Mưu lược của Lý Công Uẩn:

Hoa Lư không phải gốc quyền lực của nhà Lý:

Hoa Lư là kinh đô nhà Đinh. Vua Đinh Tiên Hoàng chọn nơi đó làm kinh đô vì đó là quê của ông. Chúng ta nghe chuyện vua Đinh thời nhỏ tụ tập trẻ chăn trâu lấy cờ lau tập trận, tất cả những chuyện đó diễn ra ở Hoa Lư. Vì vậy, sau khi dẹp tan nạn Thập nhị Sứ quân, Đinh Tiên Hoàng về lại quê cũ đóng đô.

Lê Hoàn, khi chiếm ngôi vua của nhà Đinh, không dời đô mà đóng luôn tại đó, chắc chắn một phần là vì Hoa Lư đã xây dựng đâu ra đấy rồi, phần khác chắn hẳn là vì Hoa Lư cũng không xa xôi gì quê Lê Hoàn.

Sử có viết khác nhau về quê quán Lê Hoàn, nhưng tất cả đều loanh quanh gần Hoa Lư. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí cho rằng Lê Hoàn là người Ái Châu, tức Thanh Hóa ngày nay, ngay phía nam Hoa Lư. Khâm Định Việt Sử và Việt Sử Tiêu Án thì ghi: 'Lê Hoàn quê ở làng Bảo Thái, huyện Thanh Liêm' - thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay. Hà Nam nằm ngay phía Bắc Hoa Lư.

Nhà Lý thì khác, quê ở xa. Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp, Bắc Giang, nay thuộc làng Đình Bảng tỉnh Bắc Ninh. Đồng minh của Lý Công Uẩn là giới sư sãi Phật Giáo. Ông lúc trẻ tu tập trong chùa Lục Tổ, còn gọi là chùa Cổ Pháp, và qua đó kết thân với Sư Vạn Hạnh.

Sư Vạn Hạnh là một nhân vật rất quan trọng. Cũng xuất phát từ chùa Lục Tổ như Lý Công Uẩn, Sư Vạn Hạnh được xem như một vị Phật sống của thời đó. Vua Lê Đại Hành tôn ngài làm Quốc Sư. Nhưng ngài lại thân với Lý Công Uẩn. Nhân có cây bông gạo bị sét đánh, Sư Vạn Hạnh đọc vết cháy thành một bài văn, diễn giải thành việc Lý Công Uẩn sẽ lên ngôi, và xúi giục Lý Công Uẩn lên làm vua.

Việc đó chứng tỏ đạo Phật đối với Lý Công Uẩn không chỉ là tín ngưỡng, mà giới sư tăng còn là nguồn hậu thuẫn nữa, nhất là sư tăng của thiền phái Lục Tổ Thiền Ông, mà chùa tổ tọa lạc tại Cổ Pháp tức Bắc Ninh. Điều này cũng giải thích được vì sao Lý Thái Tổ hỗ trợ cho đạo Phật rất nhiều. Mới dời đô, chưa kịp xây kinh thành, vua đã 'phát tiền kho 2 vạn quan' thuê thợ xây tám chùa ở Cổ Pháp. Vì lòng thành tín một phần, nhưng chắc chắn phần nữa là để gia tăng thế lực của phe mình.

Nếu ở Cổ Pháp có thành trì kiên cố, Lý Thái Tổ chắc đã dời đô về đó. Nhưng, ở Cổ Pháp chỉ có ruộng và chùa, nên Lý Thái Tổ phải tìm địa điểm khác, và ông chọn thành Đại La.

Hãy tìm một tấm bản đồ miền Bắc Việt Nam và xem vị trí những nơi này. Hoa Lư nằm cách Hà Nội 100km về hướng Nam. Huyện Thanh Liêm, nơi hầu hết sử gia đồng ý là quê Lê Đại Hành, nằm cách Hoa Lư 30km về hướng Bắc, ngay trên đường thẳng đi Hà Nội.

Làng Cổ Pháp, nguồn hậu thuẫn của Lý Thái Tổ, lại nằm cách Hoa Lư rất xa, cách thành Đại La 15km về hướng Đông Bắc.

Nếu ở lại Hoa Lư, Lý Thái Tổ sẽ phải sống ngay ở chỗ có hậu duệ nhà Đinh, và muốn qua lại với quê mình là Cổ Pháp thì phải băng qua quê của nhà Lê. Hoa Lư, do đó, là một chỗ không an toàn cho ngai vua.

Đại La thì ngược lại. Đại La nằm ngay gần Cổ Pháp, chỉ qua sông là gần tới. Nếu có nguồn chống đối nào tới từ Hoa Lư, hay Thanh Liêm, hay Châu Ái, Lý Thái Tổ có thể dựa lưng vào quê mình, quay mặt xuống phía Nam mà đấu với toàn bộ các thế lực đó.

Để giữ quyền lực trong tay mình, việc dời đô tới Đại La là vô cùng đắc sách. Đó mới là lý do Lý Thái Tổ dời đô. Tất cả những lời hoa mỹ khác để giải thích việc này, chỉ là cái cớ biện minh.

Thế yếu của Công Uẩn khi lên ngôi

Tới đây, có thể có ý kiến ngược lại như sau: Đành rằng dời đô về Đại La có thể tăng uy quyền Lý Thái Tổ, nhưng Lý Thái Tổ có thế rất mạnh, không cần dời đô cũng có đủ uy quyền. Chẳng phải Lý Thái Tổ được sự ủng hộ của triều thần vốn chán ghét Lê Ngọa Triều hay sao?

Điều đó có, nhưng chưa phải hoàn toàn như vậy. Giả dụ như con vua Lê Ngọa Triều có thể phải bị mất ngôi vì tội của cha, thì chưa chắc phần đã phải về Lý Công Uẩn. Đất đai là của chung nhà Lê, ai lấy mà chẳng được. Tôn tộc nhà Lê còn nhiều, chưa tới phiên Lý Công Uẩn được hưởng một mình dễ dàng như vậy.

Hãy xem lại lúc Công Uẩn lên ngôi. Sử gia Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược viết ngắn gọn như sau: 'Bấy giờ lòng người đã oán giận nhà Tiền Lê lắm, ở trong triều có bọn Đào Cam Mộc cùng với sư Vạn Hạnh mưu tôn Lý Công Uẩn lên làm vua.'

Tuy nhiên, chi tiết ghi lại trong các sách sử khác cho thấy, mặc dù Lý Công Uẩn được sự ủng hộ của nhiều người, chính Công Uẩn là người lo ngại rằng chưa hẳn sự ủng hộ là tuyệt đối.

Sách Toàn Thư chép, khi vua Ngọa Triều băng hà, Đào Cam Mộc biết Lý Công Uẩn có ý muốn tiếm ngôi, bèn lấy lời nói khích, 'Sao Thân vệ không nhân lúc này nghĩ ra mưu cao, quyết đoán sáng suốt, xa xem dấu cũ của Thang Vũ, gần xem việc làm của Đinh, Lê, trên thuận lòng trời, dưới theo ý dân.'

Công Uẩn thoái thác, và còn nói, 'Chỉ sợ lời nói tiết lộ thì chết ráo.'
Công Uẩn khi đó quyền uy nhất triều đình, mà vẫn còn sợ bị 'chết ráo,' chứng tỏ ông ngại rằng vua mới, hay nói chung là triều đại nhà Lê, vẫn có sự ủng hộ trong giới có thế lực.

Tôn thất nhà Tiền Lê

Sách Toàn Thư viết về các con vua Lê Đại Hành, ghi những vị được phong vương, cho đóng quân ở chỗ này chỗ nọ. Theo thứ tự từ lớn tới nhỏ, các con vua Đại Hành gồm: 1. Thái tử Thau làm Kình Thiên Đại Vương; 2. Ngân Tích làm Đông Thành Vương; 3. Việt làm Nam Phong Vương; 4. Đinh làm Ngự Man Vương; 5. Đĩnh làm Khai Minh Vương (vua Ngọa Triều sau này); 6. Cân làm Ngự Bắc Vương; 7. Tung làm Định Phiên Vương; 8. Tương làm Phó Vương; 9. Kính làm Trung Quốc Vương; 10. Mang làm Nam Quốc Vương; 11. Đề (tức Minh Đề) làm Hành Quân Vương. Ngoài ra, còn có con nuôi không rõ tên, làm Phù Đái Vương.

Danh sách trong Toàn Thư cho thấy vua Đại Hành không phong cho ông con nào đóng quân ở thành Đại La cả, cho thấy thành Đại La không có ý nghĩa quân sự lớn lao như Lý Công Uẩn sau này phao tin.

Vậy, vua Lê Ngọa Triều có 10 ông anh em, ông nào cũng có đủ tư cách để lên ngôi, nếu con vua Ngọa Triều không có đủ người ủng hộ, thì 10 ông anh em vua đều có đủ tư cách để lên ngôi, chưa tới phần Lý Công Uẩn.

Tất nhiên, trừ những ông bị giết. Theo Toàn Thư, khi Đại Hành Hoàng Đế băng, Lê Long Việt “cùng hai vương Đông Thành, Trung Quốc và em cùng mẹ là Khai Minh Vương tranh nhau lên ngôi, giằng co 8 tháng, trong nước không có chủ.” Đông Thành Vương thua rồi bị chết. Thế là hết ông số 2.

Lê Long Việt lên ngôi được mấy ngày, Long Đĩnh làm phản, bị bắt, được tha, rồi Long Đĩnh làm phản nữa, giết Long Việt. Xong đời ông số 3. Sau này, Lê Long Đĩnh đánh dẹp giết luôn ông số 9.

Một sách khác, dùng sử liệu của Tàu, viết thêm về hoàng tử Lê Minh Đề. Theo An Nam Chí Lược, vào cuối triều Lê Đại Hành, nhà vua sai con là Lê Minh Đề đi sứ Trung Hoa. Khi Long Đĩnh cướp ngôi, Minh Đề bị kẹt lại bên Tàu, được vua nhà Tống cấp tiền, gạo, và khiến quan xứ Quảng cấp nhà cho ở. Vậy là còn ông số 11 ở bên Tàu.

Chưa hết, An Nam Chí Lược chép rằng vua Lê Ngọa Triều còn một người em nữa tên Lê Minh Vĩnh, từng được vua Ngọa Triều khiến đi sứ Trung Hoa, qua đó nhận sắc phong của vua Tống cho vua, rồi lại tự nhận sắc phong cho chính mình làm 'Trì tiết Giao Châu Chư quân sự Phó sứ.'

Kết lại, khi Lý Công Uẩn cướp ngôi, ít ra ông phải lo tới các vị hoàng thúc, hoàng bá, hay con cháu của họ. Ít ra thì vẫn còn các ông con của Lê Đại Hành số 1, 4, 6, 7, 8, 10 trong nước, và ông số 11 ở bên Tàu. Chưa kể ông con nuôi. Trong đó phải tính tới một ông đã có sẵn sắc phong của vua Tàu.
Nói trắng ra, ngai vàng của Lý Công Uẩn chưa hẳn là vững, và nếu cứ ở lại Hoa Lư, chưa chắc Công Uẩn đã giữ được ngôi. Chính những điều Lý Công Uẩn nói ra cho thấy cá nhân ông cũng không dám tin vào vị thế của mình trong triều đình Hoa Lư.

Tuyên truyền cho việc dời đô

Thế yếu của Lý Công Uẩn, có thể là nhiều hoặc không nhiều, nhưng rõ ràng là nhà vua có nghi ngại chuyện đó. Vì vậy, ông phải tính tới chuyện thiên đô tới nơi nào gần nguồn hỗ trợ cho mình hơn, gần Cổ Pháp hơn.

Ông cũng phải tính tới chuyện làm sao cho người dân quy phục. Và, theo đúng cách làm chính trị của thời đó, ông đổ thừa cho trời.

Trước đây, sét đánh đổ cây, sư Vạn Hạnh theo vết nứt mà đọc được cả một bài sấm bằng chữ nho, lại còn diễn ra từ bài sấm 80 chữ ra chuyện của cả một ngàn năm, kết thúc bằng việc Công Uẩn lên ngôi.

Vài mươi năm sau, Lý Thường Kiệt lại mượn miệng lưỡi trời với bài thơ 'Nam Quốc Sơn Hà.' Lý Thường Kiệt trước khi làm tướng từng làm hoạn quan. Lớn lên trong cung, những trò tuyên truyền chính trị, Lý Thường Kiệt học thẳng từ các vua Lý chứ chẳng đâu xa.

Những điều này phù hợp với kết luận rằng phe đảng nhà Lý thích dùng chuyện huyền bí để biện minh cho mình. Có bài thơ muốn rao cho lính thì bảo là thần viết (Lý Thường Kiệt). Muốn tuyên truyền lật đổ nhà Lê thì đặt ra một bài sấm từ vết nứt trong cây (Sư Vạn Hạnh). Cần lý do để xây một cung điện thật sang trên nền một cung điện đã bỏ, tung tin rồng hiện ra (Lý Thái Tông). Rồng hiện ra mà sợ người ta không biết thì “chiếu chỉ tuyên bảo cho bầy tôi biết” (Lý Thần Tông).

Vậy, nếu cần biện minh cho việc dời đô, và nếu cần tuyên truyền rằng việc nhà Lý nắm quyền là chính đáng, thì bịa ra một con rồng và đổi tên thành là 'Thăng Long' cho mọi người đều biết.

Thời gian nhà Minh cai trị nước Nam đã ra lệnh đốt sách. Vì vậy, sử liệu về nước Nam thời trước Lê Lợi hầu hết là sử liệu gián tiếp.

Vì vậy, tình cảnh thực sự tại triều đình khi vua Lê Ngọa Triều băng hà, và Lý Công Uẩn cướp ngôi, không có nhiều bằng chứng trực tiếp. Tuy nhiên, chứng cớ còn sót lại cho thấy có phần nào vua Lý Thái Tổ không cảm thấy yên ổn tại Hoa Lư, không hẳn vì sợ giặc ngoại xâm, nhưng vì sợ các thế lực chính trị trong nước giành chính quyền.

Do đó Lý Thái Tổ muốn dời đi chỗ nào đó ít chống đối hơn, gần Bắc Ninh là gốc quyền lực của mình hơn, và có sẵn thành trì thì càng tốt. Đó là lý do Lý Thái Tổ chọn thành Đại La.

Nhưng nếu để cho dân biết mình vì sợ mà chạy, sẽ phản tác dụng. Không những cần dời đô, vua còn cần tuyên truyền cho xa, cho rộng, rằng việc dời đô là chính đáng, là có sự ủng hộ của thần thánh. Bởi lý do đó, vua mới lấy cái 'cớ' là có rồng hiện lên, rồi đổi tên thành Đại La, làm một đòn tuyên truyền chính trị cho mọi người đều biết.

Việc đặt tên thành Thăng Long, do đó, là một việc làm thuần túy có tính tiếp thị, tuyên truyền. Là một đòn chính trị, nhưng rõ ràng là đòn này rất hiệu nghiệm. Được một con rồng 'bảo kê' (cho dù là rồng sa cơ hiện trên thuyền vua), nhà Lý trị vì tới 200 năm. Tên thành Thăng Long bị bỏ từ sau đời nhà Lý nhưng tên gọi đó ăn khách tới mức, bây giờ hỏi 'tên cũ của Hà Nội là gì?' Chắc hẳn 10 người thì hết 9 trả lời là 'Thăng Long.'

Cuối năm 1009, sau khi Lê Long Đĩnh qua đời, Lý Công Uẩn lên ngôi vua từ cuộc chính biến do Thiền Sư Vạn Hạnh và các Tướng Đào Cam Mộc và Phạm Cự Lượng bố trí. Sau này, như Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú viết lại, Sư Vạn Hạnh còn làm tể tướng triều Lý.

Vạn Hạnh là người uyên bác và đa mưu, từng dìu dắt Lý Công Uẩn khi còn bé và là người chuẩn bị đưa Lý Công Uẩn lên ngôi khi ông tướng họ Lý này còn là Tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ trong triều đình Lê Long Đĩnh tại Hoa Lư. Chúng ta cũng không quên rằng Lý Công Uẩn là người mà lịch sử của các nho thần ghi lại là 'kinh sử thì học qua loa' - tức là thiên về võ hơn văn.

Vì vậy, có thể chính Vạn Hạnh là người khuyên Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La - xưa kia còn gọi là Tống Bình, Long Biên, hoặc nhiều tên khác nữa...

Lý do dời đô thật ra rất nhiều.
Trước hết là để Lý Thái Tổ thoát khỏi vùng ảnh hưởng của các thế lực quân sự hay chính trị của hai triều Đinh-Lê trước đó, những thế lực đã hình thành từ năm 968 khi Đinh Tiên Hoàng Đế dời đô từ thành Cổ Loa gần Đại La về đất Hoa Lư của mình.

Thứ hai, Vạn Hạnh muốn Lý Thái Tổ giành lại trung tâm chính trị Long Biên của hệ thống Bắc thuộc gọi là An Nam Đô hộ phủ của Trung Hoa, để chứng minh rằng sau ngàn năm Bắc thuộc, từ nay nước Nam đã có chủ.

Lý do thứ ba là nhờ địa thế rộng rãi và thuận lợi của Long Biên so với sự chật hẹp của Hoa Lư ở phía Nam, nước Nam từ nay có một kinh đô vững bền hơn để còn đối phó với những đợt tấn công từ phương Bắc mà Vạn Hạnh đã thấy từ trước khi làm quân sư cho Lê Đại Hành trong trận phá Tống đầu tiên vào năm 981... Khi ấy, Lý Công Uẩn mới là cậu bé... lên bảy.

Suy như vậy thì cũng Vạn Hạnh mới là người thảo ra tờ chiếu dời đô cho Lý Thái Tổ, như Nguyễn Trãi sau này đã soạn thảo nhiều văn kiện cho Lê Lợi trong thời kháng Minh, hoặc Ngô Thời Nhiệm cho Quang Trung Hoàng Đế.

Sau này, có người nói rằng bản Chiếu Dời Đô là tác phẩm khai sáng nền văn học Hà Nội và triều Lý. Phát biểu như vậy e rằng... không hiểu gì cả. Thơ văn đời Lý có nhiều tác phẩm khác - kể cả những bài kệ bất hủ về nghệ thuật và trí tuệ cũng của Vạn Hạnh.

Cũng có người bảo rằng, tài liệu này 'không thể hiện khát vọng dân tộc' - thí dụ như nhắc đến tên Cao Biền - thì cũng không hiểu gì về hoàn cảnh chính trị của ngàn năm trước. Khi ấy, nước Nam vừa giành lại chủ quyền sau hơn ngàn năm Bắc thuộc và triều Lý cần chứng minh với các phần tử ưu tú - các lãnh chúa hay môn phiệt - về tư thế của Lý Thái Tổ. Trong các phần tử này, không thiếu gì người vẫn còn mơ làm Tĩnh hải quân Tiết độ sứ cho phương Bắc...

Cũng có người phê phán, rằng ngôn ngữ bản văn vẫn 'có màu sắc dị đoan phong thủy.' Nói như vậy e rằng, 'có học mà không hiểu.'

Vạn Hạnh là thầy của Lý Công Uẩn. Ông là tay lịch lãm, am hiểu Nho học trước khi đi tu và đạt trình độ rất cao của Mật tông, như nhiều nhà sư đời Lý. Thiền tông khi ấy chưa có vị trí như vào đời Trần!

Trước thì Vạn Hạnh vận dụng tối đa cách suy nghĩ của thời đại để tuyên truyền và chuẩn bị cho Lý Công Uẩn lên ngôi. Sau thì dùng cả thuật phong thủy để chứng minh Thăng Long có cái thế 'rồng chầu hổ phục.''Nhà Phật gọi đó là 'phương tiện' - tùy đối tượng mà nói!

Sử gia đời xưa thì phải là nho thần. Họ cố bài bác rằng Phật Giáo và những gì nằm ngoài hệ thống Khổng Nho là sai quấy. Họ đòi nắm giữ độc quyền chân lý vì đỉnh chung và tư duy của họ, vì một ít bổng lộc tầm thường. Nói chuyện xưa cần thông cảm với hoàn cảnh xưa, không nên lầm lạc. Và càng không nên chấp nhận hàng 'nho thần hiện đại,' xét lại sử cũ với lăng kính Bắc thuộc! Ngày nay, khi có người đả kích Phật giáo hoặc tờ chiếu dời đô là đượm màu dị đoan và phong thủy, họ tự nhuộm màu nô lệ. Và không nhìn thấy trí tuệ của thế hệ Lý Công Uẩn.