Kết quả 11 đến 19 của 19
Chủ đề: Mặt Thẹo
-
03-04-2011, 12:22 AM #11
Capone rất dại dột khi làm việc đó. Đúng là McSwiggin chết cùng với những tên bán rượu lậu, nhưng công chúng tỏ ra rất thông cảm với anh. Vậy là cả thành phố dấy lên một phong trào chống lại Capone.
Giới tội phạm Chicago biết rõ Al Capone là người có trách nhiệm trong vụ này, song cảnh sát không tìm được chứng cứ nào có thể kết tội hắn. Họ chỉ còn cách trả đũa Al bằng những cuộc truy quét các nhà chứa và quán rượu.
Capone biến mất. Gần 300 thám tử tham gia tìm kiếm hắn trên toàn nước Mỹ, tại Canada và cả ở Italy. Thực tế là Capone đã tìm ra chỗ ẩn nấp với một người bạn tại Chicago và sau đó ở chỗ một người bạn khác tại Michigan.
3 tháng hè trôi qua mà không có tin tức gì đáng kể về Al. Người ta bắt đầu nhìn hắn bằng con mắt khác: hắn không chỉ là một gangster đã thành công mà còn là nhà tài trợ hào phóng của cộng đồng Italy, một người chuyên làm phúc cho người khác. Những hoạt động bất hợp pháp giúp cho hàng nghìn người có việc làm, trong số đó có nhiều người Italy nhập cư. Dù phần lớn việc cứu trợ người nghèo của Al có nguồn gốc từ sự tự mãn cá nhân, song thực sự Capone đã có công phần nào đó trong việc đóng góp cho phúc lợi xã hội ở cộng đồng nơi hắn sinh sống. Thêm vào đó, thực sự hắn đã nghĩ tới chuyện “về hưu”, từ bỏ thế giới tội phạm đầy bạo lực giết chóc.
Biết rằng không thể lẩn trốn mãi, Capone lên một kế hoạch khá nguy hiểm. Hắn quyết định thảo luận việc ra đầu thú với cảnh sát Chicago. Đó là bước đầu tiên trong để quay về cuộc sống lương thiện mà hắn thèm muốn. Sau đó hắn sẽ tìm cách bác bỏ lời cáo buộc về sự dính líu trong các vụ giết người. Hắn sẽ dùng số tiền khổng lồ tích cóp được để mua chuộc, dụ dỗ những nhân viên của bộ máy pháp lý. Và cuối cùng khi trắng án, hắn sẽ trở thành người anh hùng của cộng đồng người Italia nhập cư.
Ngày 28/7/1926, Capone quyết định ra đầu thú để trả lời các câu hỏi về cái chết của McSwiggin. Đó là một quyết định khôn ngoan vì cho tới lúc đó, cảnh sát vẫn chưa có chứng cứ nào để kết tội hắn. Sau tất cả những áp lực mà cộng đồng dân cư - những người mang ơn hắn, và nỗ lực của các quan chức cảnh sát bị mua chuộc, Capone được tự do.
Trong vai mới của kẻ kiến tạo hoà bình, hắn tìm cách nối quan hệ với Hymie Weiss, dù rằng tên này đã từng có âm mưu ám sát hắn. Al đề nghị dành cho Hymie một phần thị trường béo bở để đổi lại sự yên bình và an toàn cho bản thân mình. Nhưng Weiss từ chối lời đề nghị hấp dẫn đó. Hôm sau, Weiss bị bắn hạ khi mới có 28 tuổi.
Weiss bị bắn ngay trán
Người dân tại Chicago đã chán ngấy các vụ bạo lực giữa các băng nhóm tội phạm, và thông tin của báo chí càng làm họ rất công phẫn. Thấy trước tình huống này, Capone tổ chức một “hội nghị hoà bình” giữa những kẻ chuyên buôn bán rượu lậu. Hắn đề nghị giảm bớt căng thẳng giữa các băng nhóm và chấm dứt dùng bạo lực để giải quyết mâu thuẫn. Hắn nói: “Có quá nhiều việc để chúng ta làm thay vì cứ giết lẫn nhau như những con vật. Tôi không muốn chết gục trên vỉa hè, người dính toàn đạn”. Và hắn đã thành công, cuộc họp kết thúc với việc thành lập một ban điều hành chung cho những tên tội phạm. Có hai điểm nêu ra trong “cương lĩnh” của lũ kẻ cướp: Thứ nhất, sẽ không có các vụ bắn giết nữa, và thứ hai, không được phép trả thù cho những tên gangster đã chết. Trong suốt 2 tháng sau hội nghị, những băng nhóm tại Chicago đã biết giữ lời, không có thêm xác chết nào trên đường phố.
Mọi chuyện ổn định cho tới tháng 1/1927, khi người ta tìm thấy xác của Theodore Anton, biệt danh “Tony-Hy lạp”, bạn thân nhất của Capone. Cái chết gây cho Al cảm giác bất ổn. Hắn hiểu đã đến lúc phải “rửa tay gác kiếm”. Hắn mời một nhóm nhà báo tới dùng bữa tối tại một nhà hàng để thông báo với họ quyết định của mình. Al thật sự nghiêm túc hay là đang diễn trò? Không ai biết chắc câu trả lời. Người ta đoán hắn không muốn chết với một viên đạn ghim vào đầu, nhưng sự khao khát quyền lực và phiêu lưu của hắn đã khiến cho quyết định trên bị lùi lại rất lâu trong thực tế.
Thị trưởng Chicago Denver bất lực trước nạn tội phạm. Trong lúc đó, nhờ sự hậu thuẫn của nhiều vị tai to mặt lớn trong giới tội phạm, “Big Bill” Thompson giành lại được chiếc ghế thị trưởng trong cuộc bầu cử năm 1927. Người dân lương thiện lo rằng cả thành phố sẽ mãi mãi là trong vòng kiểm tỏa của bọn gangster.
Năm 1927, Toà án Tối cao Mỹ quyết định đánh thuế và truy thu với trùm rượu lậu Manny Sullivan. Điều luật mang tên hắn được chính quyền liên bang đưa ra tạo điều kiện cho cảnh sát, cụ thể là thám tử Elmer Irey, theo dõi và điều tra mọi hoạt động kinh doanh của Al Capone.
Không hề biết, và cũng chẳng thèm quan tâm tới "đồng nghiệp" Manny Sulivan cũng như đối thủ Elmer Irey, Capone đã lấy lại được sự tự tin thường ngày. Hắn giải trí với hai sở thích là âm nhạc và đấm bốc, rồi trở thành bạn của nhà vô địch quyền anh thế giới Jack Dempsey. Nhưng mối quan hệ của họ được giữ trong vòng bí mật bởi có những cuộc đấu được dàn xếp mà cả hai dính vào. Al rất thích nhạc Jazz. Cùng lúc khai trương quán nhạc Jazz Câu lạc bộ Cotton tại Cicero, Al trở thành người sản xuất. Hắn phát hiện và tham gia đào tạo cho hàng loạt ca sĩ nhạc Jazz da đen nổi tiếng trong thời kỳ đó. Khác với những tên gangster cùng thế hệ khác, Al là người không phân biệt chủng tộc và hắn rất được các nhạc sĩ người da màu kính trọng. Capone luôn tỏ ra hào phóng với mọi người làm việc cho mình, không kể màu da.
Hắn không bao giờ áp bức, hành hạ hay đánh đập người khác, mặc dù luôn đe doạ sử dụng các hình phạt khốc liệt. Hắn chủ yếu khơi dậy niềm hứng khởi ở tay chân mình. Khi làm được điều đó, hắn có được sự trung thành của họ. Với hắn, sự trung thành của đàn em là điều quan trọng, cốt yếu nhất trong việc duy trì sự trị vì của mình. Hắn luôn thích nghe lời tuyên bố hắn là bạn của họ, vì như thế có nghĩa là người nói câu đó không coi thường những việc làm và tiếng tăm nhơ nhớp của hắn.
Al Capone từng phát biểu với giới báo chí: “Phục vụ công chúng luôn là mục tiêu của tôi. Có tới gần 90% dân Chicago suốt ngày chơi đùa và uống rượu. Tôi cố gắng cung cấp cho họ đủ số rượu chất lượng cao và những trò chơi vui vẻ. Trong khi đó, tôi lại không được coi trọng chỉ vì tôi giàu có”.Lần sửa cuối bởi Lão Khoai, ngày 03-04-2011 lúc 12:26 AM.
Bà kia tuổi sáu mươi rồi
Mà sao vẫn phải sầu ngồi bán khoai
Cụ kia tuổi bẩy mươi hai
Mà sao ong bướm mệt nhoài chán chê…
-
03-04-2011, 11:49 AM #12
Dấu vết tội lỗi
6. Phần 6
Từ khi quay trở lại Chicago, Al luôn bị 6 cảnh sát theo sát, và họ luôn sẵn sàng rút súng khi có chuyện. Những người này được lệnh phải làm cho cuộc sống của Al khó chịu tới mức tối đa. Họ lượn qua lượn lại trước cửa nhà hắn và bất cứ chuyện gì xảy ra, dù lớn dù nhỏ, cũng đều yêu cầu hắn tới trụ sở cảnh sát trình diện.
Quá mệt mỏi, Capone rời khỏi Chicago để tới Miami, nơi có khí hậu dễ chịu hơn. Nhưng sự đón tiếp mà hắn nhận được từ phía chính quyền sở tại cũng chẳng có gì "nồng hậu" hơn. Hắn, Mae và Sonny thuê một căn nhà lớn trong mùa đông năm đó và bắt đầu tìm kiếm nơi định cư chính thức. Qua trung gian nhà đất, Al mua căn nhà 14 phòng kiểu Tây Ban Nha tại số 93 đường Palm Island. Trong nhiều tháng sau đó, hắn sửa chữa lại căn nhà, biến nó thành một pháo đài nhỏ có tường bằng bê tông và những cánh cửa gỗ nặng chịch.
Khu vực Palm Island rơi vào tầm ngắm của thám tử Elmer Irey. Ông giao nhiệm vụ điều tra tài chính của Al cho Frank J. Wilson. Đây là một công việc khổng lồ vì mọi khoản tiền lớn của Al đều đi qua một người thứ ba giấu mặt. Và dù rằng hắn rất giàu, tất cả các khoản thanh toán hay chuyển nhượng đều được thực hiện bằng tiền mặt. Chỉ có một ngoại lệ duy nhất đó là khoản tiền dùng để mua ngôi nhà ở Palm Island. Nó là bằng chứng cho một nguồn thu vô cùng lớn của Al.
Cùng lúc đó, George Emmerson Q. Johnson được bầu làm Tổng chưởng lý Chicago. Ông tập trung hết sức lực của mình tấn công thế giới ngầm của Capone. Cuộc bầu cử, bắt đầu từ tháng 4/1928, xảy ra nhiều cuộc bạo lực vượt khả năng kiểm soát của cảnh sát. Nạn nhân của bạo lực không còn là bọn gangster, mà là chính khách. Như chính trị gia Johnson đã bị ám sát bằng bom, và những người khác như thượng nghị sĩ Charles Deneen, một quan tòa và là một nhà cải cách cũng từng bị đe dọa tính mạng.
Thị trưởng Bill Thompson, kẻ tham nhũng hạng nặng, giờ phải chịu áp lực nặng nề vì trong số người bị giết, có một nạn nhân là đối thủ của ông ta trên trường chính trị. Và Al Capone, dù lúc đó đang ở Florida, vẫn trở thành kẻ giơ đầu chịu báng.
Trong khi Mae Capone lo việc trang trí lại căn nhà, thì Capone lo lót để trở thành công dân của Miami. Dù bên ngoài có vẻ là một người gương mẫu, Al vẫn phải đối mặt với nhiều vấn đề do ông chủ cũ của hắn, Frankie Yale, gây ra. Các hợp đồng mua bán rượu thường xuyên bị đánh cắp, và Al nghi ngờ Yale đứng đằng sau những vụ ấy. Hắn yêu cầu 6 người cộng tác với mình tới Chicago để bàn bạc chuyện mua bán rượu lậu có liên quan tới Yale.
Buổi chiều ngày 1/7, Frankie Yale với mái tóc đen dưới chiếc nón Panama rộng vành, mặt bộ complet màu xám nhạt, đang uống rượu tại một quán bar ở Borough Park, thì đột nhiên có điện thoại gọi tới. Ngay sau đó, hắn vội gác máy và đi ra xe của mình đỗ cách đó không xa. Chỉ vài phút sau, tại một ngã rẽ nhỏ trên đường số 44, một chiếc xe 4 cửa màu đen chặn xe của Yale lại. Một cơn mưa đạn từ đủ loại súng: côn xoay, tiểu liên tự động... trùm lên người hắn. Vụ giết người đánh dấu lần đầu tiên một tên gangster New York bị thanh toán bằng tiểu liên Tommy.
Trong suốt mùa hè năm 1928, Capone đóng trụ sở tại khách sạn Lexington. Hắn chiếm nguyên hai tầng lầu như thể một nhà độc tài. Có những cánh cửa bí mật được đặt trong nhà để cho hắn rời khỏi đó một cách an toàn.
Rõ ràng là đối với Capone, luật cấm nấu và bán rượu không thể kéo dài mãi. Đó là lý do vì sao hắn thay đổi các hoạt động truyền thống của mình. Một tờ báo về kinh tế của Chicago cho rằng vào thời gian đó, Al là ông chủ của một hiệp hội các doanh nghiệp kinh doanh bất hợp pháp. Dù cho hắn là người như vậy hay là một tên giết người chuyên nghiệp, thì thủ đoạn của hắn vẫn không hề thay đổi. Hắn sẽ cho người ném vài viên gạch vào cửa sổ của một gia đình nào đó, hoặc sai thủ hạ sát hại vài nhân mạng, rồi sau đó tập hợp một số doanh nghiệp để lập thành một “hiệp hội tự bảo vệ”. Bước tiếp theo, Al có thể thu bất kỳ mức phí nào mà hắn thích. Hắn còn đặt ra luật lệ về giờ đi làm và tiền lương của những nhân công trong các doanh nghiệp đó. Bất kỳ doanh nghiệp nào từ chối nộp tiền hoặc chấm dứt việc nộp tiền bảo hộ cho hắn đều sẽ bị cảnh cáo, nhẹ thì bị đánh đập, nặng thì có án mạng.Bà kia tuổi sáu mươi rồi
Mà sao vẫn phải sầu ngồi bán khoai
Cụ kia tuổi bẩy mươi hai
Mà sao ong bướm mệt nhoài chán chê…
-
03-04-2011, 11:49 AM #13
Capone lại gặp kẻ thù cũ, Bugs Moran. Moran đã hai lần tìm cách sát hại Jack McGurn, bạn và đồng nghiệp của Capone. Khi Capone đi nghỉ đông tại Miami, Jack đã tới thăm hắn để thảo luận về vấn đề Bug Moran và về băng đảng của mình tại phía bắc. Và chúng quyết định tiêu diệt tên điên khùng này. Cả McGurn và Capone đều không nhận ra rằng, việc giết Bugs Moran có thể gây nhiều tai tiếng kéo dài cho tới hàng chục năm sau.
Bọn chúng suy đoán, sẽ không có ai phát hiện ra hung thủ, vì lúc đó, Capone đang nghỉ tại Florida. McGurn được giao quyền điều hành vụ tấn công. Hắn tập hợp một êkíp các cao thủ ám sát Chicago, gồm: Fred “sát nhân”, Burke, James Ray - một tay súng khét tiếng, John Scalise và Albert Anselmi - hai tay súng đã tham gia vụ thanh toán Frankie Yale, Joseph Lolordo và hai tên đâm thuê chém mướn đến từ Detroit, Harry và Phil Keywell. Kế hoạch mà McGurn đưa ra khá sáng tạo. Một tên gangster sẽ mời các thành viên của nhóm Moran tới gặp tại một garage ôtô để đưa ra đề nghị về việc mua bán rượu với giá khá hời. Việc giao hàng diễn ra lúc 10h30' ngày 14/2. Thủ hạ của McGurn sẽ mặc đồ cảnh sát tới chỗ giao hàng và ra tay để không ai có thể ngờ rằng đó là một vụ thanh toán. McGurn, noi gương Capone, tránh xa địa điểm xảy ra án mạng. Trong lúc sự việc xảy ra, hắn sẽ ở một phòng trong khách sạn với những người khác để tạo ra chứng cứ ngoại phạm cho mình.
Tại garage, hai anh em Keywell nhận ra một người trông giống như Bugs Moran. Bọn chúng liền ăn mặc giả cảnh sát và lái chiếc ôtô của cảnh sát mà chúng ăn cắp được vào garage như thể đó là một cuộc bố ráp của cảnh sát. Trong garage có tất cả 7 người, bao gồm cả anh em Gusenberg - những kẻ từng tham gia vào các vụ ám sát hụt McGurn.
Những tên buôn rượu lậu, tưởng rằng bị cảnh sát bủa vây, ngoan ngoãn úp mặt vào tường. 4 tên sát thủ trong các bộ đồ cảnh sát xả súng máy vào lưng chúng. Tất cả đều chết, trừ Frank Gusenberg vẫn còn thở.
Lúc đó, có khá nhiều người hiếu kỳ kéo đến xung quanh khu vực hiện trường. Hai tên sát thủ mặc áo mưa tạo ra hoàn cảnh giả bằng cách bước ra khỏi khu nhà, tay giơ cao trên đầu và để cho hai “cảnh sát” mặc đồng phục bắt đi trước sự chứng kiến của những người dân quanh đó.
Vụ giết người khá hoàn hảo, trừ một điều duy nhất: Moran, cái đích của vụ ám sát, vẫn còn sống vì hắn không hề có mặt trong số những người xuất hiện ở garage. Moran đến chỗ hẹn muộn vài phút và khi nhìn thấy xe cảnh sát, hắn đã nhanh chân trốn. Sau khi những kẻ giết người rời khỏi hiện trường không lâu. Cảnh sát tới ngay hiện trường và đếm được 22 vỏ đạn. Họ hỏi người còn thoi thóp thở trong số các nạn nhân: “Ai đã bắn?”. Hắn thều thào trả lời: “Chẳng có ai bắn tôi cả”.
Không khó khăn gì, giới giang hồ đoán ra ngay mục tiêu của vụ tấn công là Bugs Moran, và kẻ hưởng lợi trong vụ này, nếu nó được thực hiện một cách hoàn chỉnh và thành công, chính là Al Capone. Dù Capone lúc đó đang ở Florida còn McGurn thì có một chứng cứ ngoại phạm chắc chắn, cảnh sát và cư dân của Chicago đều hiểu cặp bài trùng này là thủ phạm. Song họ không thể bắt giữ chúng vì không đủ chứng cứ.
Ảnh hưởng của vụ thanh toán được tính toán kỹ này thật kinh khủng. Nó vượt qua ranh giới của một xì căng đan ở địa phương và thu hút sự chú ý của cả nước Mỹ. Các nhà văn và nhà báo bắt đầu viết về Al Capone. Tác giả Bergreen viết: “Chưa có tên tội phạm nào giống như Capone. Hắn là kẻ lịch lãm, thuộc tầng lớp thượng lưu trong xã hội. Hắn là người rất trơ tráo, tiếp tục sống trong thế giới của những kẻ giàu có, tiếp tục thể hiện tình yêu với gia đình mình. Hắn đóng vai của một nhà triệu phú có khả năng dạy cho các doanh nhân kinh doanh chứng khoán tại Wall Street những bài học về kinh doanh tại Mỹ. Không ai là không biết đến hắn”.Bà kia tuổi sáu mươi rồi
Mà sao vẫn phải sầu ngồi bán khoai
Cụ kia tuổi bẩy mươi hai
Mà sao ong bướm mệt nhoài chán chê…
-
04-04-2011, 02:37 AM #14
Hành Quyết
7. Phần 7
Tôi ra lệnh, tất cả lực lượng cảnh sát Liên bang theo dõi thật kỹ ông Capone và những mối liên hệ của ông ta”, Tổng thống Mỹ lúc ấy là Herbert Hoover đã phải phản ứng như vậy trước sự tự mãn của Al Capone.
Capone đánh giá cao danh tiếng của bản thân, nhất là sau vụ vừa xảy ra. Hắn yêu cầu Damon Runyon làm thư ký báo chí cho mình. Dù sao thì công luận cũng không thể bỏ qua hành vi tự mãn của một tên tội phạm trắng trợn như hắn.
Đầu tháng 3 năm 1929, Tổng thống Hoover yêu cầu Andrew Mellon, lúc đó làm thư ký của kho bạc Mỹ, đưa Al Capone vào danh sách những kẻ cần điều tra. Tổng thống muốn nhìn thấy Capone vào tù. Sau đó vài ngày, Al bị triệu tập tới toà án tại Chicago. Cho đến lúc ấy hắn dường như chưa nhận ra rằng cảnh sát đã tập hợp được những chứng cớ có giá đến mức nào. Với hắn, một việc quan trọng phải làm hơn việc đến nghe thẩm vấn tại toà là xử lý những kẻ có dấu hiệu phản lại mình.
Nhà văn Kobler mô tả trong tác phẩm của mình sau này như sau:
Al hôm nay rất vui vì mời được 3 vị khách quý tới nhà ăn tối. Hắn chuẩn bị một bữa thịnh soạn với rượu vang và những thức ăn ngon lành. Ngồi ở đầu bàn, Capone không ngớt chúc tụng: "Nào, chúc mừng Scalise! Chúc mừng, Anselmi! Chúc mừng, Giunta!"
Đến sau nửa đêm, khi miếng bánh cuối cùng đã hết và giọt rượu vang cuối cùng đã được dốc tuột vào cuống họng lũ người háu đói, Capone đẩy ghế ra sau và từ từ đứng dậy khỏi bàn. Một không khí im lặng đáng sợ bao trùm lấy phòng ăn. Nụ cười của hắn biến mất. Không ai còn cười nữa trừ 3 vị khách no nê đang phải nới lỏng thắt lưng sau một bữa “thả giàn”. Sự im lặng tăng dần, làm các vị khách quý phải ngừng miệng cười. Họ đảo mắt dáo dác nhìn quanh trong khi Capone đang trừng trừng nhìn về phía họ.
Những từ mà Al ném ra chắc nịch như đá: “Làm sao chúng mày có thể nghĩ rằng tao lại không biết gì? Làm sao chúng mày lại cho rằng tao có thể bỏ qua cái lỗi lớn mà tao chưa từng tha thứ là sự phản bội?”.
Capone là kẻ thích làm theo lối truyền thống, cứ đãi khách trước rồi hành quyết sau. Các vị khách Sicilia không làm cách nào tự vệ được, lần lượt để mặc bộ hạ của Capone trói gô vào ghế. Capone đứng dậy, thong thả cầm một cây gậy đánh bóng chày, lững thững bước tới chiếc ghế của vị khách đầu tiên. Dừng lại, từ phía sau, bằng cả hai tay, Al giơ cao chiếc gậy và đập xuống lưng vị khách bằng tất cả sức lực của mình. Từ từ và có phương pháp, hắn đập nát xương vai, xương tay và xương ngực của vị khách quý. Hắn bước tiếp đến sau ghế của vị thứ hai, rồi tới vị thứ ba... Cuối cùng, một trong các vệ sĩ của Capone kê súng lục vào gáy của từng người và bóp cò...
Mellon, người dẫn đầu cuộc chiến chống lại Capone, đã áp dụng phương pháp tiếp cận trên cả hai mặt trận: tiếp tục thu thập đầy đủ các bằng chứng về hành vi trốn thuế của Al và việc hắn phạm luật cấm nấu và bán rượu. Một khi các chứng cứ đã được tâp hợp đầy đủ, các nhân viên của Kho bạc sẽ trình cho Tổng Chưởng lý Georges E.Q. Johnson và yêu cầu ông này ra lệnh bắt Capone cùng một số nhân vật chủ chốt trong mạng lưới tổ chức của hắn.
Người có nhiệm vụ thu thập đầy đủ các bằng chứng phạm luật cấm nấu, bán rượu của Al Capone là Eliot Ness. Anh ngay lập tức thành lập một đội điều tra gồm nhưng người trẻ tuổi, tràn đầy nhiệt huyết như mình trong công tác chống tội phạm. Người nhiệt thành nhất trong số đó là Elmer Irey, thám tử của đội điều tra hình sự. Irey sẵn sàng thực hiện mọi mệnh lệnh mà Tổng thống Hoover đề ra.Bà kia tuổi sáu mươi rồi
Mà sao vẫn phải sầu ngồi bán khoai
Cụ kia tuổi bẩy mươi hai
Mà sao ong bướm mệt nhoài chán chê…
-
04-04-2011, 02:37 AM #15
Lúc đó, Mellon vẫn còn lo rằng chưa thể kết tội Capone về tội phạm luật cấm nấu, bán rượu, nhưng ông tin chắc rằng có thể kết Capone về tội trốn thuế thu nhập.
Ít nhất là vài tháng sau đó, Capone không hề biết rằng cảnh sát toàn liên bang vẫn đang tiếp tục cuộc chiến với hắn. Tháng 5/1929, Capone bắt đầu tham gia vào “hội nghị” của gangster toàn nước Mỹ, thảo luận về việc hợp tác nhằm khôi phục những món lợi đã mất trong thời gian qua do sự tấn công của cảnh sát.
Để giảm bạo lực và bắn giết giữa các băng nhóm xuống mức tối đa, chúng đồng ý chia các bang của Mỹ ra thành các vùng ảnh hưởng riêng. Torrio được bầu làm lãnh đạo của “uỷ ban điều hành”, trọng tài phân xử các vụ việc và là người thi hành hình phạt với những kẻ phản bội. Các đại biểu tham gia phiên họp cũng quyết định yêu cầu Capone để lại cho Torrio một phần mảnh đất làm ăn hiện tại của hắn. Tuy nhiên, cuộc thảo luận gặp trở ngại, Capone không hề muốn từ bỏ vương quốc của mình hay chia xẻ nó với ai.
Sau cuộc họp, Capone tới xem phim tại Philadelphia. Khi cuốn phim kết thúc, hai thám tử của cảnh sát đã bám sát hắn. Trong khoảng vài giờ sau đó, Capone đã bị bắt vì tội mang vũ khí theo người.
Khi bị bắt, Capone tháo ngay chiếc nhẫn cưới của mình và đưa cho luật sư riêng để ông ta đưa lại cho anh trai hắn là Ralph. Thời gian đầu, hắn bị giam tại nhà tù Holmesburg, sau đó đến nhà trừng giới Eastern và hắn ở lại tại đó cho đến ngày 16/3/1930. Ralph, Jack Guzik và Frank Nitti, những người thân cận nhất của Capone bị toà án đưa ra xử vì các tội làm ăn gian lận trong thời gian này.
Cú đánh thứ hai vào tổ chức của Capone là việc bắt Ralph vào tháng 10 cùng năm đó về tội trốn thuế. Để cảnh cáo các băng nhóm xã hội đen khác, cảnh sát đã bắt Ralph ngay tại một trận đấu quyền anh và giải hắn đi với chiếc còng số 8. Vụ bắt giữ làm tăng thêm quyết tâm của Elmer Irey, người đã điều tra Ralph trong nhiều năm trước đó.
Ralph kém anh trai mình trong việc che dấu trước các nhà điều tra số tài sản kếch sù mà hắn có được. Kho bạc Liên bang Mỹ và Eliot Ness tập trung vào việc khai thác hắn. Điện thoại của Ralph bị nghe lén. Nels Tessem, nhân viên điều tra về tài chính cuối cùng đã lần ra được những vụ chuyển tiền mà Ralph thực hiện. Nitti và Guzik sau những vụ điều tra về tài chính cũng đã phải ra hầu toà về tội trốn thuế.
Ness thấy đã đến lúc phải chứng tỏ với Toà Đại hình Mỹ rằng Capone đã vi phạm luật cấm nấu và bán rượu. Ông yêu cầu các nhân viên của mình tiếp tục nghe lén điện thoại của Ralph. Tất cả những chứng cứ mà Ness thu lượm được cho phép ông ra lệnh đóng cửa quán South Wabash, thuộc sở hữu của Al Capone. Và liên tiếp sau đó, ông đóng cửa các nhà chứa khác của hắn.
Giữa tháng 3 năm 1930, Capone được tha vì “xử sự tốt”. Một tuần sau đó, ông Frank J. Loesch lãnh đạo Ủy ban chống tội ác Chicago đưa ra danh sách những tên tội phạm nguy hiểm nhất. Đứng đầu trong đó là Alphonse Capone, Ralph Capone, Frank Rio, Jack McGurn và Jack Guzik. Danh sách được tập hợp bởi các nhà báo và được Tổng thống J. Edgar Hoover duyệt giống như danh sách những kẻ bị truy nã gắt gao nhất của FBI.
Từ đây, Al Capone chính thức trở thành “Kẻ thù số 1 của công chúng”. Sự sỉ nhục đối với Al lần này thật lớn, hắn hầu như không còn gì nữa trong mắt người dân Mỹ.Bà kia tuổi sáu mươi rồi
Mà sao vẫn phải sầu ngồi bán khoai
Cụ kia tuổi bẩy mươi hai
Mà sao ong bướm mệt nhoài chán chê…
-
04-04-2011, 07:14 AM #16
Vào Rọ
8. Phần 8
Trong thời gian đó, Elmer Irey tới Chicago gặp Arthur P. Madden và củng cố lại một lần nữa kế hoạch mà họ vạch ra. Để thắng về mặt pháp lý, họ phải thâm nhập vào tổ chức của Al Capone và tìm ra sơ hở của hắn.
Trước khi trở lại Washington, Irey dành ra 2 ngày nghỉ tại khách sạn để đi bộ trong hành lang khách sạn Lexingcon và suy nghĩ, sau cùng ông quyết định cho 2 cảnh sát thâm nhập tổ chức của Al Capone. Lựa chọn đầu tiên của ông là Michael J. Malone, một diễn viên thượng thặng, có khả năng làm một người đa nghi đến đâu cũng phải tin vào mình. Anh có thần kinh bằng thép và rất giỏi hoá trang. Thêm vào đó, Malone có vẻ bề ngoài của người Địa Trung Hải, kiến thức khá sâu về nước Ý khiến anh trở thành một ứng cứ viên lý tưởng cho việc thâm nhập vào tổ chức của Capone.
Malone, dưới cái tên De Angelo, và một mật vụ khác là Graziano được cảnh sát "khoác" lên lý lịch bất hảo của hai tên gangster. Họ phải làm việc một cách cẩn trọng vì chân tay của Capone không thiếu gì người có khả năng lần ra gốc tích của hai viên cảnh sát. Ngoài ra, tham gia trong vụ này còn có Frank J. Wilson, 43 tuổi, làm trung gian đưa tin cho De Angelo và Graziano với cảnh sát.
Tháng 6 năm 1930, Wilson thẩm vấn một phóng viên của tờ Chicago Tribune là Jake Lingle, người có quan hệ với Al Capone. Lingle muốn có thật nhiều tiền càng tốt từ các mối quan hệ như vậy. Anh ta đồng ý sẽ thông báo cho Cục Tình báo liên bang về tất cả các hoạt động của Capone. Theo kế hoạch, Lingle sẽ chính thức trở thành một tình báo viên vào ngày 10/6, nhưng trước đó, ngày 9/6, anh ta nhận một viên đạn vào sau gáy. Lúc đó, Capone, đang ở nhà tại bãi biển Miami, khi được hỏi về Lingle đã trả lời rằng các nhà báo tốt hơn cả là lo việc đánh lại thế giới tội phạm bằng ngòi bút của mình hơn là ủng hộ cho cảnh sát.
Trong khi đó, Mike “De Angelo” đã tới khách sạn Lexingcon nghỉ chân, ăn tiêu phè phỡn và dành phần lớn thời gian để đọc báo tại quán bar của khách sạn như một tay trùm giang hồ. Sự chơi nổi này cuối cùng cũng làm người của Al Capone chú ý.
Chúng tìm cách tiếp cận anh. Một tên đặt câu hỏi: “Chúng tôi muốn biết sự thật về anh. Anh muốn có được một vị trí trên thị trường tại đây, nhưng làm sao chúng tôi biết được anh có thể làm gì cho chúng tôi?”. De Angelo trả lời: “Thực tế, tôi muốn có một phần thị trường nhưng cũng còn tuỳ vào cái giá mà các anh đặt ra. Nếu muốn nghe toàn bộ câu chuyện mà tôi muốn trình bày, hãy cho tôi gặp mặt đại ca của các anh”.
Những tên thuộc hạ cho biết, chúng cần phải kiểm tra lại danh tính của anh trước khi có thể trả lời. De Angelo chờ đợi và rất lo sợ trong mấy ngày liền sau đó vì không biết mình đã bị lộ hay chưa. Sau đó vài ngày, Capone cho người mời anh tới dự một bữa tiệc tối. Biết rõ Capone có thể mời một người nào đó đến ăn tiệc rồi đập chết họ bằng một chiếc gậy đánh bóng chày, De Angelo đến nơi họp với tâm trạng lo ngại. May mắn là anh chưa bị lộ và sau cuộc họp này trở thành một cộng tác viên của Capone tại Cicero.Bà kia tuổi sáu mươi rồi
Mà sao vẫn phải sầu ngồi bán khoai
Cụ kia tuổi bẩy mươi hai
Mà sao ong bướm mệt nhoài chán chê…
-
04-04-2011, 07:15 AM #17
Ngay trước khi xảy ra vụ xử Ralph Capone, De Angelo phát hiện ra rằng băng của Capone sẽ tập trung vào các nhân chứng của chính phủ. Biết tin đó, Irey tổ chức bảo vệ các nhân chứng rất kỹ càng. Kết quả là kẻ tình nghị bị kết án còn các nhân chứng thì không có ai bị “tai nạn” ngoài đường như những vụ án trước đó.
Vài tháng sau, Graziano tới gặp De Angelo và nhận nhiệm vụ theo dõi các mối chuyển bia của Capone. Trước Giáng sinh, hai nhân viên an ninh này phát hiện ra một chi tiết trong đời tư của Wilson không đúng như những gì anh cho bọn tay chân của Capone biết. Irey vội tìm cách giao cho Wilson một nhiệm vụ khác, nhưng anh từ chối. Quyết tâm đó càng khẳng định anh muốn bắt bằng được Capone. Nỗ lực của họ được đền đáp bằng một cuộc nói chuyện giữa Graziano với một tay chân của Capone. Tên này để lộ ra một số bằng chứng mà hắn biết trước đó 5 năm có khả năng đưa ông trùm vào tù.
Trong cả núi thông tin mà cảnh sát nhận được trong một vụ tấn công vào khách sạn Hawthorne xảy ra trước đó không lâu, người ta tìm thấy một quyển sổ lớn ghi chép các số thuế của cửa hàng Hawthorne Smoke Shop thời gian 1924-1926. Và việc mà Irey phải làm bây giờ là tìm cho được 2 kế toán viên đã điền vào sổ các số liệu đó. Tuy nhiên cảnh sát lo ngại rằng, Capone đã thủ tiêu họ trước khi những giấy tờ nói trên bị thu giữ.
Graziano đã liều lĩnh tới mức hỏi thẳng bộ hạ của Capone xem chúng có giam giữ 2 người kế toán đó không. Bọn chúng cho anh biết, hai viên kế toán đó là những kẻ nghiện ngập và đã bỏ đi từ khi quán Smoke bị cảnh sát lục soát tên của chúng là Leslie Shumway và Fred Weiss.
Từ năm 1930 cho đến khi vụ án về hắn kết thúc, Capone bắt đầu một chiến dịch tuyên truyền cho uy tín của bản thân trên một phạm vi khá rộng. Hắn vung tiền gửi lương thực cứu giúp những người mất việc làm trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế Mỹ. Trong suốt hai tháng cuối năm 1930, cơ sở cứu trợ của Capone cung cấp 3 bữa ăn miễn phí một ngày cho những người thất nghiệp.
Đầu năm 1931, Irey phát hiện một trong 2 viên kế toán, Shumway, đang làm việc tại trường đua ngựa Hialeah ở Miami nơi Capone qua lại hàng ngày khi hắn còn ở đây thời gian trước. Frank Wilson tới Miami thẩm vấn Shumway và tìm ra người còn lại là Weiss. Wilson tìm cách đưa họ trốn thoát khỏi thành phố. Họ làm việc này chỉ vài phút trước khi một xe ôtô chở đầy những tên đâm thuê chém mướn tới tìm tại khách sạn. Cả hai người sau này đều chấp nhận hợp tác để đổi lại sự bảo vệ của cảnh sát.
Cùng lúc đó, Eliot Ness thành công lớn trong việc theo dấu các nhà chứa của Capone. Ông kiếm được rất nhiều bằng chứng về việc vi phạm luật cấm nấu và bán rượu của Mỹ. Ông quyết định sẽ sử dụng những bằng chứng này tại toà để chống lại Al Capone nếu không kết được hắn về tội gian lận tài chính.
Một người bạn của Ness từng bị giết trong các vụ bạo lực do Capone gây ra, vì thế điều ông mong mỏi hơn cả là tống được hắn vào tù và vạch trần bộ mặt thật xấu xa của hắn trước công luận. Trong các vụ tấn công của cảnh sát vào các nhà chứa vào quán rượu của Capone người ta thu được 45 xe camion, phần lớn là còn rất mới. Với mục tiêu trưng bày số xe này để bán đấu giá, chính phủ đã thuê một khu đất lớn để đưa số xe này tới đó. Nhưng Ness lại có một kế hoạch hay hơn thế.Bà kia tuổi sáu mươi rồi
Mà sao vẫn phải sầu ngồi bán khoai
Cụ kia tuổi bẩy mươi hai
Mà sao ong bướm mệt nhoài chán chê…
-
04-04-2011, 02:18 PM #18
Sa Cơ
9. Phần 9
Ness nảy ra ý định đánh vào lòng kiêu căng tự phụ của Capone, điều mà ít người nào trước đó dám làm. Ông cho sửa sang, đánh bóng tất cả những chiếc xe tịch thu được, xếp thành từng hàng. Sau đó, ông gọi điện tới khách sạn Lexington, trụ sở của Capone và yêu cầu được nói chuyện trực tiếp với hắn.
Ness nói: “Này Snorkey (cái tên chỉ những kẻ thân cận nhất với Capone mới được dùng để gọi hắn), tao muốn thông báo với mày cái này: Đúng 11h trưa nay, nhìn ra cửa sổ, mày sẽ thấy trên đại lộ Michigan một điều mà tao hy vọng mày sẽ thích”.
“Cái quái gì thế?”, giọng nói của Capone lộ rõ vẻ tò mò.
“Cứ xem đi rồi mày sẽ thấy”, Ness đáp, đoạn dập máy.
Đoàn xe diễu qua trước khách sạn của Capone, trước mặt đám gangster tay chân của hắn. Ness có thể thấy rõ sự tức tối của những người đứng trên ban công căn phòng dành cho Capone vào lúc đó.
Như vậy, cảnh sát đã tỏ rõ cho Capone biết họ sẵn sàng làm mọi điều có thể để đưa hắn ra tòa. Đó là một ngày trọng đại đối với Ness và thuộc cấp của ông. Ông đã thành công trong việc khiến Capone phải bực bội. Ngay sau khi “đoàn diễu hành” khuất dạng, Capone lồng lộn như phát điên trong hành lang khách sạn, đập phá mọi thứ hắn thấy. Ness đã không chỉ làm Capone tức, ông còn giáng một cú đích đáng vào công việc làm ăn kinh doanh của hắn. Các cuộc truy quét đã làm Capone mất hàng triệu USD thu nhập từ các quán bar, nhà chứa.
Việc nghe lén những cuộc điện thoại của Capone cũng cho thấy sự lụn bại của băng tội phạm lớn này. Chúng phải giảm số tiền “cúng” cho các nhà lãnh đạo tham nhũng trong chính quyền. Bia bắt đầu được nhập khẩu thay vì mua từ các nguồn bán lậu trước đó. Lượng bia mà Capone bị thất thu một ngày là khoảng 20.000 gallon (tương đương 75.000 lít).
Chiến dịch của chính phủ chống lại Capone kết thúc vào mùa xuân năm 1931. Luật pháp Mỹ quy định rằng, khi tìm được chứng cứ thì phải xét xử, không được để vụ án kéo dài quá 6 năm. Và vì thế các chứng cứ về vụ án của Al Capone được thu thập từ năm 1924 phải được đưa ra làm căn cứ xét xử xong trước ngày 15/3/1931.
Ngày 13/3, Tòa đại hình liên bang họp về việc chính quyền Mỹ buộc tội Capone trốn 32.488 USD tiền thuế trong năm 1924. Tòa quyết định khởi tố hắn, nhưng không thông báo tin này ra ngoài.
Ngày 5/6, Tòa đại hình họp trở lại và buộc Capone 22 tội, chủ yếu là trốn thuế với số tiền lên tới 200.000 USD. Một tuần sau đó, lời buộc tội thứ ba được đưa ra dựa vào những chứng cứ đã thu thập được của Ness và cộng sự.
Capone và 68 thủ hạ của hắn bị cáo buộc đã vi phạm luật Volstead hơn 5.000 lần. Al sẽ bị xử về tội trốn thuế, tiếp theo là về tội vi phạm luật cấm nấu và bán rượu. Nếu bị kết án với đủ bằng chứng, Capone nhiều khả năng phải chịu 34 năm tù. Thấy rõ trước tương lai không mấy sáng sủa của thân chủ, các luật sư của Capone đã gặp và đưa ra một đề nghị với công tố viên Johnson: Capone sẽ nhận tội để đối lấy việc hắn được xử một mức án nhẹ. Johnson, trước đó đã thảo luận việc này với Irey và Giám đốc mới của Kho bạc Mỹ là Ogden Mills, chấp nhận đề nghị này và cho biết Capone sẽ phải chịu mức án 2-5 năm.
Tại sao chính quyền Mỹ, sau bao nhiêu cố gắng, lại chấp nhận dành cho Capone một mức án nhẹ như vậy?
Đầu tiên, đó là vì cảnh sát không thể chắc chắn rằng hai nhân chứng Shumway và Reiss có thể sống tới khi vụ án được xử xong. Capone đã ra giá cho mạng của hai người này là 50.000 USD/ người. Người ta cũng lo ngại, nếu kéo dài vụ án quá 6 năm thì Tòa đại hình Mỹ sẽ không chấp nhận. Lý do cuối cùng, chính quyền Mỹ sợ rằng nếu để vụ án kéo dài quá lâu thì cả các quan chức tham gia xét xử của Tòa đại hình cũng sẽ bị bọn tội phạm mua chuộc.
Tin tức về vụ thỏa thuận giữa Capone và chính quyền Mỹ lan ra bên ngoài làm giới báo chí vô cùng tức giận.
Capone tỏ ra rất vui vẻ khi hắn ra tòa vào ngày 16/6/1930. Vì hắn mau mắn nhận tội trước tòa nên thẩm phán Wilkerson quyết định sẽ tuyên án hắn vào ngày 30/6. Capone sau đó đã khoe khoang trước báo giới rằng hắn ta đang xem xét đề nghị của một hãng phim về việc làm phim dựng lại cuộc đời của hắn. Hắn tỏ ra rất lạc quan yêu đời khi đứng trước Tòa đại hình để nhận lấy bản án. Tuy nhiên, Thẩm phán Wilkerson lại dành cho Al một bất ngờ khá lớn. Ông tuyên bố không chấp nhận Capone nhận tội. Hắn phải rút lại lời thú tội của mình và chờ đến lúc bị đem ra xét xử vào ngày 6/10 năm đó.
Mùa hè năm ấy, Capone vẫn nghỉ tại khu nhà của mình ở Lansing, bang Michigan. Bộ hạ của hắn tíu tít lên danh sách những người có khả năng xuất hiện trong ban hội thẩm và tìm cách mua chuộc họ. Nhưng nỗ lực của chúng đã thất bại trước những người kiên quyết thực thi pháp luật. Ngày 6/10/1931, 14 thám tử áp giải Capone ra trước tòa. Các biện pháp an ninh trong khu vực xét xử được tăng cường. Capone được đưa vào tòa qua một hành lang ngầm dưới đất rồi tới một chiếc thang máy chở hàng.
Tên trùm thế giới tôi phạm của Mỹ mặc một chiếc áo màu xanh nhạt. Lần này hắn xuất hiện trước tòa, tay không hề đeo những trang sức đắt tiền. Các báo đều cử những phóng viên xuất sắc nhất của mình đến đưa tin về vụ xử án. Câu hỏi được đưa ra nhiều nhất là: “Ông có lo sợ không?”.Bà kia tuổi sáu mươi rồi
Mà sao vẫn phải sầu ngồi bán khoai
Cụ kia tuổi bẩy mươi hai
Mà sao ong bướm mệt nhoài chán chê…
-
04-04-2011, 02:19 PM #19
Capone trả lời, với một nụ cười nhẹ: “Lo sợ ư? Ai mà không lo lắng cơ chứ?”. Bergreen sau này nhận xét rằng, đến lúc đó, Capone vẫn tin rằng người của mình đã lo lót được hết với ban hội thẩm và hắn chỉ việc ra trước tòa với một thái độ lịch sự nhã nhặn, cho đến khi được tuyên bố trắng án. Hắn nghĩ mình sẽ thắng; phát biểu trước báo giới, hắn tuyên bố sẽ không hận thù gì họ, hắn hiểu họ phải làm việc của mình.
Đoàn thẩm phán gồm Tổng chưởng lý Georges E. Q. Johnson, một người cao lớn đeo cặp kính gọng sắt, và các thẩm phán Samuel Clawson, Jacob Grossman, Dwight Green và William Froelich. Một nhà báo so sánh đây là cuộc đối đầu trực tiếp giữa Johnson và Capone. Ông nhận xét: “Khuôn mặt nặng nề nhâng nháo của Capone, những nếp thịt nổi gồ lên sau lần cổ áo của hắn như đối lập lại hoàn toàn với vẻ gày gò của Johnson và sự khô cứng trong từng cử động của người thực thi pháp luật”.
Thẩm phán Wilkerson xuất hiện, ông không đội bộ tóc giả thường được dùng trong các vụ xử. Ông làm cả phòng xử án phải sững sờ khi tuyên bố: “Thẩm phán Edwards đang phải điều hành một vụ xử án diễn ra ngày hôm nay. Hãy đưa ban hội thẩm của tôi tới cho ông Edwards và đưa ban hội thẩm của ông ấy sang chỗ tôi”. Capone và luật sư của hắn là Me Michael Ahern hoàn toàn bất ngờ bởi ban hội thẩm mới gồm toàn những người chưa bao giờ xuất hiện trong danh sách mà thuộc hạ của hắn đã mua chuộc.
Ngày 17/10, Johnson đặt bản tóm tắt những cuộc tranh luận trước mặt ban hội thẩm. Sau khi thông báo những gì mà vụ xử sẽ giải quyết, ông tập trung vào Capone:
Tôi khá ngạc nhiên về cách thức mà bị cáo đã sử dụng để tạo ra một huyền thoại quanh cá nhân ông ta. Ông ta là ai mà trong từng ấy năm đã kiếm được nhiều tiền như vậy? Phải chăng ông ta may mắn đào được một kho vàng ở một chân trời nào đó? Phải chăng ông ta là Robin Hood như những thuộc hạ của ông ta miêu tả? Nhưng ông ta có phải là Robin Hood thật sự hay không nếu ông ta mua một chiếc nhẫn kim cương giá 8.000 USD, và ăn một bữa trưa giá 5.000 USD? Số tiền đó có đến với những người nghèo hay không? Không, nó đi tới lâu đài tại Palm Island. Phải chăng ông ta mua chiếc áo sơ mi giá 27 USD để tặng cho những người đang phải run rẩy tại khu Wacker tránh cái lạnh ban đêm? Không.
Tại bất kỳ nơi nào, ở bất kỳ thời điểm nào, đã bao giờ ông ta xuất hiện trong những công việc làm ăn có danh tiếng? Giờ đây ông ta đang có mặt trong tòa án với chiếc thắt lưng đính kim cương, với chiếc áo sơ mi giá 27 USD, những đồ đạc đắt tiền trong căn hộ của ông ta, và khoản 116.000 USD chỉ là để sửa chữa lại căn nhà mà ông ta đang ở. Dù vậy, luật sư của ông ta vẫn sẽ nói cho chúng ta biết rằng ông ta không có một khoản thu nào như vậy cả!
Chiều tối ngày thứ bảy, 17/10/1931, sau 9 giờ nghị án, Capone bị tuyên là có tội trốn thuế. Đúng một tuần sau đó, thẩm phán Wilkerson tuyên án Capone 11 năm cấm cố, phạt tiền 50 triệu USD và phải trả 30.000 USD phí tòa án. Ông cũng từ chối việc đưa Capone tới nhà tù tại Cook mà chuyển hắn tới nhà tù liên bang tại Atlanta.
Báo New York Times sau đó tả lại: “Capone cố gắng cười, nhưng đó là một nụ cười gượng gạo. Hắn liếm cặp môi dày của mình, ngồi bồn chồn trên ghế. Hắn ăn nói lúng búng. Cố tỏ ra thản nhiên, nhưng hắn không thể kiềm chế bản thân hơn được nữa và dường như muốn nổ tung lên vì tức giận. Những ngón tay run rẩy của hắn nắm ra sau lưng, vặn vẹo”.
Khi Capone rời khỏi tòa án, một sĩ quan tiến tới tước hết mọi thứ hắn sở hữu để chính quyền trừ vào khoản tiền mà hắn bị phạt do trốn thuế. Capone mất hết bình tĩnh, hắn xông vào tấn công người cảnh sát, nhưng bị những cảnh sát khác ở xung quanh giữ chặt tại chỗ.
Lời cuối cùng Capone nói với Ness khi ra khỏi tòa: “Vậy đó, tôi đang trên đường để đi thi hành bản án 11 năm. Tôi phải tuân theo thôi, tôi không cảm thấy hận thù ai hết. Có những người may mắn, nhưng tôi thì không. Dù sao thì công việc cũng khiến tôi phải chi quá nhiều tiền bạc, lúc nào cũng phải hối lộ cho các phi vụ buôn xe và bia. Họ làm cho chúng trở nên đúng luật là phải thôi”.
Ness trả lời trước khi quay đi: “Và nếu nó được thực hiện đúng luật, thì ông chẳng còn việc gì phải làm với nó nữa”.
Capone bắt đầu cuộc sống của một tù nhân trong Viện trừng giới tại Atlanta và ngay lập tức có lời đồn rằng hắn sống tại đó xa hoa như một ông hoàng. Tuy có những lời phóng đại về điều đó, nhưng quả thực Capone sống khá hơn hẳn những tù nhân khác vì hắn có rất nhiều tiền nhét trong cán một chiếc vợt tennis mà hắn mang theo mình. Ngoài ra, hắn còn nhận được sự tiếp tế từ phía những tay chân cũ của mình ở bên ngoài.
Năm 1934, Tổng chưởng lý Homer Cummings quyết định dùng nhà tù trên đảo Alcatraz làm nơi giam giữ những tên tội phạm nguy hiểm nhất nước Mỹ. Trong một bài phát biểu trên đài phát thanh, ông thông báo: “Đây là nơi thích hợp để những tên bất hảo trong số tù nhân không ảnh hưởng tới những người tù khác”.
Tháng 8/1934, Capone được chuyển tới nhà tù Alcatraz, những ngày sống an nhàn của hắn đã chấm dứt. Trong cảnh thiếu thốn, những căn bệnh hoa liễu mà hắn mắc phải từ khi còn rất trẻ mau chóng chuyển thành bệnh nặng, tàn phá hệ thần kinh. Đến năm 1938, Capone đã rất yếu và đôi khi không nhận thức được sự vật xung quanh. Vì cư xử tốt nên trong năm cuối thời hạn thi hành án (đã được giảm xuống còn 6 năm, 5 tháng), hắn được chuyển tới khu bệnh viện trên đảo để chữa bệnh. Tháng 11/1939, Capone mãn hạn tù. Hắn được vợ là Mae đưa tới bệnh viện tại Baltimore. Hắn nằm điều trị tại đây cho đến tháng 3/1940.
Trong những năm sau đó, Capone sống trong lâu đài tuyệt đẹp của mình trên đảo Palm. Sức khỏe của hắn suy yếu dần. Mae ở lại cùng Capone cho đến lúc hắn chết vì một cơn đau tim vào ngày 25/1/1947, trong vòng tay người thân.
Sau này, nhà nghiên cứu Begreen đã nhận xét về hắn: “Suốt 48 năm của cuộc đời mình, Capone đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong thế giới ngầm của Chicago. Hắn là tên tội phạm nổi đình nổi đám nhất trong con mắt của người dân Mỹ. Có thể danh tiếng của hắn qua khá nhanh, nhưng chính hắn là kẻ đã tạo ra hình thức tội phạm có tổ chức dưới dạng những doanh nghiệp lớn”.Bà kia tuổi sáu mươi rồi
Mà sao vẫn phải sầu ngồi bán khoai
Cụ kia tuổi bẩy mươi hai
Mà sao ong bướm mệt nhoài chán chê…
Mặt Thẹo
Đánh dấu