Kết quả 1 đến 7 của 7
Chủ đề: Chùa Đàn
-
29-10-2010, 04:49 AM #1
Chùa Đàn
Sưu tập
Tài tử tương đố - Chùa đàn
Từ trước 1945 Nguyễn Tuân đã dự định in Yêu ngôn, một tuyển tập những đoản thiên có tính cách huyền bí để người đọc biết thêm một tác phẩm mới mà thi pháp và tư tưởng cân bằng với Vang bóng một thời nhưng mở rộng cõi nhìn ra ngoài dương thế.
Yêu ngôn lộ rõ chủ đích Nguyễn Tuân muốn tìm mối liên lạc siêu hình giữa sống, chết, tình yêu và nghệ thuật, đưa ra quan niệm"Tài, Tử tương đố" như một đối xứng với thuyết "Tài, Mệnh tương đố" của Nguyễn Du. Tài tử nào rồi cũng chuốc lấy cái chết, cái chết của họ gần như tiền định bởi chữ tài đi liền với chữ tử, chữ tử này lại đồng âm với tử chết, tức là trong tài tử đã có sự đồng âm với cái chết.
Chẳng phải tình cờ mà những yêu ngôn (lời ma) cùng đồng quy ở một điểm: mô tả cái chết của người tài tử. Đới roi (1943) viết về cái chết của một nghệ sĩ cùng đường, Xác ngọc lam ( 1943), cái chết của vị thần nữ gỗ dó thường được gọi là cô Dó, linh hồn của nghệ thuật làm giấy. Rượu bệnh ( 1943), cái chết của ông vua lưu linh có nhiều nét hướng về Tản Đà, Lửa nến trong tranh viết về sự cháy của ngọn nến thần bí trong một bức họa cổ, Loạn âm là cuộc hàn huyên giữa hai người bạn cũ, một ông quan Kinh Lịch trên trần và một ông quan Ôn dưới âm được Diêm vương cử về trần mộ phu xuống âm phủ, và Tâm sự của nước độc chính là Chùa đàn.
Yêu ngôn viết đã 60 năm-không được rộng rãi biết đến như Vang bóng một thời, nhưng vẫn còn nguyên tính cách tinh lọc, hàm súc về một chủ đề tư tưởng độc đáo với thi pháp đặc biệt, một mình một cõi.
Nghệ thuật Nguyễn Tuân dựa trên hai yếu tố chính: tạo hình bằng thủ pháp chơi chữ và tạo không khí bằng thuật pháp tối sáng, hư ảo.
Nguyễn Tuân thường nói mình "chơi chữ". Vậy lối chơi chữ này là gì?
Ngay từ 1935, trong Vườn xuân lan tạ chủ, ông đã tìm cách ghép những chữ hoàn toàn khác nhau lại với nhau để tạo những hình ảnh lạ như: rượu khê (rượu và khê), làng men (làng và men), mồ hoa (mồ và hoa)... trước khi ném ra những hình ảnh vô cùng độc đáo như: chém treo ngành, chùa đàn, mê thảo, xác ngọc lam, đới roi, loạn âm, thả thơ, đánh thơ, phố Phái... Lối tạo hình này, trong thuật ngữ văn chương người ta gọi là biện pháp siêu thực.
Nhưng Nguyễn Tuân có chịu ảnh hưởng của siêu thực không? Chắc chắn là không, bởi ông"đi trước" siêu thực.
Mà không chỉ tạo hình bằng cách "chơi chữ", Nguyễn Tuân còn "chơi cảnh", "chơi ảnh", đưa ra những cảnh huống ngược đời: mặt đất sáng hơn nền trời, gió không muốn thổi, mấy ngọn sáp không lung lay, vệt khói xám bốc thẳng, từ hôm có gió vàng pha mùi cơn bấc đến nay... để biệt cách mình với người khác. Người ta viết gió thổi, Nguyễn viết gió không thổi, người ta viết ngọn sáp lung lay, Nguyễn viết sáp không lung lay, người ta viết làn khói bay ngoằn ngoèo, Nguyễn viết khói bốc thẳng, nhưng hoàn toàn không phải vì lập dị. Mỗi câu như thế, cách biệt hẳn thế nhìn một chiều của mọi người, tự thân nó đã đứng vững như một thực thể độc đáo, một câu thơ, một trạng thái bất bình thường, lại được đặt ở những chỗ đắc địa, làm cho cảnh "thường" cũng toát ra không khí dị thường, đôi khi lạnh gáy.
Yêu ngôn là lời ma, nhưng lời ma này thực chất như thế nào? Có giống liêu trai của Bồ Tùng Linh không?
Không.
Hai nhà văn gối đầu giường của Nguyễn Tuân thời ấy là André Gide và Bồ Tùng Linh, nhưng bút lực Nguyễn Tuân những lúc xuất thần vượt xa hai vị thầy này. Mà Nguyễn Tuân nhiều lúc xuất thần. Đọc, thích và phục Bồ Tùng Linh nhưng Nguyễn Tuân không chịu ảnh hưởng chất liêu trai hiện thực của Bồ Tùng Linh. Yêu ngôn -cũng lại tình cờ- có những nét rất gần gụi với một dòng tiểu thuyết mà sau này người ta gọi là tiểu thuyết huyền ảo Châu Mỹ la tinh, ra đời sau thế chiến. Điểm hẹn giữa " tiền bối" Nguyễn Tuân và những nhà văn Châu Mỹ la tinh sau này là cả hai đều đi từ những nét đặc thù trong văn hóa dân gian của nước họ để hư cấu nên những tác phẩm pha trộn mộng - thực, mộng - tưởng tượng, mộng - ma, thành một vũ trụ âm dương không ngăn cách. Trong khi thế giới Bồ Tùng Linh là một thế giới hiện thực không huyền ảo mà âm dương chia cách: ma là ma và người là người. Bồ dùng ma để giáo huấn người, tác phẩm của Bồ có tính cách hiện thực phê phán (gián tiếp) xã hội. Nguyễn Tuân chẳng hiện thực mà cũng chẳng đạo đức, phê phán ai, vì thế mà Nguyễn có chỗ đứng cao trong nền văn học thế kỷ XX, trong khi Bồ thuộc về các thế kỷ trước. Trong thế giới huyền ảo của Nguyễn Tuân và các nhà văn Châu Mỹ La tinh, ma chính là người, là trạng thái tẩu hoả nhập ma trong tâm hồn người: người đôi lúc hoá ma mà không biết. Một điểm khác nữa: thần thánh của Nguyễn Tuân ăn ở với người, như người, giống thần thánh Hy Lạp, khác hẳn thánh thần Trung Quốc. Tất cả những yếu tố này tạo cho yêu ngôn một sức hấp dẫn biến ảo dị kỳ.(tiếp)Nhất thiết hữu vi Pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như thiểm diệc như điện
Ưng tác như thị quán
-
29-10-2010, 04:50 AM #2
Với bút pháp kinh dị luôn luôn xoáy vào cái chết, Nguyễn Tuân có ma lực biến tất cả các ngoại cảnh thành pháp trường, mộ địa. Đối với ông, nhà văn mỗi lần viết là một lần lên đoạn đầu đài, ngòi bút của hắn đối diện với tờ giấy: pháp trường trắng. Cảnh đàn hát cũng rỉ máu pháp trường: "Cô Tơ rùng mình. Hình như đây là pháp trường đang có những tiếng mớm chiêng đồng. Như ăn phải bát cháo lú bên sông Hắc Thủy. Cô mê thiếp đi. Tiếng hát méo dần." Pháp trường trở thành "sân chơi" của Nguyễn Tuân: cảnh Chánh Chủ khảo tế thi hương trong truyện Khoa thi cuối cùng hay Báo oán là một cảnh pháp trường mà các oan hồn được mời vào trường thi để trả ân, báo oán, trước thí sinh:
"Mặt đất sáng hơn nền trời. Cuộc tế tiến trường như đang lắng chờ một sự biến gì. Gió cũng không muốn thổi. Mấy ngọn sáp không lung lay, vệt khói xám nơi bình hương bốc lên thẳng thắn trên bàn tam sinh. Nền trời phương Đông đáng lẽ đã phải hửng lên rồi. Thế mà ở đấy chỉ rặt một thứ mây đục đùn lên những hình quỷ Đông. Phía Tây, một cái cầu vồng cụt một chân, tô lên tạo vật những mầu xanh đỏ dại dại và nghịch mắt. Trong cảnh âm dương không chia biệt rõ, quan Chánh Chủ khảo trường Hà Nam hợp thi khoa Mậu Ngọ, đang tế cáo giời, đất, vua, thần và thánh; xuýt xoa khai xong tên, tuổi, quê, quán, ngài khấn to:
"... Báo oán giả, tiên nhập; báo ân giả, thứ nhập..." [...]
Một thứ gió u hiển thổi thốc vào bãi trường, nghe lào xào như có tiếng các oan hồn lành chen chúc và ùa vào choán chỗ. Những cây nến cháy vạt ngọn bỗng tắt phụt hết". (Khoa thi cuối cùng tức Báo oán, Nguyễn Tuân toàn tập , I, trang 647-648)
Cảnh đốn cây gạo cổ thụ ở Suối Vầu cũng chẳng khác gì một cảnh trảm tấu:
"Cây gạo xiêu dần xuống rồi vật mạnh xuống như một kẻ chiến tranh bị bị trúng độc kế ở mặt trận, làm tung bắn lên những thân hình người đang oằn oại trên những đoạn luồng già dùng làm bẫy cắm chèn vào kẽ gốc. Suối Vầu tung nước. Rừng Vầu vang bật lên một tiếng quật gốc già. Đầu rễ cái gốc gạo nhựa rỉ tuôn tợ máu phun..." (Chùa đàn, Nguyễn Tuân toàn tập , III, trang 54-55)
Cảnh đào rượu hạ thổ trong truyện Chùa đàn, cho thấy một không khí mộ địa rùng rợn khác:
"Cảnh ấp, những đêm đào rượu chôn, trở nên quái đản. Khách qua đường đêm vắng, tưởng đấy là một vụ chôn của hoặc là đào mả trộm.
Hướng vào nhà khách và cách nhà độ ba mươi bộ, có một cái gò con. Chỏm gò phất phơ toàn một giống thạch sương bồ. Sườn gò, đây đó ít gốc rền tiá. Gò ấy, chính là huyệt rượu. Bá Nhỡ chôn cơm men và rượu cất ở mả rượu ấy. Ngoài Bá Nhỡ ra, cấm dân ấp không được ai lai vãng gần tửu phần. Tửu phần đã phân ra từng khu đông tây nam bắc và chia từng hàng luống như ở một nghĩa trang sơn thôn. Trên các khu và các luống tửu phần, có những thẻ tre sơn vôi trắng, viết chữ đen và sơn đỏ, có thể lẫn với bài bùa phù thủy. Ấy là Bá Nhỡ ghi ngày tháng từng lứa rượu và đặt tên cho từng mẻ rượu... Vô cố nhân - Mê Thảo Hầu - Thuần Hoành Quận Chúa - Ức Sấu Viên [...]
Cỏ gò chôn rượu bừng dậy chất xanh bóng thạch sương bồ, bên cái sáng bốc khói của đưốc lớn. Người phụ việc cầm quốc. Bá Nhỡ cầm mai, hì hục đào. [...]
Bó đuốc của người phụ việc lấp lại huyệt rượu gò đang lụn dần tàn đóm, sèo sèo trên cỏ dầm. Vài con rắn cạp nong trườn từ hang ra, nuốt những tàn lửa đã nguội.
Cú rừng giờ mới rủ nhau đổ một hồi tan canh. Sáng hẳn rồi, mà cậu Lãnh chưa tàn bữa rượu giỗ. Cậu uống đến đâu, mồ hôi cứ theo chân tóc mà tuôn chảy. Rồi cậu cầm một lưỡi kiếm cũ, chạy ra vườn chuối, gặp cây nào là chém ngang vào thân cây ấy. Tiếng thân chuối ngã gục và tàu lá toạc rách, làm chấn động cả cái ấp ngái ngủ." (Nguyễn Tuân toàn tập , III, trang 63-64)
Đạt tới tuyệt đỉnh trong nghệ thuật sáng tối, Mê Thảo xuất hiện như một cái ấp ma ở vùng rừng thiêng nước độc mà người trại chủ, Lãnh Út, hóa dại, đã đoạn tuyệt với đời sống "văn minh" cơ khí, chỉ còn là một xác chết vật vờ sống, sau khi người vợ yêu quí tử nạn trong một tai nạn hỏa xa. Bá Nhỡ, người đầy tớ trung thành của Lãnh Út, muốn chủ "tục huyền" với đời sống bằng cách thoả mãn tất cả các ước muốn phi lý nhất của trại chủ. Cậu chủ chê rượu, thế là hỏng. Cậu chủ không nói, cấm khẩu rồi thôi hết nước chữa. Cậu chủ uống lại, thế là hồi sinh. Chẳng hay Bá Nhỡ có biết mỗi khi hắn - muốn "tục huyền" Cậu với cuộc đời - đào rượu cho Cậu uống là hắn lại đào mả chôn Cậu thêm một lần nữa bằng tình thương và lòng trung thành? Bởi những gò chôn rượu đã mang tên huyệt rượu, đám mả rượu đã là những tửu phần... Tất cả từ âm thanh đến hình ảnh, mầu sắc... đều gọi về máu, về cõi chết, và rượu, một chất lỏng vô tri trở thành đao phủ. Nhưng không chỉ có mình đao phủ rượu, Bá Nhỡ cũng là một thứ đao phủ, y giết Cậu của y bằng ý muốn hồi sinh trại chủ. Nhưng không chỉ có Bá Nhỡ, Lãnh Út uống rượu say, chạy ra vườn, xử tử thân chuối bằng lối chém treo ngành hệt như Bát Lê tập rượt trước khi khai đao án trảm: Lãnh Út chính là đao phủ của bản thân y. Bá Nhỡ và Rượu chỉ là những tay tòng phạm. Mà Lãnh Út cũng chưa phải là chính phạm. Đích phạm là Mợ Lãnh, người vợ chết yểu của chủ trại, nàng lơ lửng chỉ là "một bức tranh trung đường phong kín" , "ấy là một người đàn bà áo trắng đang ngồi chép sách trên một cái đôn mầu cốm, bên một khung cửa có mấy tàu lá chuối già lọt vào. Màu xanh tái của tranh gia thêm xa lạnh vào khí buồng rộng quạnh và đổ thêm buồn lên vẻ nhớ vợ của người ngắm tranh" (Nguyễn Tuân toàn tập , III, trang 50-51) . Mợ Lãnh là người hay ma? nàng không tên, chỉ để lại tập thơ di cảo và bóng hình kiều mỵ trên bức họa tuyệt vời: nàng là thơ, là họa? Có phải nàng đang sống trong vườn địa đàng thủa hồng hoang mê thảo, đột nhiên luồng tử khí "khoa học" ùa vào ngộ độc nàng? Lãnh Út, kẻ tài tử, chỉ đam mê có một nàng, khi nàng hóa người thiên cổ, Lãnh không còn lẽ sống, đâm cuồng, hóa dại. Vòng luân hồi giữa tài và tử đã vạch.
tiếpNhất thiết hữu vi Pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như thiểm diệc như điện
Ưng tác như thị quán
-
29-10-2010, 04:56 AM #3
Sống tức là đang chọn cái chết và cách chết. Mỗi hành động của con người xa gần đều dẫn đến cái chết. Hai anh em ông Đầu xứ, trong Báo oán, nổi tiếng học giỏi nhất vùng Nam, lều chõng đi thi với bao nhiêu hy vọng, nhưng âm hồn người đàn bà xõa tóc, ẵm con (được chánh chủ khảo mời vào trước), hiện trong lều để trả báo chuyện người cha ông Đầu xứ xưa kia đã thất đức với nàng, cha ăn mặn, con khát nước. Đới roi, nguyên thủy là cậu ấm Đái, con cụ Bố Nam, quất roi chầu lừng danh một thời trong chốn ăn chơi tài tử. Nhưng khi thất vận, không thể sống nhờ lòng thương hại của một giáo phường, chàng tự tử. Xác ngọc lam, là cái chết thơ mộng, đau thương và đầy ý nghĩa của vị Thần Dó, tục gọi là cô Dó, quê ở thượng ngàn, trót yêu người họ Chu làm giấy, nàng theo chồng xuống trung châu, ẩn thân trong phiến đá giúp chồng, nàng thổi cho giấy dó một linh hồn. Chồng chết, nàng giúp con cháu được năm đời, rồi bị lưu lạc vào tay phàm tục. Thần Dó chết, di hài nàng và đá biến thành ngọc, kẻ tục kia bèn đem bán "Xác Ngọc Lam". Thần Dó, linh hồn nghệ thuật làm giấy, nàng là ngọc tâm, khi sa vào tay kẻ ngu ngược, vụ lợi, tâm chết, ngọc trở thành vô dụng. Cái chết của ngọc lam như một bài thơ đánh tiếng cho bất cứ kẻ hành nghề nào nếu không cẩn thận đều có thể trở thành đao phủ của nghề mình: giết tinh thần nghệ thuật là tự diệt lẽ sống của mình. Bên cạnh xác thơ Ngọc Lam là xác rượu Bố Ô, vua lưu linh, một cái chết khác thường, chết rượu, chết cháy, xác cháy trong hơi rượu, cũng thơm, ngông như người: "Ngọn lửa xanh lè vờn lấy mình ông già đang say mềm. Xác Bố Ô nứt đến đâu là mùi thịt thui ấy thơm lừøng như mùi cá mực nướng bằng rượu không có chút gì là hôi khét cả. Và lúc mà lửa đã hoại xong cái xác kia thì cỗ xương ấy bệch ra như thạch cao ải vụn trông trắng nhỏ không khác gì thứ bột để luyện những hòn men. Ngửi cái vụn xương vô tự ấy, lại còn thấy thơm và ngây ngất nữa." (Rượu bệnh, Nguyễn Tuân toàn tập , II, trang 714- 715).
Chùa đàn chiếu vào cái chết của người nghệ sĩ. Muốn thực hiện kiệt tác, người nghệ sĩ phải lấy chính da thịt mình để nhào nặn nên tác phẩm nghệ thuật. Nhưng hành trình thác sinh trong nghệ thuật là một hành trình bí mật chứa chất những u uẩn luân hồi. Chùa đàn vừa giải vừa thắt những luân hồi ấy trong không gian huyền hoặc phi thực của đam mê mà cỏ cây cũng không thoát vòng mê thảo.
Nghệ thuật tuyệt đỉnh đồng nghĩa với ma thuật, trước tiên là cây đàn của Chánh Thú, một cây đàn ma:
"... ba sợi dây tiểu dây trung dây đại ở đàn đáy kế tiếp nhau mà cùng đứt. Một con đom đóm vờn bay trên cây đàn nhễ nhại mồ hôi. Trên nền tang đàn gỗ ngô đồng, có những đốm lân tinh lập loè. Cô Tơ lại gần nhìn mới biết đấy là máu của dây đàn đứt. Đầu các dây còn rung lên, ruột sợi tơ rỉ tuôn ra một thứ nước đặc sệt như máu con giời leo và xanh đục như ruột bọ nẹt. Chất ấy đọng thành giọt ở các đầu dây và loé tia xanh lạnh lên dưới cái sáng chờn vờn của lửa con đóm" (Chùa đàn, Nguyễn Tuân toàn tập , III trang 86). Là một tay đàn cự phách, xứng với tiếng hát tuyệt vời của cô Tơ, Chánh Thú chết, nhưng vẫn ghen với những kẻ dám bén mảng đến đàn cho vợ (cô Tơ) hát, Thú bèn "sai đàn" giết những tình địch tương lai và đó cũng là cách để tìm người thế mạng xuống âm ti đàn thay cho hắn tái sinh về trần. Bá Nhỡ, một tài tử khác, vì muốn cứu chủ, đã ba lần (tam cố thảo lư) cầu đến tiếng hát cô Tơ. Biết bí mật của cây đàn, Bá Nhỡ vẫn không sợ, vẫn muốn thử, muốn đạt, dù chỉ một lần, đến tuyệt đỉnh tiếng tơ với cây đàn ma.
Chùa đàn, dựng trên thiên tài của tác giả, tạo một buổi hoà nhạc chưa từng thấy mà các nghệ nhân đã toát xác để đạt tới cực điểm nghệ thuật:
"Bá Nhỡ thử dây, vặn trục đàn. Trục nghiến gắt và nấc dần mãi lên. Cần đàn ôm sát vào mặt, Bá Nhỡ ngửi thấy một mùi tanh tanh và gỗ đàn đã truyền sang lòng tay một chất nhờn sánh. Buông đầu gẩy xuống dây, đàn vẳng ngân một tiếng cuồng loạn. Và những đầu ngón tay phải - Bá Nhỡ đàn tay trái cũng như cầm đũa cầm bút - nhấn xuống dây đã ran lên những cảm giác buốt nhức. Bá Nhỡ chững chạc buông ba tiếng sòng.
Cậu Lãnh còn đang ly bì vội choàng dậy, cầm roi chầu đánh luôn mấy tiếng. Người cậu Lãnh chỉ còn ở hai cánh tay và hai cái tai, chứ cật và chân cứng đờ và mắt thì nhắm nghiền, cầm vểnh lên giời. Cô Tơ như mất hẳn hồn, cái tâm chỉ còn lên xuống theo với bực đàn. Gỗ bục dưới thân tan loãng đi đâu để cả người Cô Tơ phiêu phiêu lững lờ trôi mãi giữa không.
Chưa bao giờ Cô Tơ thấy rõ cái đau khổ ngậm ngùi của tiếng đàn đáy buổi này. Tiếng đàn hậm hực, chừng như không thoát hết được vào không gian. Nó nghẹn ngào, liễm kết cái u uất vào tận bên trong lòng người thẩm âm. Nó là một cái tâm sự không tiết được ra. Nó là một nỗi ủ kín bực dọc bưng bít. Nó giống như cái trạng huống than thở của một cảnh ngộ vô tri âm. [...]
Tiếng đôi lá con cỗ phách Cô Tơ dồn như tiếng chim kêu thương trên dậm cát nổi bão lốc. Nhiều tiếng tay ba ngừng gục xuống bàn phách, nghe tàn rợn như tiếng con cắt lao mạnh xuống thềm đá sau một phát tên. Tay phách không một tiếng nào là nhụt. Mỗi tiếng phách sắc như một nén dao thuận chiều. [...] Dưới mười ngón tay hoa múa dẻo quánh, tre trúc bật nẩy lên vì thoả thích. Đàn và hát dắt nhau mà lướt bổng. Cậu Lãnh Út mềm tay roi, càng mê tơi đi vì tơ trúc ríu ran. Chưa hồi tỉnh cuôïc rượu của ấp. Cậu lại tự bồi thêm trận rượu của đêm nhạc." Đàn ai đàn..." Nắn những đường gân ngang nó gò cong mình xuống đàn, nó day thịt da tê cóng trên dây sắc buốt như cật nứa, mấy đầu ngón tay Bá Nhỡ sưng vù và bật máu. Bá Nhỡ đang chịu một nhục hình bá đao tùng xẻo. Nghe phách Cô Tơ, ở những khổ rung thưa rồi mau, Bá Nhỡ say sưa trong cái nhận thức là mình đang chết dần giữa đàn hát và mỗi một tiếng trúc tiếng tơ đánh thêm lên là mình lại càng lả dần về cõi chết. [...]
Máu chảy ra nhiều quá. Toàn thân Bá Nhỡ đỏ ngòm. Áo quần màu trắng của Bá Nhỡ vụt trở nên vóc đại hồng, trông hệt một người phục sức để ăn thượng thọ. Người Bá Nhỡ đã là một cái vại đựng chất lỏng có nhiều chỗ rỏ rì. Máu trong cơ thể Bá Nhỡ cứ đều một dòng tuôn mà thấm lậu ra ngoài [...] Một tiếng đàn là một miếng thịt lẩy ra. Tí một, tiếng đàn đưa nhau về nơi vĩnh quyết. Tang. Tùng. Tùng! "...
Đoạn tam tấu trên đây viết toàn bằng âm trắc, mỗi thanh âm đánh lên nghe cứa sắc, day dứt như những tiếng nấc. Bá Nhỡ, kẻ dám đi đến tận cùng của nghệ thuật, kẻ xẻ gan thịt mình trong tiếng đàn, dùng mạng đổi lấy tiếng đàn, đã chịu cực hình tùng xẻo để tiếng đàn của mình đạt tới tuyệt đỉnh nghệ thuật. Bá Nhỡ đối lập với Bá Nha: Tiếng đàn Bá Nhỡ là tiếng đàn không tri kỷ, nói đúng ra là có tri kỷ nhưng tri kỷ ma, kẻ tri kỷ tình địch, một kẻ ở dưới âm ty đang chờ thế mạng. Chính Chánh Thú đã dẫn lối đưa đường cho cô Tơ, cho đàn, cho Bá Nhỡ. Biết trước nếu mình sòng lên ba tiếng trên cây đàn thờ Chánh Thú tức là tự ký vào bản án tử hình, nhưng Bá Nhỡ không cưỡng lại được. Buổi hợp tấu tay ba: tiếng đàn u hoặc của Bá Nhỡ, tiếng roi chầu mê sảng của Lãnh Út, tiếng hát và tiếng phách liêu trai của cô Tơ tạo nên một hợp âm điên mê, cuồng loạn pha trộn nghệ thuật, tình yêu, da thịt, ghen tuông, oan khiên và cái chết: da thịt của Bá Nhỡ trút ra tạo nên tiếng đàn, từ tiếng đàn tuyệt vời của Bá Nhỡ, đầu thai hai âm thanh mê hoặc: tiếng roi chầu của Lãnh Út hoà âm với tiếng phách trúc thần bí và những hạt châu lẩy trong tiếng ngâm của cô Tơ. Dàn nhạc trong trạng thái đồng thiếp, tấu khúc giao hưởng giữa tuyền đài và dương thế, dưới quyền điều khiển của một nhạc trưởng ma: hồn Chánh Thú đứng trên bàn thờ nấp sau bài vị cười sằng sặc một cách mãn nguyện.
Một năm sau, Mê Thảo mọc lên một ngọn chùa. Chùa đàn.
Hát trong phim Mê thảo
Nhất thiết hữu vi Pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như thiểm diệc như điện
Ưng tác như thị quán
-
29-10-2010, 03:42 PM #4
fan tiên sinh chắc cũng thích Ca Trù nên mới sưu tầm được bài này.
Giọng ca rất thanh mà không mất đi vẻ rầu rầu ảo não, hòa quện với tiếng đàn nhịp phách nghe rất bi ai !.
Hát Ca Trù mà không rõ lời thì cái hay giảm đi phân nửa.Lần sửa cuối bởi PhiHuong, ngày 29-10-2010 lúc 04:14 PM.
-
29-10-2010, 07:17 PM #5
@Bác Phi Huong Nhiều khi tôi thèm được sống vào giai đoạn mà cha ông mình đi hát cô đầu ở phố Khâm thiên quá ,mê cái giọng um hum của cô đầu và tiếng roi chầu riết ráu của dân chơi .Chả là bố tôi cũng mê hát cô đầu ,thuở bé lại hay đuợc nghe chuyện nên máu sênh phách cũng thấm vào lòng , post bài này lên lê thê quá nhưng biết có bằng hữu mình ghi nhận thưởng thức thế là thích rồi ,xin cảm ơn các bác
Lần sửa cuối bởi Fansifan, ngày 29-10-2010 lúc 07:21 PM.
Nhất thiết hữu vi Pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như thiểm diệc như điện
Ưng tác như thị quán
-
30-10-2010, 12:22 AM #6
-
30-10-2010, 12:33 AM #7
Chùa Đàn
Đánh dấu