Kết quả 1 đến 8 của 8
Chủ đề: Công năng đặc dị
Hybrid View
-
14-05-2011, 06:43 AM #1
MỖI NGƯỜI CHÚNG TA LÀ MỘT THẾ GIỚI KỲ DIỆU
Thế kỷ thứ 20 đã mở nhiều cánh cửa kỳ diệu cho chúng ta thấy những bí mật của vũ trụ và con người. Ngày nay khoa học đã cho thấy vật chất và tâm linh không phải là hai thứ tách biệt. Chúng liên hệ mật thiết với nhau. Nhiều hiện tượng kỳ lạ xảy ra chung quanh chúng ta chẳng qua là sự tác động qua lại của tinh thần và vật chât. Những gì mà khoa học có thể giải thích được thì chúng ta gọi đó là các hiện tượng tự nhiên. Những gì khoa học chưa giải thích được thì chúng ta gọi những hiện tượng ấy là phép lạ.
Phép Lạ Nơi Vùng Núi Hy Mã Lạp Sơn
Tôn giáo nào cũng thường nói đến phép lạ, những điều lạ lùng mà con người có thể làm được qua sự cầu nguyện, qua sự tu tập các pháp môn bí truyền mà các nhà khoa học chưa có thể giải thích được rõ ràng. Tuy vậy, chúng ta đều biết nhiều hiện tượng gọi là “phép lạ” chỉ là sự đồn đãi vô căn cứ, không thể nào kiểm chứng được có thật hay không.
Bác sĩ Herbert Benson, một chuyên viên nghiên cứu về khả năng của tinh thần con người, đã đọc những tác phẩm của một phụ nữ người Pháp, bà David Neel, tu tập theo Phật giáo Mật Tông rất nhiều năm tại Tây Tạng nói về những thần thông, những phép lạ mà các vị thầy Tây Tạng có thể làm được như ngồi ngoài tuyết giá lạnh mà không cần áo quần, có thể chuyển năng lực tâm linh của mình làm cho người đã chết và thú vật đã chết hay đồ vật chuyển động, có thể chọn con đường tái sanh trong kiếp sau, v.v... Khi được biết ngài Đạt Lai Lạt Ma, được dân chúng Tây Tạng tôn xưng Ngài là vị Phật sống, đến tị nạn cùng với các vị cao tăng ở vùng Dharmashla thuộc khu vực núi Hy Mã Lạp Sơn, bác sĩ Benson muốn thực hiện công việc nghiên cứu một cách khoa học khả năng kỳ diệu của tinh thần hay tâm thức con người tác động vào đời sống thể chất của họ.
Điều mà bác sĩ Benson, chuyên viên nghiên cứu về sự tác động của tinh thần làm thay đổi các tình trạng thể chất, thích thú và mong muốn tìm hiểu là cách các vị cao tăng Mật Tông làm cho nhiệt độ da của họ tăng lên để chống lại giá rét theo phép tu gọi là Tam Muội Hỏa hay Tummo. Khi thực hành pháp môn này, các vị cao tăng ở trong một trạng thái an vui, hạnh phúc bao la và thân thể của họ ấm áp vô cùng, tuyết giá không làm cho họ bị cóng lạnh dù cho họ không mặc áo quần trong cái lạnh cắt da dưới không độ Fahreinheit hay 18 độ dưới không độ bách phân.
Phép Lạ Hiện Rõ Dưới Con Mắt Của Khoa Học
Vào đầu năm 1985, ban nghiên cứu thuộc trường đại học Harvard nói trên đã cử toán chuyên viên nghiên cứu cùng quay phim để ghi nhận thật sự sự thực hành cùng kết quả của pháp môn Tam Muội Hỏa này. Nhóm chuyên viên nghiên cứu đó đến một tu viện Tây Tạng thuộc vùng thung lũng Kalu phía Bắc Ấn Độ vào tháng hai 1985. Các vị cao tăng của tu viện thực hành một nghi lễ đặc biệt. Nhiệt độ trong phòng lúc đó là 40 độ F (khoảng 8 độ bách phân). Vào lúc 3 giờ sáng, mười hai vị tu sĩ Phật giáo Mật Tông tiến vào phòng, nơi các máy quay phim đã thiết trí. Họ cởi tăng bào ra và chỉ còn chiếc khố. Các vị đó ngồi theo thế thiền tọa trên nền nhà. Họ lấy các tấm vải chiều dài là ba bộ, chiều ngang là sáu bộ (gần một thước chiều ngang và hai thước chiều dài) nhúng vào nước rảy cho hết nước thừa rồi quấn quanh phía thân trên của họ. Vải ướt dính vào da và làm cho da của họ hiện rõ sau làn vải. Theo bác sĩ Benson, nếu chúng ta, những người mạnh khỏe, để thân thể ở trần trong khí hậu như thế thì người sẽ run lên vì lạnh. Những vị thầy ấy vẫn thản nhiên tĩnh tọa.
Sau đó họ bắt đầu thực hành pháp môn Tam Muội Hỏa. Một hiện tượng kỳ lạ bắt đầu xuất hiện trong vòng năm phút sau đó: Các miếng vải thấm nước bắt đầu bốc hơi và càng lúc hơi nước càng nhiều. Hơi nước bốc lên mịt mù cả phòng làm cho các ống kính thu hình bị mờ nên các chuyên viên thu hình phải chùi ống kính luôn. Từ ba mươi cho đến bốn mươi lăm phút, các miếng vải ướt được hơi nóng từ thân các vị thầy Mật Tông làm khô hẳn.
Các vị thầy đó lại nhúng khăn vào nước, rảy bớt nước thừa và quấn vải ướt quanh người. Ba mươi phút sau các tấm vải ấy lại khô ráo. Và cứ như thế họ tiếp tục thêm nhiều lần nữa. Trong suốt buổi thực hành pháp môn làm gia tăng nhiệt độ nói trên, không có một vị nào tỏ ra bị rét hay run vì lạnh cũng như có một dấu hiệu khó chịu nào.
Bác sĩ Benson cho rằng các vị tu sĩ nói trên thực hành được phép lạ đó nhờ cách tu tập, ngồi thiền, thân tâm thoải mái, tin tưởng vào những lời dạy trong đạo Phật, v.v... Những điều trên tạo ra một sự thay đổi sâu xa về thân thể cũng như tâm thần của họ làm cho cơ thể họ tạo ra sức ấm giúp họ không bị cóng lạnh và tê liệt trong nhiệt độ khắc nghiệt trong thời gian lâu dài như vậy.
Cách Thực Hành Tam Muội Hỏa
Các vị tu sĩ Phật giáo trên đã thực hành một trong sáu pháp môn mầu nhiệm gọi là sáu phép thần thông của ngài Đại Sư Naropa truyền dạy gồm có:
1. Tam Muội Hỏa, pháp môn tu tập làm khai mở luồng hỏa hầu, đưa đến khả năng làm tăng nhiệt độ cơ thể.
2. Thiền quán về thân giả hợp, huyễn mộng thân, để thấy thân chân thật hay Chân thân.
3. Thiền quán về mộng, pháp môn thực hành để biết các điều trong giấc mộng, làm hết các ác mộng cùng chi phối hay thay đổi giấc mộng trở thành tốt đẹp theo ý mình.
4. Thiền quán về ánh sáng tỏa chiếu từ chốn rỗng lặng, rộng lớn, để sống trong niềm an vui kỳ diệu.
5. Thiền quán về Thân Trung Ấm, thần thức (thường gọi là linh hồn) chúng ta khi vừa mới qua đời và trước khi đầu thai thân người mới, để không bị sợ hãi và an nhiên tự tại lúc đối diện với cái chết, đồng thời làm quen với ánh sáng rực rỡ và mầu nhiệm cùng hình ảnh của chư Phật hiện ra để tiếp độ Thân Trung Ấm về cõi Cực Lạc.
6. Pháp môn chuyển thần thức để thọ sanh theo như ý muốn, chọn nơi chốn đầu thai cùng gia đình nào họ muốn đầu thai hay quay về với thế giới chư Phật, thế giới của nguồn an vui vô cùng hay Cực Lạc, thế giới của sự bình an, trong lành, hạnh phúc vô lượng vô biên hay Tịnh Độ, hoặc thế giới chân thật tuyệt đối được gọi là chốn Niết Bàn.
Chúng ta thử tìm hiểu các thực hành Tam Muội Hỏa, một trong sáu phép thần thông nói trên.
Vị tu sĩ Mật Tông Phật Giáo trước hết phải lạy Phật, trì chú, tụng kinh, nguyện làm các điều lành, ăn năn sám hối các điều ác đã vô tình hay cố ý làm. Sau đó họ thực hành phép quán đảnh, thấy hình ảnh của các vị Phật và vị thầy của mình trên đỉnh đầu. Phép quán đảnh này phải do một Quán Đảnh Sư, một vị thầy đã nhận được phép Quán Đảnh truyền cho mới linh nghiệm.
Sau thời gian thuần thục với lối thở đặc biệt, quán tưởng các hình ảnh chư Phật, trì chú, người tu quán thấy thân mình như thân của vị Phật, họ quán thấy thân vị Phật tử nhỏ như một hạt cải đến lớn như vũ trụ bao la. Tiếp đến họ quán tưởng đến các Bảo Liên Hoa (Chakra) cùng các luồng khí chạy theo các đường kinh mạch chạy từ vùng dưới thân đến luân xa giữa hai chân mày, quán thấy toàn thân rỗng lặng và quán thấy lửa trong thân. Phương pháp tu tập rất công phu để khai thông kinh mạch và khai mở các Bảo Liên Hoa, gia tăng thần lực và đưa đến kết quả kỳ diệu của pháp môn Tam Muội Hỏa nói trên.
Điều ấy khiến cho các nhà nghiên cứu dù đặt nặng sự giải thích trong phạm vi khoa học cũng thừa nhận rằng tinh thần có thể làm chuyển đổi cách phản ứng của thân thể mà pháp môn Tam Muội Hỏa là một trường hợp cụ thể nhất mà khoa học tân tiến ngày nay có thể khảo sát một cách rõ ràng từ đầu đến cuối và lập đi lập lại nhiều lần vẫn thấy nguyên nhân, tức là sự thực hành tu tập (nhân) và kết quả đắc được thần thông (quả), không sai biệt.
Sự kiện nói trên tuy rất giản dị đối với các vị tu sĩ Phật giáo nhưng đối với khoa học chữa trị bệnh tật con người đó là một bằng chứng rất quan trọng về mặt thực hành cách làm cho tinh thần an vui và thân thể khỏe mạnh cũng như cách vận dụng tinh thần, trong đó có niềm tin vào việc chữa trị các bệnh tật từ bệnh cảm cúm đến các bệnh ngặt nghèo như bệnh tim, ung thư và các chứng nan y khác. Ngày nay, hàng trăm bác sĩ trên thế giới đã sử dụng phương pháp thiền quán, quán tưởng, cầu nguyện hay biểu lộ những ước muốn chữa trị thành công nhiều chứng bệnh nan y. Đó là một sự thay đổi mới mẻ trong khoa học chữa trị bệnh tật tân tiến. Áp dụng những lời dạy bảo của các thánh nhân từ ngàn năm trước.
Biết Thật Sự Mình Muốn Gì
Đạo Phật nhấn mạnh đến tính cách liên hệ của mọi sự vật, mọi hiện tượng theo cái thấy biết chân thật về tính cách không hai, không riêng biệt (bất nhị) của mọi thứ (vạn pháp) như sau:
“Cái này có vì cái kia có,
Cái này không vì cái kia không
Cái này sanh vì cái kia sanh
Cái này diệt vì cái kia diệt.”
Ý tưởng nói trên dùng để diễn tả tính cách nương tựa vào nhau của các sự vật cũng như các hiện tượng tâm lý để làm cho xuất hiện hay “sinh ra” một điều gì, một thứ gì đó. Như một chiếc bàn là do sự kết hợp của các yếu tố gỗ, người thợ mộc, dụng cụ cưa, bào, đục, và ý muốn tạo ra chiếc bàn. Các yếu tố ấy có nên có chiếc bàn, các yếu tố ấy không có thì chiếc bàn không bao giờ xuất hiện. Hiện nay các nhà thần kinh học nhận thấy hễ bộ óc chúng ta có những ý tưởng tích cực cùng sự vui vẻ thì một số các chất hóa học tốt được tạo ra tương ứng với sự tích cực và vui vẻ đó. Nếu các ý tưởng buồn rầu, tiêu cực xuất hiện thì hệ thống miễn nhiễm chống lại bệnh tật bị suy yếu làm thân thể mệt mỏi và ốm đau, chưa kể rất nhiều bịnh không do vi trùng gây nên xuất hiện.
Những điều ấy Đạo Phật dạy là tính cách duyên khởi của mọi sự kiện vật chất hay tinh thần. Duyên khởi là những kết hợp của các thứ khác nhau để tạo ra một thứ, một tình trạng nào đó như chúng ta đã nói ở trên. Khi nói đến thời gian thì chúng ta nghĩ thời gian vốn bình đẳng với mọi người. Một người già, một em bé, một người giàu, một người nghèo, một giờ trôi qua thì vốn giống nhau cho mọi người. Trên thực tế, thời gian của mỗi người vốn khác nhau tùy theo các yếu tố kết hợp lại thành cơ thể của mỗi người như tính cách di truyền, cách ăn uống, sinh hoạt, tánh tình, sự tỉnh thức trong đời sống. Có người chỉ mới bốn mươi tuổi mà trông như ông già bảy mươi. Có những cụ già bảy mươi mà còn trẻ trung, hoạt bát, nhanh nhẹn như người năm mươi tuổi.
Tình Thương Yêu Khai Mở Năng Lực Kỳ Diệu
Hiện nay ở Hoa Kỳ người ta thường nói đến tình thương yêu, có những lớp dạy về tình thương yêu vì sự trống vắng và quạnh quẽ trong đời sống dư thừa vật chất. Trong ngành chữa trị y khoa người ta lại càng thấy rõ tình thương có năng lực chữa trị bệnh tật hỗ trợ cho những thuốc men và kỹ thuật tân tiến hiện nay. Hàng trăm cuốn sách đã được viết ra để hướng dẫn hay nhắc nhở dân chúng về yếu tố quan trọng của tình thương trong việc giáo dục con cái, duy trì sức khỏe, chữa trị bệnh tật cho mình và cho người.
Điều này thật rất quen thuộc với người thực hành đạo Phật vì thực hành đạo Phật là sống với tình thương yêu rộng lớn, sự hiểu biết chân thật và nguồn an vui kỳ diệu nơi chính mỗi chúng ta.
Tình thương yêu rộng lớn đạo Phật gọi là từ bi. Từ là tình thương yêu trong lành, ấm áp, tỏa chiếu hướng đến người khác và mong họ có được sự an vui. Bi là lòng mong muốn giúp đỡ những người đang bị tai ương, ách nạn, đói khổ nói chung là bị khổ đau để họ có được đời sống an lành và tốt đẹp.
Thương yêu và muốn đem lại niềm an vui cho người là một tính tự nhiên sẵn có nơi mỗi chúng ta, đó cũng là chân tâm hay Phật tánh tràn đầy một tình thương yêu trong lành, tỏa chiếu, ấm áp và rộng lớn bao la. Đó là tình thương yêu không điều kiện, không cân nhắc, không mong cầu đáp ứng. Tình thương yêu ấy vốn tự nhiên tỏa sáng.
Chúng ta hãy nghe vị đạo sư Tây Tạng, Tarthang Tulku Rimpoche nói về tình thương yêu đó trong mối tương quan giữa con người:
“Mọi thứ đều liên hệ lẫn nhau một cách lạ lùng. Khi ý thức về điều ấy thì sự liên hệ của chúng ta đặt nền tảng trên tình thương yêu, không phải tình thương yêu cân nhắc, suy tính, mà là một tình thân hữu tự nhiên đối với mọi loài, một sự khai mở cõi lòng do sự thông hiểu tự nhiên về mối liên hệ lẫn nhau đó. Từ đó, những mong muốn về lợi lộc riêng tư sẽ tiêu tan. Không có một vấn đề gì của cá nhân còn lại…
Khi tôi càng tìm hiểu về những vấn đề của người khác thì các vấn đề của tôi càng bị tiêu trừ. Như thế, tìm hiểu các vấn đề người khác vốn rất quan trọng… Sự hiểu biết vấn đề các người khác làm gia tăng sự hiểu biết về chính mình; sự hiểu biết chính mình làm gia tăng lòng từ bi; lòng từ bi làm gia tăng sự hiểu biết người khác. Đó là một vòng tròn chắc nịch mà chúng ta chỉ có thể đi vào bằng cách buông bỏ mối quan tâm về chính những vấn đề của mình.”
Nói khác đi, khi chúng ta khai mở cõi lòng, hướng đến người khác để tìm hiểu những mối lo lắng, sợ hãi, giận hờn và khổ đau của họ thì lòng từ bi, tình thương yêu trong sáng, ấm áp, rộng lớn tràn đầy trong ta. Lúc đó, bao nhiêu những ý tưởng chấp dính vào cái tôi của mình, cái ngã của mình tan biến đi nên mọi thứ lo lắng, sợ hãi, buồn phiền và khổ đau nơi chúng ta cũng đều tan biến theo.
Phẩm Phổ Môn trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa nói về sức mạnh của tình thương yêu đó cùng năng lực làm tiêu sạch mọi thứ khổ đau:
“Lòng bi vang tiếng sét
Đức từ rạng nhường mây
Cam lồ mưa pháp gội
Lửa phiền não tưới tắt.”
(sưu tầm)
Công năng đặc dị



Trả lời kèm Trích dẫn


Đánh dấu