Warning: Illegal string offset 'name' in [path]/includes/functions.php on line 6845
Những cái tên của Thăng Long - Hà Nội
Close
Login to Your Account
Kết quả 1 đến 6 của 6
  1. #1
    Ngày tham gia
    May 2010
    Bài viết
    5,310
    Post Thanks / Like

    Mặc định Những cái tên của Thăng Long - Hà Nội

    Thăng Long, với chữ “Thăng” ở bộ Nhật, được ghi trong Đại Việt sử ký, không chỉ là “Rồng bay lên”, mà còn có nghĩa “Rồng (bay) trong ánh Mặt trời lên cao”. Đây là một tên gọi hoàn toàn do người Việt sáng tạo.

    Thăng Long - Hà Nội là Kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam. Mảnh đất địa linh nhân kiệt này từ trước khi trở thành Kinh đô của nước Đại Việt dưới triều Lý (1010) đã là đất đặt cơ sở trấn trị của quan lại thời kỳ nhà Tùy (581-618), Đường (618-907) của phong kiến phương Bắc. Từ khi hình thành cho đến nay, Thăng Long - Hà Nội có nhiều tên gọi. Chúng tôi xin chia các tên gọi ấy thành hai loại: Chính quy và không chính quy, theo thứ tự thời gian như sau:



    Rồng đá trên thềm điện Kính Thiên trong Thành cổ Hà Nội.

    Tên chính quy

    Là những tên được chép trong sử sách do các triều đại phong kiến, Nhà nước Việt Nam chính thức đặt ra:

    1. Long Đỗ. - Truyền thuyết kể rằng lúc Cao Biền nhà Đường, vào năm 866 đắp Thành Đại La, thấy thần nhân hiện lên tự xưng là Thần Long Đỗ. Do đó trong sử sách thường gọi Thăng Long là đất Long Đỗ. Thí dụ vào năm Quang Thái thứ 10 (1397) đời Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly có ý định cướp ngôi nhà Trần nên muốn dời Kinh đô về đất An Tôn, Phủ Thanh Hóa. Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can, đại ý nói: “Ngày xưa, nhà Chu, nhà Ngụy dời Kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ có Núi Tản Viên, có Sông Lô Nhị (tức Sông Hồng ngày nay), núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi”. Điều đó cho thấy Long Đỗ đã từng là tên gọi đất Hà Nội thời cổ.

    2. Tống Bình.
    - Tống Bình là tên trị sở của bọn đô hộ phương Bắc thời Tùy (581 - 618), Đường (618 - 907). Trước đây, trị sở của chúng là ở vùng Long Biên (Bắc Ninh ngày nay). Tới đời Tùy chúng mới chuyển đến Tống Bình.

    3. Đại La. - Đại La hay Đại La Thành nguyên là tên vòng thành ngoài cùng bao bọc lấy Kinh đô. Theo kiến trúc xưa, Kinh đô thường có “Tam trùng thành quách”: Trong cùng là Tử Cấm Thành (tức bức thành màu đỏ tía) nơi Vua và hoàng tộc ở, giữa là Kinh thành và ngoài cùng là Đại La Thành. Năm 866, Cao Biền bồi đắp thêm Đại La Thành rộng hơn và vững chãi hơn trước. Từ đó, thành này được gọi là Thành Đại La. Trong Chiếu dời đô của Vua Lý Thái Tổ viết năm 1010 có viết: “... Huống chi Thành Đại La, đô cũ của Cao Vương (tức Cao Biền) ở giữa khu vực trời đất...” (Toàn thư, Tập I, H, 1993, tr. 241).

    4. Thăng Long. - Về ý nghĩa tên gọi Thăng Long, chúng ta vẫn thường giải thích rằng: Thăng là bay lên, Thăng Long tức là rồng bay. Thực ra, ở trong Hán tự có nhiều cách viết và giải thích chữ “thăng”. Với cách viết thứ nhất, chữ “thăng” có nghĩa là “đi lên cao, tiến lên”, bên cạnh nghĩa đầu tiên của nó là cái thưng, một dụng cụ đo lường dung tích (từ văn học: “đẩu thăng: đấu thưng”). Cách viết thứ hai: có chữ Nhật đặt lên trên chữ Thăng mang ý nghĩa là Mặt trời lên cao và cũng có nghĩa là “đi lên cao”, như chữ “Thăng” ở cách viết thứ nhất. Thăng Long, Kinh đô mới của Lý Công Uẩn được ghi trong Đại Việt sử ký, với chữ “Thăng” ở bộ Nhật, và do đó bao hàm hai nghĩa: “Rồng bay lên”, và “Rồng (bay) trong ánh Mặt trời lên cao”. Đặt tên Thăng Long với cách viết như trên, vừa ghi lại sự kiện Vua Lý Thái Tổ thấy rồng xuất hiện trên đất được chọn làm Kinh đô mới, đồng thời có sức mạnh kỳ diệu và tốt lành của giống Rồng, rất gần gũi với dân Việt, vẫn tự cho mình là “con Rồng cháu Tiên”.

    Có điều đáng chú ý là các từ điển thông dụng Trung Quốc như Từ nguyên, Từ hải (Từ nguyên xuất bản 1947, Từ hải xuất bản 1967, chưa rõ những kỳ xuất bản sau có khác không), không thấy ghi từ Thăng Long ở cả 2 dạng viết chữ Thăng. Riêng Trung văn đại từ điển (tập 5, Đài Bắc 1967, trang 208), ở chữ “Thăng” là “Thưng” dạng viết thứ nhất nói trên, có từ kép “Thăng Long” nhưng là danh từ chung và được giảng là “rồng bay lên”. Như vậy, có thể thấy tên gọi Thăng Long với cách viết ghi trên sử cũ là một địa danh hoàn toàn do người Việt sáng tạo.

    5. Đông Đô. - Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Mùa Hạ tháng 4 năm Đinh Sửu (1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương) coi phủ đô hộ là Đông Đô” (Toàn thư Sđd - tr.192). Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sứ thần nhà Nguyễn chú thích: “Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hóa là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô” (Cương mục - Tập 2, H. 1998, tr.700).

    6. Đông Quan. - Đây là tên gọi Thăng Long do quan quân nhà Minh đặt ra với hàm nghĩa kỳ thị Kinh đô của nước ta, chỉ được ví là “cửa quan phía Đông” của Nhà nước phong kiến Trung Hoa. Sử cũ cho biết năm 1408, quân Minh đánh bại cha con Hồ Quý Ly đóng đô ở Thành Đông Đô, đổi tên thành Đông Quan. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Tháng 12 năm Mậu Tý (1408) Giản Định Đế bảo các quân “Hãy thừa thế chẻ tre, đánh cuốn chiếu thẳng một mạch như sét đánh không kịp bưng tai, tiến đánh Thành Đông Quan thì chắc phá được chúng” (Toàn thư , Sđd - Tập 2, tr. 244).

  2. #2
    Ngày tham gia
    May 2010
    Bài viết
    5,310
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    7. Đông Kinh. - Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết sự ra đời của cái tên này như sau: “Mùa Hạ, tháng 4 năm Đinh Mùi (1427) Vua (tức Lê Lợi) từ điện tranh ở Bồ Đề, vào đóng ở Thành Đông Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Đại Việt đóng đô ở Đông Kinh. Ngày 15 Vua lên ngôi ở Đông Kinh, tức là Thành Thăng Long. Vì Thanh Hóa có Tây Đô, cho nên gọi Thành Thăng Long là Đông Kinh” (Toàn thư , Sđd. Tập 2, tr. 293).

    8. Bắc Thành. - Đời Tây Sơn (Nguyễn Huệ - Quang Trung 1787 - 1802), vì Kinh đô đóng ở Phú Xuân (tức Huế) nên gọi Thăng Long là Bắc Thành (Nguyễn Vinh Phúc - Trần Huy Bá - Đường phố Hà Nội - 11.1979, tr.12).

    9. Thăng Long.
    - (Thịnh vượng lên). Sách Lịch sử Thủ đô Hà Nội cho biết: “Năm 1802, Gia Long quyết định đóng đô ở tại nơi cũ là Phú Xuân (tức Huế), không ra Thăng Long, cử Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn miền Bắc và đổi Kinh thành Thăng Long làm trấn thành miền Bắc. Kinh thành đã chuyển làm trấn thành thì tên Thăng Long cũng cần phải đổi. Nhưng vì tên Thăng Long đã có từ lâu đời, quen dùng trong dân gian cả nước, nên Gia Long thấy không tiện bỏ đi ngay mà vẫn giữ tên Thăng Long, nhưng đổi chữ “Long” là Rồng thành chữ “Long” là thịnh vượng, lấy cớ rằng rồng là tượng trưng cho nhà Vua, nay Vua không ở đây thì không được dùng chữ “Long” là “rồng” (Trần Huy Liệu - Chủ biên. Lịch sử Thủ đô Hà Nội, H. 1960, tr 81).

    Việc thay đổi nói trên xảy ra năm 1805, sau đó Vua Gia Long còn hạ lệnh phá bỏ Hoàng thành cũ, vì Vua không đóng đô ở Thăng Long, mà Hoàng thành Thăng Long lại rộng lớn quá.

    10. Hà Nội - So với tên gọi Thăng Long với ý nghĩa chủ yếu có tính cách lịch sử (dù chỉ đưới dạng truyền thuyết: ghi lại sự kiện có rồng hiện lên khi Vua tới đất Kinh đô mới), thì tên gọi Hà Nội có tính cách địa lý, với nghĩa “bên trong sông”. Nhưng nếu xét kỹ trên bản đồ thì chỉ có Sông Nhị là địa giới Tỉnh Hà Nội cũ về phía Đông, còn Sông Hát và Sông Thanh Quyết không là địa giới, như vậy có bộ phận Tỉnh Hà Nội không nằm bên trong những con sông này. Và khi Hà Nội trở thành nhượng địa của Pháp, tên gọi lại càng không tương xứng với thực địa...

    Trung văn đại từ điển, tập 19 (Đài Bắc 1967, tr.103) cho biết Hà Nội là tên một quận được đặt từ đời Hán (202 Tr.CN - 220 S.CN) nằm phía Bắc Sông Hoàng Hà. Tên Hà Nội từng được ghi trong Sử ký của Tư Mã Thiên (hạng Vũ Kỷ), kèm lời chú giải: “Kinh đô đế vương thời xưa phần lớn ở phía Đông Sông Hoàng Hà, cho nên gọi phía Bắc Sông Hoàng Hà là Hà Ngoại”. Rất có thể Minh Mạng đã chọn tên gọi Hà Nội, một tên hết sức bình thường để thay tên gọi Thăng Long đầy gợi cảm, nhưng tên gọi mới Hà Nội này lại có thể được giải thích là “đất Kinh đô các đế vương thời xưa”, để đối phó với những điều dị nghị. Chính cách đặt tên đất “dựa theo sách cũ” đã lại được thực thi, sau này, năm 1888 Thành Hà Nội và phụ cận trở thành nhượng địa của thực dân Pháp, tỉnh lỵ Hà Nội phải chuyển tới Làng Cầu Đơ (thuộc Huyện Thanh Oai, Phủ Hoài Đức), cần có một tên tỉnh mới. Người ta đã dựa vào một câu trong sách Mạnh Tử (Lương Huệ Vương, thượng, 3) “Hà Nội mất mùa, thì đưa dân đó về Hà Đông, đưa thóc đất này về Hà Nội, Hà Đông mất mùa cũng theo phép đó”. Dựa theo câu trên, người ta đặt tên tỉnh mới là Hà Đông, tuy rằng tỉnh này nằm ở phía Tây Sông Nhị, theo thực địa phải đặt tên là Hà Tây mới đúng.

  3. #3
    Ngày tham gia
    May 2010
    Bài viết
    5,310
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Tên không chính quy

    Là những tên trong văn thơ, ca dao, khẩu ngữ... dùng để chỉ Thành Thăng Long - Hà Nội.

    1. Trường An - (Tràng An): Vốn là tên Kinh đô của hai triều đại phong kiến thịnh trị vào bậc nhất của nước Trung Quốc: Tiền Hán (206 Tr. CN - 8 S.CN) và Đường (618 - 907). Do đó, được các nhà Nho Việt Nam xưa sử dụng như một danh từ chung chỉ Kinh đô. Từ đó, cũng được người bình dân sử dụng nhiều trong ca dao, tục ngữ chỉ Kinh đô Thăng Long.

    Thí dụ:

    Chẳng thơm cũng thể hoa nhài.

    Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An.

    Rõ ràng chữ Trường An ở đây là để chỉ Kinh đô Thăng Long.

    2. Phượng Thành (Phụng Thành)

    Vào đầu Thế kỷ XVI, ông Trạng Nguyễn Giản Thanh người Bắc Ninh có bài phú Nôm rất nổi tiếng: Phượng Thành xuân sắc phú (Tả cảnh sắc mùa Xuân ở Thành Phượng).

    Nội dung của bài phú trên là tả cảnh mùa Xuân của Thăng Long đời Lê. Phụng Thành hay Phượng Thành được dùng trong văn học Việt Nam để chỉ Thành Thăng Long.

    3. Long Biên. - Là nơi quan lại nhà Hán, Ngụy, Tấn, Nam Bắc triều (Thế kỷ III, IV, V, và VI) đóng trụ sở ở Giao Châu (tên nước ta thời ấy). Sau đó, đôi khi cũng được dùng trong thơ văn để chỉ Thăng Long - Hà Nội. Sách Quốc triều đăng khoa lục có đoạn chép về tiểu sử Tam nguyên Trần Bích San (1838 - 1877), ghi lại bài thơ của Vua Tự Đức viếng ông, có hai câu đầu như sau:

    Long Biên tài hướng Phượng Thành hồi

    Triệu đối do hy vĩnh biệt thôi!

    Dịch nghĩa:

    Nhớ người vừa tự Thành Long Biên về tới Phượng Thành

    Trẫm còn đang hy vọng triệu ngươi vào triều bàn đối, bỗng vĩnh biệt ngay.

    Thành Long Biên ở đây, Vua Tự Đức dùng để chỉ Hà Nội, bởi vì bấy giờ Trần Bích San đang lĩnh chức Tuần phủ Hà Nội. Năm 1877, Vua Tự Đức triệu ông về Kinh đô Huế để sung chức sứ thần qua nước Pháp, chưa kịp đi thì mất.

    4. Long thành. - Là tên gọi tắt của Kinh thành Thăng Long. Nhà thơ thời Tây Sơn Ngô Ngọc Du, quê ở Hải Dương, từ nhỏ theo ông nội lên Thăng Long mở trường dạy học và làm thuốc. Ngô Ngọc Du là người được chứng kiến trận đại thắng quân Thanh ở Đống Đa - Ngọc Hồi của Vua Quang Trung. Sau chiến thắng Xuân Kỷ Dậu (1789), Ngô Ngọc Du có viết bài Long Thành quang phục kỷ thực (Ghi chép việc khôi phục Long Thành).

    5. Hà Thành. - Là tên gọi tắt của Thành phố Hà Nội được dùng nhiều trong thơ ca để chỉ Hà Nội. Thí dụ như bài Hà Thành chính khí ca của Nguyễn Văn Giai, bài Hà Thành thất thủ, tổng vịnh (khuyết danh), Hà Thành hiểu vọng của Ba Giai(?)...

    6. Hoàng Diệu. - Ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, đôi khi trong các báo chí của ta, chúng ta sử dụng tên này để chỉ Hà Nội. (Thành Hoàng Diệu).

    Ngoài ra, trong cách nói dân gian còn nhiều từ được dùng để chỉ Thăng Long - Hà Nội như: Kẻ Chợ (Khéo tay hay nghề đất lề Kẻ Chợ - Khôn khéo thợ thầy Kẻ Chợ); Thượng Kinh, tên này để nói đất Kinh Đô ở trên mọi nơi khác trong nước, dùng để chỉ Kinh đô Thăng Long (Chẳng thơm cũng thể hoa nhài, Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh). hoặc trong tác phẩm: Thượng Kinh ký sự của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác; Kinh Kỳ, tên này nói đất có Kinh đô đóng (Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến); Và đôi khi chỉ dùng một từ như “Ăn Bắc, mặc Kinh”. Bắc đây chỉ vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh), Kinh chỉ Kinh đô Thăng Long.

    Loại tên không chính quy của Thăng Long - Hà Nội còn nhiều, được người đời sử dụng khá linh hoạt trong văn học, ca dao... kể ra đây chưa hết...

    Trích Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long

  4. #4
    Ngày tham gia
    Jul 2010
    Đang ở
    Xứ Thâm Trầm
    Bài viết
    662
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Thế còn Luy Lâu nhà thơ Hoàng Cầm hay nhắc là ở đâu vậy bác ?
    Nhất thiết hữu vi Pháp
    Như mộng huyễn bào ảnh
    Như thiểm diệc như điện
    Ưng tác như thị quán

  5. #5
    Ngày tham gia
    May 2010
    Bài viết
    5,310
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Trích dẫn Gửi bởi Fansifan Xem bài viết
    Thế còn Luy Lâu nhà thơ Hoàng Cầm hay nhắc là ở đâu vậy bác ?
    Luy Lâu là thủ phủ (Kinh Đô) nước ta thời Hai Bà Trưng. Lúc này được quan cai trị người Tàu là Sỹ Nhiếp lựa chọn và đặt tên nó nằm ở vị trí Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay.

    Hai Bà Trưng đã từng đánh giặc và giải phóng thành này.

  6. #6
    Ngày tham gia
    May 2010
    Bài viết
    5,310
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    “Kẻ chợ”:

    - Lâu nay, dân gian ta vẫn hay dùng từ "Kẻ Chợ" để chỉ “Hà Nội” hoặc “người Hà Nội”. Tuy không nằm trong văn bản nhà nước của các triều đại, song từ “Kẻ Chợ” có một nét đặc sắc riêng và xét về mặt ngôn ngữ, từ này cũng tiềm ẩn nhiều yếu tố lịch sử, văn hoá, phong tục…


    Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt đầu tiên viết bằng chữ Quốc ngữ, còn gọi Từ điển Việt - Bồ - La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum) của Alexandre de Rhodes xuất bản tại Roma năm 1651 (NXB Khoa học xã hội in lại, có chú giải, 1991) đã có từ “Kẻ Chợ” độc đáo này.

    Mục từ “Kẻ” được A. de Rhodes giải nghĩa: “Những người, chỉ dùng nói về người ta khi nói cách không kính trọng. Kẻ chợ: Những người ở trong chợ, nghĩa là những người ở kinh đô Đông Kinh”.

    Như vậy, nếu căn cứ vào cái mốc của tài liệu trên thì tên gọi Kẻ Chợ xuất hiện ít nhất là từ thế kỉ 17.

    Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 2 (NXB Từ điển Bách khoa, 2002) đưa ra 2 thời điểm khác nhau về xuất xứ tên gọi Kẻ Chợ. Trang 180 (mục từ Hà Nội) ghi là “cuối thế kỉ 16” còn ở trang 462 (mục từ Kẻ Chợ) ghi “Trong những thế kỉ 17-18, các nhà buôn và giáo sĩ phương Tây đến Việt Nam thường gọi Thăng Long là Kẻ Chợ”.

    Cũng theo sách này, đây là “tên gọi dân gian kinh thành Thăng Long ngày xưa. Theo nghĩa hẹp, chỉ khu phố phường dân cư của kinh thành thời Lê - Trịnh, phân biệt với khu hoàng thành của vua quan”. Chợ là nơi kinh doanh, buôn bán hàng hoá (với hàng loạt các phố “hàng” khác nhau) ở Hà Nội xưa.

    Vì vậy, cần tìm hiểu vấn đề là, “kẻ” trong Kẻ Chợ chỉ người hay chỉ nơi chốn?

    Từ điển Từ cổ (Vương Lộc, NXB Đà Nẵng, 2001) cho “kẻ” là từ chỉ nơi chốn.

    Theo tác giả Vương Lộc , “kẻ” được chia thành 2 nghĩa: “1. Nơi, chốn. Xưa nay mấy kẻ binh đao (Chinh phụ ngâm). Chẳng lạ nhân tình đất kẻ ta (Nguyễn Công Trứ); 2. Từ thường đặt trước một địa danh để gọi một đơn vị cư trú tương đương với xã, thôn; cũng có khi là một đơn vị cư trú lớn hơn. “Sử rao đến Tiên Du này. Đến làng Kẻ Đống về rày hôm mai (Thiên Nam ngữ lục). Ta ở Kẻ Láng vốn nhà trồng rau (ca dao.). Đồn rằng Kẻ Lạng vui thay” (ca dao).

    Cũng theo cách cắt nghĩa này, từ “kẻ chợ” (không viết hoa) được giải thích là “Nơi đô thị, thường dùng để chỉ kinh đô Thăng Long hoặc chỉ kinh đô nói chung”. Như thế, “kẻ chợ” được dùng với ngoại diên rộng hơn nhiều (Ví dụ: có kẻ chợ Việt Nam, kẻ chợ Bắc Kinh, kẻ chợ Pháp, kẻ chợ Portugal (Bồ Đào Nha),…).

    Nhưng có lẽ, “kẻ” trong “kẻ chợ" đầu tiên được sử dụng với hàm ý chỉ người.

    Kẻ có thể là “1. Người hoặc những người như thế nào đó, nhưng không nói cụ thể là ai” hoặc có thể là “2. Người hoặc những người như thế nào đó, không nói cụ thể là ai, nhưng hàm ý coi thường, coi khinh” (Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học, NXB Đà Nẵng, 2007, tr.740).

    Có lẽ, đầu tiên người ta dùng “kẻ” trong Kẻ Chợ với nghĩa 1 (giống như trong kẻ ở người đi, kẻ Bắc người Nam, kẻ sĩ,…), mặc dù có hơi nghiêng về nghĩa 2 (hàm ý không được coi trọng, vì dân thương gia, buôn bán hẳn không phải là những người có thứ bậc cao trong xã hội).

    Sau đó, “kẻ” tiếp tục phái sinh nghĩa, chỉ nơi chốn của một cộng đồng người nào đó, có nét đặc thù riêng. Vì thế, ta có kẻ chợ, kẻ quê, kẻ Sặt, kẻ Noi, kẻ Mơ, kẻ Láng, kẻ Đông,… Có vẻ nơi nào cũng được ghép với “kẻ” được.

    Ở các từ này, nghĩa chỉ người và nghĩa chỉ một vùng địa danh có sự hoà kết tạo nên một nét nghĩa tổng quát. Kẻ Chợ (Hà Nội) là một tổ hợp mang đậm cách dùng này. Lúc đầu chỉ là để phân biệt 2 khu vực trong kinh thành (một nơi của dân buôn bán, xô bồ dân dã; một nơi là hoàng thành của vua chúa, đẹp đẽ nghiêm cẩn). Mặc dù, trong quá trình sử dụng, nét nghĩa chỉ địa danh dần dần trở thành nét trội. Chẳng hạn ta vẫn nghe nói: dân Kẻ Chợ, đất Kẻ Chợ, vùng Kẻ Chợ, văn hoá Kẻ Chợ…

    Tuy chỉ là một cách nói dân dã, nôm na song càng ngày Kẻ Chợ càng trở nên đắc dụng do sự độc đáo, gây sự chú ý về ngôn từ. Đặc biệt, nó được coi như một dấu tích ngôn ngữ “hoá thạch” của một thời, phản ánh chân thực một hoạt động quan trọng, chủ yếu, phổ biến của đất kinh kì Thăng Long từ xưa đến nay, khi nơi đây trở thành một địa điểm sản xuất, buôn bán, lưu thông các sản phẩm hàng hoá… nhộn nhịp, sầm uất: Chàng về Kẻ Chợ thăm thầy/ Nhớ mua cau đậu trầu cay cho nàng (ca dao).

    Nhưng dù sao, đây vẫn chỉ là một cái tên không chính thức nếu đối chiếu với hàng loạt những cái tên hoàn toàn chính danh đã được ghi vào lịch sử 1000 năm của Thủ đô ta: Cổ Loa, Tống Bình, Đại La, Thăng Long, Đông Đô, Đông Kinh, Đông Quan, Hà Nội,… Tuy không nằm trong văn bản nhà nước của các triều đại, song từ Kẻ Chợ có một nét đặc sắc riêng và xét về mặt ngôn ngữ, từ này cũng tiềm ẩn nhiều nhân tố lịch sử, văn hoá, phong tục… cần xem xét.

    Nguồn: (tác giả) : Phạm Văn Tình

Những cái tên của Thăng Long - Hà Nội

Đánh dấu

Đánh dấu

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •  
.::Thăng Long Kỳ Đạo::.
  • Liên hệ quảng cáo: trung_cadan@yahoo.com - DĐ: 098 989 66 68