Kết quả 1 đến 10 của 14
Chủ đề: Dịch Kinh
Threaded View
-
24-01-2011, 08:49 AM #1
Dịch Kinh
Có thơ rằng:
“Vạch liền, vạch đứt xoay vần
Thì ra Trời, Đất... có ngần ấy thôi.”...
Hai câu lục bát trên là nói về Kinh Dịch, một bộ sách tối cổ của người phương Đông. Sau đây xin được phép (lạm) bàn (một tí ti) về bộ sách ấy.
Kinh Dịch, hẹp thì bàn chuyện thăng, trầm của một kiếp người, cũng như kiếp cỏ cây, đồ vật, muông thú... Rộng ra tí nữa thì bàn chuyện thịnh, suy của một nhà, cũng như một dòng họ, một chòm xóm, một làng... Lại rộng thêm nữa thì bàn chuyện hưng, vong của một quốc gia. Cứ thế mà mở rộng thêm, nghĩa là có thể bàn đến việc trị, loạn của cả thiên hạ... Nếu cần thì (Dịch) chỉ ra một khoảnh khắc, một kiếp, một thời... Nếu cần nữa thì sẵn sàng chỉ ra cả trăm năm, nghìn năm, vạn năm... Lớn hay nhỏ, rộng hay hẹp, dài hay ngắn... không điều gì nằm ngoài những quy luật đã vạch ra trong bộ Kinh ấy.
Có thể mượn ngôn ngữ toán học để (tạm) hình dung cái “lý” ấy. Ví dụ đời người tất có lúc thăng, lúc trầm. Một “nhà” gồm có nhiều người, tức là cũng gồm cả những thăng, trầm ấy. Thăng, trầm của mỗi kiếp người có thể khác nhau. Nhưng gộp những thăng, trầm ấy lại, thể nào cũng có lúc cái này hoặc cái kia chiếm phần đa số, thể nào cũng có một “bội số chung”. Thế thì cái bội số chung kia của những thăng, trầm, sẽ chính là thịnh, suy của “nhà” ấy vậy. Cũng y như thế đối với một quốc gia. Một quốc gia gồm nhiều “nhà”, tức là cũng gồm cả những thịnh, suy ấy. Thế thì bội số chung của những thịnh, suy kia sẽ chính là hưng, vong của một quốc gia vậy. Cũng y như thế đối với cả thiên hạ. Cả thiên hạ gồm nhiều quốc gia, tức là cũng gồm cả những hưng, vong ấy. Thế thì bội số chung của những hưng, vong kia sẽ chính là trị, loạn của cả thiên hạ vậy.
Lại có thể thay những “thăng, trầm”; “thịnh, suy”; “hưng, vong”; “trị, loạn” trên bằng “hay, dở”; “mạnh, yếu”; “yên, nguy”; “thiện, ác”... kiểu gì cũng... đều như thế cả.
Để chỉ ra những điều vừa “ghê gớm”, vừa “giản dị” ấy, Kinh Dịch sau khi đã “vạch” xong cả trời đất, vũ trụ, nhân thế... chỉ bằng đúng hai thứ chữ cái không thể nào tối giản hơn (một vạch liền và một vạch đứt), thì bắt đầu căn cứ vào cái nhìn thấy để suy ra cái không nhìn thấy và ngược lại. Tương ứng với thời nào, khắc có “tượng” (cái nhìn thấy) của thời ấy, cũng đương nhiên có “lý” (cái không nhìn thấy) kèm theo. “Tượng” là “lý”, mà “lý” cũng là “tượng”. Xem “tượng” để biết “lý” và ngược lại, xem “lý” để biết “tượng”. Không thể nào khác được.
Ví dụ quẻ “TỈNH”. “Tỉnh” (tượng) là cái giếng nước. Thế là cứ xem cái giếng nó thế nào, thì “lý” của thời “Tỉnh” nó cũng như thế ấy. Thời “Tỉnh” bất biến và dửng dưng với mọi bể dâu. “Tỉnh” không mất gì, cũng không được gì, kẻ đến không mừng, kẻ đi chẳng tiếc. Đã là “giếng” thì múc lên không cạn bớt, rót xuống chẳng đầy thêm... “Tỉnh” (giếng) là một thứ vĩnh hằng. Làng có cái giếng dùng để lấy nước ăn, vừa ngọt vừa mát, quý lắm đấy. Nhưng đó là thứ tài sản duy nhất không thể mang đi được dù chỉ một bước chân. Làng có thể di dời, nhưng giếng thì ở lại. Đó là cái “lý” của tuyền quẻ. Còn ruột quẻ, thì từ đáy giếng lên tới miệng giếng, bắt đầu chỉ thấy bùn, dần dần lên tới miệng giếng là có thể thấy được gió thổi, nghe được chim hót, ngắm được trời xanh bao la... Ai đã từng lặn mò dưới đáy giếng, người đó mới cảm nhận hết sự sung sướng, nhẹ nhõm và trong lành tuyệt đỉnh lúc leo lên tới miệng. Kẻ lúc nào cũng ở trên miệng giếng, tất nhiên chỉ toàn thấy tầm thường, không bao giờ có được những cảm giác đó. Đáy giếng tối tăm vừa rập rình khí độc, vừa ngập ngụa hơi bùn, thậm chí còn làm con người ta chết ngạt. Nhưng nước đã múc lên đến miệng giếng rồi, thì cứ yên tâm mà uống, bởi bao giờ cũng chỉ ngọt mát mà thôi, khí độc kia đã lập tức không còn lại tí dấu vết nào. Hào “thượng lục” của quẻ “Tỉnh”, chính là chỉ cái thời khắc tuyệt vời nơi miệng giếng ấy, nơi chỉ cách cái chốn độc địa, chết người kia có vài sải tay. Đó là một hào “thượng” thuộc vào loại tốt nhất trong số những hào “thượng” của tuyền bộ Dịch.
Cuộc đời không thiếu gì những “miệng giếng” như thế. Nhưng chỉ có những ai vừa từ dưới “đáy giếng” chui lên, mới giác ngộ được cái thời khắc tuyệt đỉnh ấy nơi “miệng giếng” mà thôi. Và ý tưởng của một cuộc cải cách, muốn có sự thay đổi, ý tưởng làm cách mạng... cũng chính từ cái thời khắc có một không hai ấy mà sinh ra. Nên ngay sau quẻ “Tỉnh”, tiếp liền đến quẻ “Cách” (“cách” = cải cách, cách mạng...). Vừa ra khỏi thời “Tỉnh”, liền bước ngay vào thời “Cách”, không thể nào khác được. Ghê thật, Dịch quả nhiên đã thấy trước, tính trước và nhìn thấu cả thế thái nhân tình.(st)Bà kia tuổi sáu mươi rồi
Mà sao vẫn phải sầu ngồi bán khoai
Cụ kia tuổi bẩy mươi hai
Mà sao ong bướm mệt nhoài chán chê…
Dịch Kinh
Đánh dấu