Kết quả 1 đến 10 của 41
Threaded View
-
07-06-2011, 12:49 AM #4
10/ Annie Hall (1977)
Annie Hall - Sự phức tạp của tình yêu
Thể loại: Hài/Tâm lí
Đạo diễn: Woody Allen
Sản xuất: 1977
Giải thưởng: 4 Giải Oscar, gồm cả giải Best Picture, Best Actress và Best Director
Hiếm khi nào mình xem được một bộ phim hài hấp dẫn và đầy tính trí tuệ như Annie Hall, bộ phim được coi là hay nhất của đạo diễn/diễn viên Woody Allen.
Annie Hall là một câu chuyện tình của diễn viên hài New York Alvy Singer (Woody Allen) và một người phụ nữ nhí nhảnh tên Annie Hall (Diane Keaton). Cốt truyện không có gì đặc biệt. Mở đầu phim là cảnh Alvy kể lể sơ qua về bản thân và sau đó kể về mối tình đã qua với Annie. Đặc sắc nhất ở bộ phim có lẽ là phần đối thoại vô cùng thông minh và dí dỏm.
Alvy là một người đàn ông trung niên, hình thức không mấy gì hấp dẫn (gày gò, nhỏ con), tính tình thì tinh vi, miệng luôn liến thoắng những câu nói mỉa mai, châm biếm, chê bai cuộc đời và con người. Alvy có cách nhìn cuộc sống vô cùng cực đoan. Lúc nào cũng suy tư, lo lắng, trăn trở về cái chết và sự khổ sở của kiếp người. Để lý giải cho cách nhìn đời tiêu cực, ông lấy cớ là do hồi nhỏ sống ngay dưới chân cái roller-coaster nên thần kinh ông luôn bị kích động. Là một diễn viên hài, ông sở dĩ khiến khán giả cười được cũng nhờ những quan niệm mang tính lập dị, khác đời của ông. Người như Alvy luôn nhăn nhó, trầm tư và khó có thể hòa nhập với cộng đồng.
Ngược lại với Alvy, Annie tuy cũng không còn trẻ trung nhưng rất hồn nhiên, vô tư, và nhiều lúc rất trẻ con. Nhiều hành động của Annie dường như hơi lố bịch, vô duyên nhưng thật đáng yêu. Alvy cũng đã phải thốt lên: “Anh không ngờ có ngày anh yêu một phụ nữ thích sử dụng những từ như la-de-da” (La-de-da ở đây là một từ đệm Annie sáng tạo ra, và dùng trong những lúc bối rối, lúng túng và không biết nói gì khác). Có lần Annie kể một câu chuyện về một ông George nào đó đứng xếp hàng để nhận gà tây nhân dịp Giáng Sinh rồi chết bất ngờ ngay tại đó. Người xem có lẽ sẽ không cười câu chuyện mà sẽ cười cách cô kể chuyện. Rồi tình tiết Annie, sau lần chia tay lần thứ nhất, dựng Alvy dậy vào lúc 3h sáng, gọi anh đến nhà cô chỉ để nhờ Alvy giết ... một con nhện trong buồng tắm. Những lí do thật là vì Annie nhớ Alvy không chịu nổi. Tình tiết này mình thấy cảm động và dễ thương thế không biết.
Cả bộ phim là một chuỗi những cuộc tranh luận không mệt mỏi giữa Annie và Alvy. Hai người đều thích lý sự và rất hay mâu thuẫn nhau. Nhiều lúc mâu thuẫn đến mức không chịu nổi nhau và phải bỏ đi. Bỏ nhau rồi quay lại. Rồi lại bỏ nhau. Giữa họ tồn tại nhiều tình cảm nhưng họ không sống được bên nhau vì không giải quyết được những xung khắc.
Nét hay của phim, theo mình, không phải ở những tình tiết lãng mạn, sướt mướt, mùi mẫn, hay kịch tính thường thấy ở các phim tình cảm mà ở khía cạnh rất đời thường của một mối tình. Phim không hề mô tả tình yêu qua những cuộc hẹn hò lãng mạn, những cảnh ân ái nỏng bỏng mà ngắm nhìn tình yêu qua một lăng kính “thực tế”. Trong Annie Hal, yêu nhau là sống cùng nhau, tìm cách hòa hợp với nhau để chia sẻ mọi điều trong cuộc sống. Tình yêu nhiều lúc không đủ mạnh để giữ hai con người trái ngược nhau về mặt tính cách sống bên nhau.
Phim tập trung vào những chi tiết rất bình thường và cả những vấn đề rất thực tế của cuộc sống mà hai người gặp phải khi ở chung. Hai người chành chọe nhau từ những cái nhỏ nhất: từ việc giải quyết những con lobster bò lồm cồm trên sàn nhà đến những bất đồng và trục trặc trong vấn đề tình dục. Những tình huống đời thường mà bất kì cặp tình nhân nào cũng phải trải qua đều được đề cập tới.
Annie Hall còn cách thể hiện đặc biệt mà mình chưa từng thấy ở phim khác. Nếu xem phim, bạn sẽ thấy thỉnh thoảng nhân vật Alvy như tách khỏi cảnh phim, đứng gần màn ảnh hơn hoặc là xuất hiện trong một tình tiết trong quá khứ để giải thích, thanh minh với khán giả hoặc đả kích về một điều gì đó. Ngay từ đầu phim, Alvy (của hiện tại) đã nhảy vào tranh luận với cô giáo tiểu học của mình về vấn đề con trai - con gái khi ông kể cho khán giả thời gian ở trường tiểu học. Buồn cười nhất là lúc hai người bỏ nhau lần đầu ở ngay trên vỉa hè một con phố. Sau khi Annie đi khỏi rồi, Alvy tóm cổ bất kì một người qua đường (tất nhiên là không quen biết) để hỏi han tại sao Annie lại bỏ đi, tại sao quan hệ của anh gặp vấn đề. Cách này cũng khá độc đáo, có tác dụng gây cười nhưng Woody Allen có vẻ sử dụng hơi nhiều trong suốt bộ phim.
Đoạn cuối phim là những đúc kết của nhân vật Alvy về tình yêu sau khi thấm thía những bài học, những vấp váp anh được trải nghiệm qua thực tế: Tình yêu thật phức tạp và nhiều lúc điên rồ nhưng dường như ta thể sống thiếu nó. Con người ta sẽ không bao giờ ngừng tìm kiếm nếu họ còn thiếu cái gọi là tình yêu.
11/ Citizen Kane (1941)
Nội dung:
Lấy nguyên mẫu từ một nhân vật tiếng tăm trong lĩnh vực truyền thông của Mỹ thời bấy giờ, Citizen Kane tái hiện cuộc đời một ông trùm với những diễn biến từ thời thơ ấu đến những thành công trong sự nghiệp và bi kịch sau này.
Phim kể về cuộc đời ông trùm trong lĩnh vực truyền thông Charles Foster Kane (Orson Welles) với cảnh mở màn là hình ảnh Charles đang hấp hối tại ngôi biệt thự Xanadu với lời nói cuối cùng là từ “Rosebud” (nụ hồng). Một phóng viên trẻ (William Alland) tò mò đi tìm hiểu ý nghĩa của từ này bởi cuộc đời và cái chết của Kane là một sự kiện lớn.

Citizen Kane tái hiện cuộc đời của nhà tỷ phú, từ thời thơ ấu đến những thành công trong sự nghiệp sau này, rồi tham vọng quyền lực dẫn đến sự sụp đổ cuối đời. Được sự giúp đỡ của Jedediah Leland (Joseph Cotton), Kane đã xây dựng được một trung tâm báo chí tầm cỡ quốc gia từ một tờ báo có số lượng in dưới 30.000 bản. Để làm được việc này, Kane đã phải chấp nhận mất 1 triệu USD một năm để chiến thắng trong cuộc đua về số lượng bản in. Tờ New York Inquirer của ông đặc trưng ở những dòng tít lớn. Cũng trong thời gian đó, ông kết hôn với Emily Norton (Ruth Warrick), cháu gái của Tổng thống. Kane trở thành một trong những người đàn ông quyền lực nhất nước Mỹ trong lĩnh vực truyền thông.

Cuối cùng thì Kane chuyển sang vũ đài chính trị với cuộc chạy đua ghế thống đốc bang New York, nhưng bị sự cản trở của Jim Gettys (Ray Collins). Thất bại trong chính trường, Kane chán nản ly dị vợ và kết hôn với Susan Alexander (Dorothy Comingore) rồi chuyển đến sống ẩn dật tại Xanadu. Sau nhiều năm ông càng trở nên bi kịch và lảng tránh mọi người. Mệt mỏi với miền đất Xanadu hẻo lánh và người chồng tuyệt vọng, Susan ra đi. Cô đơn và thiếu thốn tình cảm, Kane chờ đợi cái chết đang dần đến với mình…
Citizen Kane là bộ phim do Orson Welles viết kịch bản, làm đạo diễn, diễn viên chính và sản xuất khi mới 25 tuổi. Phim được các nhà phê bình điện ảnh đánh giá là phim xuất sắc nhất mọi thời đại bởi thành tựu đột phá trong kỹ thuật quay, âm thanh có tính chuẩn mực cao và cách xây dựng cốt truyện. Citizen Kane nhận 9 đề cử Oscar năm 1942 nhưng chỉ đoạt giải Kịch bản gốc xuất sắc.
Phim được đánh giá là cột mốc lịch sử trong quá trình phát triển kỹ thuật làm phim. Đạo diễn Welles sáng tạo kỹ thuật quay phim và cách thể hiện khác hẳn những phim cùng thời với việc tái hiện câu chuyện bằng cách hồi tưởng. Kỹ thuật phim, cảnh quay sâu, góc nhìn rộng, ánh sáng, sự kết hợp bối cảnh sáng tạo là những thành công mà các nhà làm phim hiện đại vẫn phải học tập. Theo đó, cuộc đời Kane được tái hiện trong suốt chiều dài bộ phim. Nhân vật Kane được lấy từ nguyên mẫu cuộc đời William Randolph Hearst, ông trùm trong lĩnh vực truyền thông và là nhà xuất hản hầu hết của các tờ báo trên toàn nước Mỹ. Chính đạo diễn Orson Welles cũng tìm được những mối đồng cảm với nguyên mẫu này, vì thế nhân vật được ông xây dựng với tất cả say mê. Mặc dù được đánh giá cao, Citizen Kane đã gây một vụ scandal, hậu quả là ngành sản xuất phim thời bấy giờ cũng đi vào khủng hoảng.
12/ Lawrence Of Arabia (Lawrence ở xứ Arập - 1962)
Đạo diễn: David Lean
Nhà SX: Sam Spiegel
Kịch bản: Robert Bolt, Michael Wilson
Diễn viên: Peter O'Toole, Omar Sharif, Alec Guinness, Anthony Quinn, Jack Hawkins, José Ferrer, Anthony Quayle, Claude Rains
Quay phim: Freddie Young
Biên tập: Anne V. Coates
25 năm sau, diễn viên Omar Sharif, một trong những ngôi sao của bộ phim sử thi Lawrence of Arabia nói về bộ phim như sau: “Nếu bạn có tiền và một người nào đó đến bên bạn nói, ông ta muốn làm một bộ phim dài 4 tiếng đồng hồ mà không cần ngôi sao tên tuổi nào, không cần phụ nữ, không quan tâm đến những pha đánh đấm, không có câu chuyện tình nào và sẵn sàng bỏ ra một số tiền lớn để quay nó trong sa mạc, thì bạn sẽ nghĩ thế nào?”
Một thử nghiệm mới của đạo diễn David Lean
Động lực của bộ phim hoàn toàn dựa vào sự tưởng tượng. Không cần sướt mướt hay bạo lực, đạo diễn vẫn biết cách khơi gợi tình cảm và sự chú ý của khán giả và ông tin rằng đứa con của mình sẽ thành công. Ấn tượng nhất của phim là cảnh người hùng T.E. Lawrence làm cuộc hành trình tự sát qua sa mạc, không có nơi trú thân, không nước uống, mà còn phải quay trở lại để cứu một người bạn bị bỏ lại phía sau. Phim bấm máy giữa cái nóng sa mạc với hình ảnh những con người nhỏ xíu từ rất xa. Lawrence of Arabia không chỉ đơn giản là một phim tiểu sử hay mạo hiểm, mà là một bộ phim dùng sa mạc để nói lên sức mạnh tiềm tàng của con người. Dù tronglịch sử, T. E. Lawrence là tác nhân chính trong cuộc vận động những bộ lạc sa mạc đứng về phía quân Anh chống lại người Thổ Nhĩ Kỳ, trong thời gian từ 1914 - 1917, nhưng trong phim ông lại không hành động như một người yêu nước mà là kẻ bác bỏ những chuẩn mực cổ hủ của xã hội Anh, bị cuốn hút vào cái đẹp và bí ẩn của thế giới Ả rập hoang sơ. T.E. Lawrence là một người hùng kỳ lạ nhất, với tính cách thay đổi và là nhân vật trung tâm của bộ phim. Đạo diễn David Lean đã chọn một trong những diễn viên thú vị nhất trong lịch sử điện ảnh Anh quốc: Peter O’ Toole, ngay từ lúc ông chưa được ai biết đến. Khuôn mặt như bức tượng điêu khắc của Peter rất thích hợp vai này. Dù nhiều người tin rằng Lawrence là kẻ đồng tính, nhưng ông lại rất nam tính trong phim. Kịch bản do Robert Bolt và Michael Wilson biên soạn đã cho Peter đất diễn rất rộng để thi thố tài năng. Thông qua O’ Toole, Lawrence đã tái hiện như một người anh hùng quân sự với cả lòng trắc ẩn lẫn sự điên rồ trong cuộc vận động người bản xứ cùng chịu cam khổ trong cuộc hành trình băng qua sa mạc châu Phi. Có lúc O’ Toole, mặc chiếc áo dài trắng, nhảy múa ăn mừng trên nóc toa xe lửa chiếm được của quân Thổ, trong tư thế của một người đang tạo dáng chụp ảnh thời trang. Một trong những nhân vật quan trọng khác của phim là nhà báo Mỹ (Arthur Kennedy đóng), mô phỏng nhà báo Lowell Thomas, kẻ đã bán rẻ những bí mật của T.E. Lawrence cho báo chí tiếng Anh. Arthur thừa nhận là ông ta tìm kiếm một nhân vật anh hùng để tôn vinh trong bài viết. Và nhân vật này chính là Lawrence. Lawrence hạnh phúc kể cho nhà báo những từng trải của mình tại một xứ sở xa lạ...
Trên lộ trình thực hiện sứ mệnh của mình, Lawrence thống nhất nhiều bộ lạc khác nhau trong sa mạc, ông làm bạn với những phó vương sa mạc như Sherif Ali (Omar Sharif), ông Hoàng Feisal (Alec Guinness) và Auda Abu Tayi (Anthony Quinn) bằng cách vừa tranh thủ sự kính trọng của họ, vừa cho họ thấy chính nghĩa đứng về phía người Anh. Lawrence còn trải qua cuộc giằng xé lương tâm khi chứng kiến bạo lực trong chiến tranh, sự tàn bạo của quân Thổ và số phận của những bộ lạc sống trên sa mạc yếu ớt. Trong phim, có lúc ông tự hỏi mình là ai và tự xem mình như người dân thường thay vì một chiến binh.
Thi vị hóa một nhân vật lịch sử
Lawrence of Arabia dựa vào cuộc sống của nhân vật lịch sử có thật T. E. Lawrence tại Arabia thời thế chiến I, đặc biệt là trận tấn công của ông vào Aqaba, Damascus và sự tham gia của ông vào Hội đồng Quốc gia Arab (ANC). Phim bắt đầu bằng cảnh Lawrence như một thường dân lái xe mô tô xuống một con đường nông thôn hẹp ở Anh và bị chết khi ông cố tránh va chạm với hai người đi xe đạp. Tang lễ của ông diễn ra tại nhà thờ St. Paul’s Cathedral. Các phóng viên cố tìm hiểu về người đàn ông bí ẩn này từ những người biết về ông, nhưng họ chỉ thu được rất ít thông tin. Sau đó, phim đưa khán giả trở lại Cairo trong Thế chiến I, nơi Lawrence công tác như một trung úy quân đội viễn chinh Anh và nổi tiếng nhờ sự ngạo mạn và kiến thức về bộ lạc Bedouin. Dù bị tướng Murray (Donald Wolfit) nghi ngờ về năng lực, anh vẫn được Mr. Dryden (Claude Rains) của văn phòng Arab gửi đến giúp ông Hoàng Feisal (Alec Guinness) trong cuộc nổi dậy chống lại quân Thổ, đồng minh của quân Đức. Trong cuộc hành trình của mình, người Bedouin hướng dẫn anh bị tộc trưởng Sherif Ali (Omar Sharif) giết, vì uống nước từ giếng của ông ta mà không xin phép. Ngay bên ngoài lều trại của Feisal, Lawrence gặp sĩ quan giám sát của mình, Đại tá Brighton (Anthony Quayle), và đại tá ra lệnh cho ông giữ im lặng trước khi giới thiệu ông với ông Hoàng rồi bỏ đi. Nhưng Lawrence đã bỏ qua những mệnh lệnh này khi trò chuyện với Feisal. Tính cách thẳng thắn của anh gây ấn tượng cho ông Hoàng. Brighton khuyên lãnh tụ Arab rút lui sau một thất bại lớn, nhưng Lawrence tiến cử giải pháp thay thế: tấn công thành phố chiến lược Aqaba. Nếu chiếm được thành phố này, nó sẽ cho quân Anh một cảng để bốc dỡ những tiếp liệu cho quân nổi dậy, đồng thời bảo vệ họ chống lại một cuộc tập kích từ phía biển. Lawrence thuyết phục Feisal cho anh 15 người, trong đó có Sherif Ali và hai thanh niên mồ côi Daud (John Dimech) và Farraj (Michel Ray) vốn là người hầu cận của anh. Toán quân băng qua sa mạc Nefud khắc nghiệt mà chính người Bedouin còn phải ngán ngại. Họ đi suốt ngày đêm để sớm đến nơi có nước uống. Gasim (I. S. Johar), một thành viên trong đoàn bị ngủ gật và ngã khỏi lạc đà khi đêm xuống mà không ai hay biết. Những người còn lại đến được ốc đảo, nhưng Lawrence quyết định quay trở lại tìm đồng đội, dù biết làm vậy là nguy hiểm tính mạng. Khi anh cứu được Gasim, Ali thực sự cảm kích và chấp nhận anh là bạn. Sau đó Lawrence gặp Auda abu Tayi (Anthony Quinn), lãnh đạo bộ lạc Howeitat đầy quyền lực cai quản khu vực này và thuyết phục Tayi chống lại quân Thổ.
Chuyển biến trong tư tưởng người anh hùng
Kế hoạch của Lawrence tưởng như bị phá sản, khi một người của Ali giết thủ hạ của Auda vì nợ máu. Anh tuyên bố sẽ tự mình xử kẻ sát nhân, nhưng sững sờ khi biết đó chính là Gasim, người anh đã cứu. Dù vậy, Lawrence vẫn bắn Gasim như động thái nhằm xóa bỏ hận thù giữa hai bộ tộc. Liên minh được tái lập, đoàn quân tiến đến Aqaba và chiếm được thành phố một cách không mấy khó khăn. Lawrence trở về Cairo để báo tin chiến thắng cho tướng Dryden và chỉ huy mới của anh, tướng Allenby (Jack Hawkins). Nhưng dọc đường, Daud chết khi ngả vào xoáy cát. Lawrence được thăng hàm thiếu tá, được cho vũ khí và tiền để chi viện cho người Arab. Anh hỏi Allenby có phải người Arab nghi ngờ người Anh sẽ chiếm Arabia sau khi quân Thổ rút đi là đúng? Vị tướng nói ông không phải là nhà chính trị, nên không thể trả lời câu hỏi này. Nhưng sau đó ông lại khẳng định quân Anh không hề có ý đồ này. Được giải tỏa mối nghi ngờ, Lawrence mở cuộc chiến tranh du kích, đánh tan nhiều chuyến tàu hỏa của người Thổ và liên tục quấy rối phe địch. Phóng viên chiến trường Mỹ Jackson Bentley biến anh thành người nổi tiếng thế giới, bằng cách công bố những chiến công của anh. Khi mùa đông đến, nhiều người bộ lạc trở về nhà nên quân số ngày một mỏng dần khó có thể tiếp tục cuộc chiến. Trong một cuộc bố ráp, Farraj bị thương nặng khi chất nổ anh mang nổ quá sớm. Để tránh cho Farraj lọt vào tay quân Thổ và bị tra tấn, Lawrence buộc phải bắn chết đồng đội trước khi đào thoát. Chỉ còn 20 người, anh cùng Ali cải trang lẻn vào thành phố Daraa đang bị quân Thổ chiếm giữ. Họ bị bắt cùng với nhiều người Arab khác và được đưa đến trình diện tướng Thổ Bey (Jose Ferrer), bị đối xử tàn nhẫn và bị ném ra ngoài đường. Nếm trải những kinh nghiệm đau thương, Lawrence ngưng chiến đấu và tìm cách trở lại cuộc sống bình thường. Đến Jerusalem, Allenby khuyên anh quay về với hàng ngũ và tham gia cuộc tấn công lớn vào Damascus. Lúc đó Lawrence đã là một người khác, độc ác hơn. Anh ra lệnh giết chứ không giữ tù nhân, dẫn đến cuộc thảm sát những người lính Thổ tháo chạy tại Tafas. Đa số người tham gia đạo quân của Lawrence là vì tiền hơn là vì người Arab. Dù vậy, họ vẫn chiếm được Damascus trước Allenby. Người Arab thành lập một hội đồng để cai quản thành phố, nhưng hành xử công việc như những người xuất thân từ các bộ lạc, chứ không từ một quốc gia. Không có điện, điện thoại và nước, họ thường xuyên đụng độ với nhau và không lâu sau giao gần hết Damascus cho người Anh. Lawrence được thăng hàm Đại tá rồi qui cố hương, chuyển những cuộc thương lượng chia sẻ quyền hành cho ông Hoàng Faisal, người Anh và người Pháp.
Cơn mưa giải thưởng
Lawrence of Arabia được đề cử 10 Oscar năm 1963 và thắng 7 giải: phim hay nhất, chỉ đạo nghệ thuật, quay phim, đạo diễn, biên tập-cắt ráp phim, âm nhạc, âm thanh. Phim cũng được 4 giải BAFTA (phim Anh hay nhất, nam diễn viên chính (cho Peter O’ Toole), phim hay nhất, kịch bản) và 4 Quả cầu vàng: phim nhựa hay nhất, đạo diễn, quay phim, nam diễn viên phụ (Omar Sharif), diễn viên mới triển vọng (cho Omar Sharif).
Năm 1998, Viện Phim Mỹ (AFI) xếp Lawrence of Arabia hạng 5 trong 100 phim vĩ đại nhất mọi thời. Năm 1999 phim đứng thứ 3 trong cuộc bình chọn phim hay nhất ở Anh. Năm 2004, tạp chí Total Film xếp nó hạng 8 trong những bộ phim Anh lớn nhất mọi thời. Lawrence of Arabia là một thử nghiệm khác của Lean, như ông đã thử nghiệm với Bridge on the River Kwai trước đó và Doctor Zhivago sau này. Không được trao Oscar phim hay nhất năm 1962, Lawrence of Arabia có nguy cơ rơi vào quên lãng, nếu nó không được hai nhà phục chế lừng danh Robert A. Harris và Jim Painten cứu sống. Họ phát hiện ra âm bản gốc của bộ phim nằm trong kho chứa của hãng phim Columbia và đặt trong một chiếc hộp méo mó, rỉ sét. Họ cũng phát hiện ra các nhà phát hành đã cắt rời 35 phút phim từ bản hoàn chỉnh cuối cùng của Lean. Những đoạn phim bão cát sa mạc do F.A. Young quay bằng máy Super Panavision 70 được phục hồi rất tốt. Lawrence of Arabia là một trong ít phim sử dụng âm bản 60mm thay vì 35mm. Phim dài hơn 216 phút, đối thoại dễ hiểu, sạch theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Lawrence of Arabia kinh phí 15 triệu USD vào thời điểm đó. Nhạc nền của nhà soạn nhạc Maurice Jarre.
13/ The Graduate/Sinh Viên Tốt Nghiệp (1967)

Năm sản xuất: 1967
Hãng sản xuất: MGM Home Entertainment
Thời lượng: 105 phút
Thể loại: Hài, tâm lý
Xếp loại: PG
Đạo diễn: Mike Nichols
Kịch bản: Charles Webb (I), Calder Willingham, Buck Henry
Diễn viên chính:
Anne Bancroft ... Mrs. Robinson
Dustin Hoffman ... Benjamin Braddock
Katharine Ross ... Elaine Robinson
William Daniels ... Mr. Braddock
Murray Hamilton ... Mr. Robinson
Elizabeth Wilson ... Mrs. Braddock
Buck Henry ... Room Clerk
Brian Avery ... Carl Smith
Walter Brooke ... Mr. McGuire
Norman Fell ... Mr. McCleery
Alice Ghostley ... Mrs. Singleman
Marion Lorne ... Miss DeWitte
Eddra Gale ... Woman on Bus
Giải thưởng:
* Oscar 1968
Đạo diễn xuất sắc nhất: Mike Nichols
* 19 giải thưởng và 13 đề cử khác
Giới thiệu phim:
Phim hay nhất năm 1968 đóng dấu nét diễn xuất của Dustin Hoffman trong vai Benjamin Braddock.
Bộ phim mở ra khi Benjamin tốt nghiệp Đại học xong trở về nhà và tự mình bắt đầu cuộc sống va chạm với xã hội. Mike Nichols ( đạo diễn phim Who's afraid of Virginia Woolf ? ), với tài đạo diễn thiên tài, đã giúp The Graduate trở thành một phim hài vui vẻ đồng thời cũng tái hiện cảnh chuyển tiếp của chàng thanh niên bị bắt phải lựa chọn nghề nghiệp dưới áp lực của bố mẹ. Trong nỗ lực cố gắng quyết định tương lai, vấn đề của chàng trở nên khó khăn hơn khi bị bà Robinson (Anna Bancroft), vợ của bạn thân của gia đình, quyến rũ. Bancroft đã tinh tế đưa sự gợi cảm hấp dẫn già dặn vào phim. Bắt đầu là phim hài, phim này bỗng nhiên trở thành phim tình cảm khi Benjamin được giới thiệu cho con gái độc nhất của nhà Robinson, cô Elaine (Katharine Ross). Trong lần gặp gỡ đầu tiên, Benjamin cố gắng hết sức để từ chối, nhưng đến hết đêm thì chàng cảm thấy mình bắt đầu yêu Elaine. Chuyện này trở thành một tình huống khá tồi tệ.
Ngoài nét diễn xuất tinh tế của Hoffman, sự đạo diễn xuất sắc của Nichols, và kịch bản truyệt vời của Buck Henry, một phần của sự nổi tiếng của bộ phim đến từ sự thay đổi giá trị xã hội trong những năm 60.
Điểm đáng chú ý khác của phim là nhạc của Simon và Garfunkel. Nhiều bài hát trong phim trở nên vô cùng nổi tiếng và được yêu thích khắp nơi như The Sound of Silence hay Scarborough Fair/ Canticle.Lần sửa cuối bởi alex_ferguson, ngày 08-06-2011 lúc 01:03 AM.
Những Bộ Phim Kinh Điển Hay Nhất Mọi thời Đại



Trả lời kèm Trích dẫn


Đánh dấu