợp với từng hoàn cảnh, điều kiện trong thực tiễn.
- Khả năng tư duy chiến lược, tầm nhìn và hướng đến tương lai.
Năng lực hành động: - Khả năng tổ chức thực hiện công việc hiệu quả, hoàn thành nhiệm vụ trong điều kiện thực tiễn phức tạp.
- Khả năng tổ chức và thực hiện công việc một cách chủ động, tự tin, linh hoạt và thành thạo.
- Khả năng xử lý các vấn đề phát sinh một cách thích hợp, hiệu quả trong quá trình thực hiện.
- Khả năng tự chủ, hoàn thành công việc một cách hiệu quả; biết cách khắc phục những khó khăn để hoàn thành.
- Khả năng chịu trách nhiệm trong công việc, bảo đảm không để xảy ra sai sót.
- Khả năng liên kết, phối hợp trong thực thi nhiệm vụ
Năng lực quan hệ, giao tiếp, thuyết phục, lãnh đạo, làm việc với người khác: - Khả năng quan hệ với mọi người trong quá trình thực hiện công việc, hướng đến khách hàng.
- Khả năng giao tiếp hiệu quả, thuyết phục, truyền cảm hứng cho mọi người để cùng thực hiện tốt nhất công việc
- Khả năng hỗ trợ, giúp đỡ, khuyến khích người khác cùng hoàn thành công việc
- Khả năng xây dựng niềm tin cho người khác khi cùng thực hiện nhiệm vụ.
- Khả năng lãnh đạo, gây ảnh hưởng đến người khác, hướng các nỗ lực tập thể thông qua việc thu hút được sự ủng hộ, tán thành của các thành viên trong đơn vị đối với tầm nhìn của tổ chức, khiến cho họ cùng cố gắng, nỗ lực hoàn thành tốt công việc.
Năng lực tiếp thu, đổi mới, sáng tạo và phát triển: - Khả năng liên tục cập nhật thông tin, tiếp thu kiến thức và học tập trong quá trình thực hiện công việc, luôn tìm tòi những ý tưởng mới.
- Khả năng đổi mới, sáng tạo trong cách thức thực hiện công việc và giao tiếp với mọi người,có khát vọng.
Những khả năng này rõ ràng là trong quá trình học và làm nghiên cứu thạc sĩ, tiến sĩ chưa hẳn đã được dạy hoặc tích lũy được, huống chi các tiến sĩ "dỏm". Thế nhưng ở ta, do tư duy trọng bằng cấp thái quá tạo điều kiện cho loại tiến sĩ "dỏm" này leo cao!
Nếu người được tuyển chỉ biết "nhai lại"...
Có thể nói lâu nay ta chưa có một hệ thống tiến cử, tuyển chọn người tài công tâm, dân chủ và khoa học.
Thiết nghĩ, nếu muốn có một đội ngũ công chức có năng lực thật sự cần tổ chức thi tuyển đầu vào nghiêm ngặt, dân chủ, khoa học và khách quan hơn. Nên chăng tổ chức những cơ quan độc lập lo việc thi tuyển công chức. Dựa vào kết quả thi tuyển, cơ quan cần tuyển dụng chiếu theo yêu cầu, tiêu chí của cơ quan mình để chọn lựa tuyển dụng.
Ngoài ra, đối với các chức vụ lãnh đạo, cần tổ chức thi tuyển "cạnh tranh" vào một chức danh nào đó. Trước mắt cho thí điểm thi trưởng, phó phòng, dần dần mở rộng đến phó, chánh giám đốc sở, vụ trưởng, vụ phó, cục trưởng, cục phó...Bổ sung "Chế định sát hạch công chức" định kỳ hoặc đột xuất.
Đã đến lúc chúng ta phải làm quen "công nghệ mới" bổ sung cho hệ thống tuyển chọn nhân sự cao cấp để quy hoạch thông qua áp dụng tiêu chí đánh giá qua chỉ số thông minh IQ (Intelligent Quotient) và chỉ số cảm xúc EQ (Emotinal Quotient).
Trong thực tiễn quản lý, nhất là ở tầm hoạch định chính sách, nhiều vấn đề phát sinh không có trong sách vở, trong các thông lệ. Hơn nữa, công cuộc đổi mới cũng như cải cách hành chính và những vấn đề bức xúc của Nhà nước ta chưa có tiền lệ. Vì thế, nếu người được tuyển chỉ biết "nhai lại" mà chỉ số thông minh thấp thì khó có khả năng đề xuất giải quyết những vấn đề bức xúc có tính đột phá.
Việc đòi hỏi công chức trong một thời gian phải có bằng cấp cao vô hình chung làm bùng nổ vấn nạn "mua bằng, bằng giả" hay "học giả bằng thật".
Ở Việt Nam ta, đã có không ít các bậc trí thức lớn, thực tài nhưng bằng cấp rất khiêm tốn. Ví dụ, GS Tôn Thất Tùng (bác sĩ), GS Tạ Quang Bửu (cử nhân), GS Trần Đại Nghĩa (kỹ sư)...Các vị mãi mãi là ngôi sao sáng trên bầu trời văn hiến đất Việt.
Lao động của công chức là loại hình lao động đặc biệt vì thế nó phải được điều chỉnh một cách đặc biệt không thể đồng nhất với các loại hình lao động khác. Muốn làm công chức phải chấp nhận "luật chơi nghiêm khắc hơn".
Vấn đề còn lại ở đây là chế độ đãi ngộ vật chất cũng như tinh thần phải tương xứng với "luật chơi" đó để bảo đảm thu hút lao động giỏi vào cơ quan công quyền.
Theo kinh nghiệm nhiều nước, cần nhanh chóng bãi bỏ chế độ tuyển dụng công chức suốt đời. Nước Nhật là quốc gia điển hình về áp dụng chế độ tuyển dụng công chức suốt đời, nhưng qua trên chục năm liên tục suy thoái kinh tế đã ngộ ra, một trong những nguyên nhân đưa đến sự trì trệ là do áp dụng chế độ này.
Trung Quốc có những nét khá tương đồng với ta về chủ trương bao cấp trong thực thi chế độ nhân sự. Nhưng để phát triển, vì nhu cầu tăng trưởng cao, họ đã không ngần ngại bỏ "chế độ biên chế" đối với mọi loại hình lao động kể cả cán bộ, công chức để thực hiện "chế độ hợp đồng linh hoạt".
Có làm được những điều trên, chúng ta mới mong có một đội ngũ công chức đủ phẩm chất và năng lực, làm việc thưc sự chuyên nghiệp, hạn chế đến mức thấp nhất vấn nạn "bằng dỏm, bằng thật học giả" lâu nay làm nhức nhối xã hội.
Cảm ơn Bộ GD&ĐT đã tăng lương GV gấp 2,1 lần! ( Thầy Văn Như Cương )
Đánh dấu