Kủ tiên sinh có bài viết rất hay ! tóm lược nhiều tình tiết của nghệ thuật Ca Trù. Vài năm gần đây có một số sách khảo cứu về nghệ thuật này. Cái hay của bài hát nói là câu đầu tiên thường dùng thơ chữ, rồi sau mới là thơ nôm, tựa như song thất lục bát mà lại chẳng phải. Câu kết chỉ dùng sáu chữ ngắt ngang, nhưng vẫn kéo dài cái tình nhân thế miên man bất tận !. Toàn bài đa phần 11 câu rồi bỏ lửng ...
--------------------------------------


Hát cửa Đình

Tại đình làng, ngày lễ thành hoàng, lễ các vị thần có công với nước với dân đã được các triều đại phong tặng là ngày mở hội với quy mô rộng lớn, trọng thể. Ngày "thần đản" cũng như ngày "thánh đản", ngày sinh nhật vua chúa, được tổ chức phỏng theo nghi lễ của triều đình. Nghi lễ ấy được thể hiện trong hát cửa đình mà các giáo phường đã khai thác từ nghi lễ dân gian, do các ả đào trình diễn để tế thần và chúc tụng dân làng.

Hát Cửa Đình

Theo sử sách cũ, hát ả đào đã xuất hiện từ đầu thời Lý, vào thế kỷ thứ XI, khi kinh đô Thăng Long mới được thành lập. Bấy giờ ca nữ đều gọi là ả đào, và nhạc công là kép đàn. Đào kép của hát ả đào được đào tạo trong các giáo phường vừa là vườn ươm nghệ thuật vừa là tổ chức hành nghề. Trong hội làng tại các cửa đình, giáo phường cử các ả đào và kép đàn trình diễn ca múa nhạc để tế thần và chúc tụng mua vui giải trí cho dân làng. Từ đó hát cửa đình đã hình thành và phát triển ở khắp nơi nội ngoại thành Thăng Long, đáp ứng được yêu cầu thẩm mỹ của nhân dân trong những ngày hội, ngoài việc phục vụ nghi lễ. Hát cửa đình thường kéo dài cả ngày cả đêm, có khi suốt mấy ngày liền. Cho nên ngày xưa thường dùng thẻ làm bằng mảnh tre, để ghi điểm thưởng cho đào kép. Khi thưởng gõ tiếng "cách" vào tang trống chầu, rồi ném một thẻ. Hát xong cứ theo số thẻ thưởng mà lĩnh tiền. Do đó các ả đào hát ở cửa đình mà lĩnh thưởng bằng thẻ thì gọi là hát thẻ, theo chữ Hán, trù là thẻ, nên tục cũng gọi lối hát đó là ca trù. Những ngày hội hè đình đám, tế thần ở đình, ả đào vừa hát vừa múa, làm trò vui cho dân làng xem, nên lại có tên là hát nhà trò. Lúc ả đào chỉ đứng gõ sênh hát, gọi là hát gõ. Từ đó, ả đào nào có nhiều học trò, nghệ thuật bản thân đã lão luyện vào hàng đầu mới được mệnh danh là cô đầu (từ đó có tên gọi là hát cô đầu). Sau này, trong công chúng, danh từ ả đào và cô đầu thường bị gọi tràn lan không phân biệt.

Hát cửa đình Lỗ Khê :

Từ Hà Nội qua sông Đuống lên phía đông bắc chừng 30 cây số sẽ tới mảnh đất Lỗ Khê (Liên Hà, Đông Anh) vốn xưa có tên là Tổng Rỗ. Giáo phường Lỗ Khê là nơi còn giữ được gần như nguyên vẹn di tích và sinh hoạt của giáo phường xưa và cũng là nơi còn duy trì được nền nếp hát cửa đình. Đó là nơi thờ vợ chồng ông bà Đinh Dự - Đường Hoa, những người đầu tiên truyền bá nghề đàn phách ca múa, lập ra giáo phường Lỗ Khê và mở ra lối hát cửa đình truyền thống của Thăng Long - Hà Nội. Đinh Dự là con trai Đinh Lễ, tướng tài của Lê Lợi. Thần tích có ghi chép lại rằng: "Một hôm bà mẹ là Trần Minh Châu mộng thấy rắn xanh bò thẳng vào bọc bà, từ đấy bà có mang, tới ngày mùng sáu tháng tư năm Quý Tỵ (1413), bà sinh con trai, diện mạo khôi ngô, hình dung tuấn tú. Người con đó chính là Đinh Dự. Được theo cha trên đường diệt giặc Minh, dựng đồn trại tại Lỗ Khê, bấy giờ Đinh Dự đã 12 tuổi, học vấn tinh thông, xướng ca đàn phách giỏi hơn người. Nhân dịp vui xuân tại chùa Thiên Thai thuộc trang Đông Cứu, Gia Bình, Đinh Dự gặp một cô gái rất đẹp tên Đường Hoa Tiên Hải, vốn quê ở động Nga Sơn, Thanh Hóa, đang trên đường đi dạy hát các giáo phường. Hai người kết duyên và trở về Lỗ Khê mở giáo phường, truyền bá hát ả đào khắp vùng. Nhiều cô đào phường Lỗ Khê đi lấy chồng xa, tuy đã mở mang thêm họ ả đào ở đó, nhưng hằng năm vẫn trở về Lỗ Khê trong những ngày giỗ tổ.

Hát thờ Lỗ Khê :

Theo tục lệ xưa, giáo phường Lỗ Khê làm lễ tế tổ sư tại đền thờ Ca công vào ngày sinh và ngày hóa của hai ông bà Đinh Dự (mồng sáu tháng tư và 13 tháng mười âm lịch). Hát thờ tổ khác với hát thờ thành hoàng làng ở đình là lúc mở đầu buổi lễ, đào kép phải ngâm hai khúc Nộn Mai (gọi nôm là Non Mai) và khúc hát Hồng Hạnh mà ngoài ra không bao giờ được hát ở bất cứ cửa đình nào khác. Non Mai do kép ngâm từng tiếng một, đào ngâm lại. Hồng Hạnh do đào ngâm. Kế tiếp là hát giai, trong đó có các làn điệu đặc sắc như hát ru huê tình (rút từ hát xẩm). Ba mươi sáu giọng là một khúc hát liên hoàn, chuyển điệu đủ năm cung bậc khác nhau, chuyển sang mọi thứ giọng: sa mạc, bồng mạc, xướng tế, đò đưa, huê tình, trống quân, nói sử, sai lên đồng, kể chuyện, thổng thiên thai, hát cách, chầu văn, hãm, tỳ bà, cung bắc, dựng tỳ bà... và kết thúc bằng giọng cung huỳnh. Tất cả các giọng hòa hợp thành thể thống nhất có sức gợi cảm diệu kỳ. Những buổi hát thờ thật là náo nhiệt, tưng bừng, tràn đầy không khí say sưa nghệ thuật, chan chứa ân tình, ngưỡng mộ tổ sư.

Theo địa chí văn hóa dân gian Thăng Long Đông Đô Hà Nộii.

(sưu tầm).