Danh tiếng ông truyền khắp nước, thấu tận mây xanh và Ngật Trường ngày một già. Hình như càng ngày ông càng nhập vào trạng thái trong đó cả tâm trí và thể xác đều không chú ý đến những sự vật bên ngoài mà đơn độc tồn tại trong sự thanh thản, đơn sơ và tao nhã. Bộ mặt thản nhiên của ông trút bỏ mọi vết tích của biểu cảm; không một ngoại lực nào có thể quấy rối sự trầm tĩnh hoàn toàn của ông. Bây giờ rất hiếm khi ông nói và người ta cũng không thể khẳng định rằng ông có còn thở hay không. Nhiều khi chân tay ông dường như trần trụi và vô sinh khí như một cây héo. Ông trở nên hòa đồng với những quy luật cơ bản của vũ trụ, xa biệt khỏi những bấp bênh và mâu thuẫn của sự vật ngoại hiện, đến nỗi trong buổi xế chiều của cuộc đời, ông không còn biết đến sự khác nhau giữa “tôi” với “nó”, giữa “cái này” với “cái kia” nữa. Tình muôn hình nghìn vẻ của những ấn tượng giác quan không còn liên quan đến ông nữa; mắt ông có thể là tai, tai có thể là mũi, mũi có thể là mồm, ông cũng bất cần.
Bốn mươi năm sau khi xuống núi, Ngật Trường bình yên từ giã cõi đời như làn khói biến vào bầu trời. Trong bốn mươi năm ấy, ông không một lần nhắc đến chuyện xạ thuật, nói chi đến cung tên.
Về năm cuối cùng của đời ông, có chuyện rằng: một hôm ông đến thăm nhà một người bạn và thấy trên bàn một vật trông quen quen mà ông không sao nhớ nổi tên và công dụng của nó. Sau khi lục soát trí nhớ một cách vô hiệu, ông quay sang người bạn và nói: “Xin thân hữu cho biết: cái vật trên bàn kia tên nó là gì và nó dùng để làm gì?’. Chủ nhân bèn cười lớn như thể Ngật Trường nói đùa. Ông già hỏi gặng thêm, nhưng người bạn lại cười, tuy lần này thì có phần phân vân. Khi được hỏi lại nghiêm túc đến lần thứ ba, một vẻ sững sờ hiện lên trên mặt người bạn. Ông ta nhìn chăm chăm vào Ngật Trường và sau khi chắc chắn rằng mình đã nghe đúng cũng như ông già không điên cũng chẳng nói rỡn, ông ta lắp bắp bằng một giọng kinh dị: “Ôi, tôn sư, ngài quả là bậc thầy lớn nhất của mọi thời đại. Chỉ có như vậy ngài mới có thể quên được cái cung – quên cả tên lẫn công dụng của nó!”.
Nghe nói là sau đó ít lâu, ở thành Hàm Đan, họa sĩ bỏ bút vẽ, nhạc công dứt đứt dây đàn và thợ mộc thì xấu hổ mỗi khi bị trông thấy tay cầm thước.