Người đàn bà Tứ Xuyên xòe tay đón nhận 100 tệ. Cánh cửa nhà thổ khép lại nhưng tôi lại muốn cùng Yarlung dạo phố đêm cao nguyên. Chúng tôi lang thang qua phố Bát Giác, vốn là một trong ba con đường chuyển kinh truyền thống của người Tạng. Bát Giác là đường “nội quyển”- vòng trong men theo chùa Đại Chiêu có lịch sử 1.300 năm do công chúa Văn Thành Đại Đường xây cất trên một hồ nước; hai vòng “trung quyển” và “ngoại quyển” còn lại bao bọc Đại Chiêu tự, Dược Vương sơn, cung Potala... chạy vòng gần một nửa thành phố Lhasa.

Gió đêm từ Qomolangma chảy xuống khâu lạnh bước chân chúng tôi. Hồng cảnh tiên và thùng nước ấm đã trôi vào đêm buốt. Tôi bắt đầu cảm nhận vị mặn nhạt của dòng máu từ mũi chảy xuống đôi môi quầng thâm vì lạnh, vì thiếu oxy. Tôi mời Yarlung vào quán trà bơ, thứ trà đặc sản của người Tạng.

Để có một chén trà bơ, người ta đem bánh trà chưng thành một loại nước đặc, lấy ít bơ bỏ vào ống gỗ dài 1m, có đường kính chừng 10cm, cho thêm muối, dùng que khuấy đều làm sao cho trà và nước trộn lẫn. Lấy nước đó đổ vào bình gốm, đun nhẹ để dùng (trên cao nguyên áp suất không khí thấp này, nước chỉ sôi đến 600).

Mỗi ngày người Tạng uống 3-4 bát trà bơ. Nếu được mời, không được uống một hơi mà phải nhấp từng ngụm. Mỗi cái nhấp môi của Yarlung đều gợi lên một cử chỉ lạ lẫm với tôi.

- Cha em nấu trà bơ ngon nhất đội âm công! - Bất giác Yarlung ràn rụa nước mắt - Anh biết âm công là ai không? Là những người xẻ xác người đấy!

Tôi gật đầu chia sẻ. Xứ Tạng, mỗi khi có người chết, đội âm công của cha nàng mang xác ra đầu núi. Họ điệu nghệ, từng nhát dao như múa lượn trên thân thể người chết để tìm ra nguyên do vì sao người ta chết. Châu Âu cách đây vài trăm năm chưa được phép mổ tử thi để nghiên cứu nhưng với Tây Tạng, đây là việc làm thường xuyên của hàng ngàn năm nay.

Khi đội âm công mổ xác, một bầy chim kền kền bay đến. Con đầu đàn bước lên và được hưởng quả tim, lần lượt cả đàn được hưởng thụ cho đến mảnh thịt cuối cùng. Rồi đến ngày cha của Yarlung cũng phải ra đi dưới vũ khúc dao cắt của những bè bạn.

Yarlung mồ côi từ một buổi sáng giữa bầy chim mang từng mảnh thịt cha mình hóa kiếp lên trời xanh. Ban ngày Yarlung đi bán hàng dạo trên phố Bát Giác, ban đêm nàng tắm ướt ở nhà thổ. Những vết sẹo tươi máu trên cánh tay Yarlung là hậu quả những trận đòn của bà chủ Tứ Xuyên.

- Tục điểu táng không man rợ như người dưới thế giới suy nghĩ- Yarlung chuyển vào tôi những ý niệm tự do- Khi đi qua đỉnh núi hay vực thẳm ngước nhìn đàn chim bay liệng trên cao, em ngỡ như từng mảnh thịt hóa thân của cha bay lượn khắp bầu trời.

- Tại sao em không đi làm một việc khác?

- Ngay khi em ra đời, ngay sau khi được ném xuống suối lạnh, thầy chiêm tinh đã cho hay số phận em là vậy. Nhưng có hề chi, em là một kiếp nạn của một vị sư nữ tái sinh trong em. Rồi mai đây em cũng sẽ trở thành vũ công trên không gian. Thầy chiêm tinh phán như thế!

Vũ công trên không gian! Đó chính là hình ảnh của Yeshe Tsogyel. Người đàn bà sinh vào năm 757 sau Công nguyên. Nàng lớn lên và yêu Padma Sambhava hay còn gọi là Liên Hoa Sinh, người khai sáng Phật giáo Mật tông xứ Tạng.

Chính Padma Sambhava dạy nàng Lý nhân quả để làm pháp môn thiền quán. Yeshe đi vào vực sâu núi thẳm, sống một đời mưa nắng, ăn hết hoa cỏ nàng chuyển sang ăn không khí cho đến khi xương trán nhô ra trên đỉnh mày nhưng nàng vẫn nhẫn nại đợi ngày hóa thành phật nữ.

- Yeshe và tinh thần mãnh liệt của người còn cao hơn núi. Huống chi đời em chỉ là một giọt hoa trong nắng. Nhẹ nhàng mà cũng nặng trĩu. Em rồi cũng tan thành nắng, biến thành hoa trên miền đất tràn đầy ánh sáng của những vũ điệu linh thiêng này.

Trong quán trà phố Bát Giác, từ tấm lòng của Yarlung, tôi chợt nhìn thấy ánh sáng của những vì sao thầm thì cùng lời cầu nguyện Om mani padme hum huyền bí vang lên bên chùa Đại Chiêu, vang lên đôi môi thơm ngọt trà bơ...