Kết quả 1 đến 6 của 6
Chủ đề: Nguyệt cầm Hàng châu
Threaded View
-
25-06-2011, 08:05 PM #2
Tôi theo nàng lên thuyền. Nàng treo chiếc đèn lồng lên nóc mui và mời tôi ngồi. Những chỗ ngồi cũng được ghép bằng lau lách. Bấy giờ, tôi mới nhìn kỹ được. Đó là một nàng tuổi ngoài đôi chín, da trắng như ngà, tóc tựa mun đen, môi như son tô, cổ tròn ba ngấn. Đặc biệt nhất là đôi mắt. Đôi mắt nàng to, thăm thẳm, mênh mông, vừa ưu sầu, vừa thông minh và thơ trẻ. Đôi lông mày xanh và dài như hai lá liễu Tây Hồ, vừa oai nghi, vừa hiền thục, đều đặn uốn cong trên mắt nàng, làm cho vầng trán trắng xanh của nàng có một vẻ cao quý, thoát tục lạ thường. Nàng mang y phục mầu hồng của loài hoa phù dung lúc về chiều, may bằng lụa Hàng Châu, bên ngoài khoác chiếc áo cừu may bằng lông điêu trắng, dận đôi giày gấm xanh thêu kim tuyến - rõ là trang phục cung đình. Tóc nàng không cài trâm và đeo kim thoa. Mái tóc đen nhánh rất dài của nàng buông suốt theo tấm thân thon thả vô song, và chỉ được trang điểm bằng một vòng đậu đỏ. Lúc này, Phạm tướng quân cũng đã vào khoang cùng nàng tiếp khách. Nhìn cách ăn mặc quá khác nhau của hai người, tôi cứ băn khoăn mà không dám hỏi.
Như đoán được lòng tôi. Tây Thi cười bảo:
- Bộ áo bằng lụa và đôi giày gấm này là do Phạm tướng quân tặng cho thiếp lúc sang Ngô. áo cừu do Phù Sai tặng thiếp lúc ở Cô Tô đài. Thiếp luôn mang chúng trên mình để nhớ cái thời tao loạn ấỵ Vòng đậu đỏ là do mẹ thiếp cho, khi thiếp còn là cô gái giặt lụa ở khe Nhược Gia. Chỉ phương Nam mình mới có giống cỏ đậu nàỵ Hạt của nó rất xinh. Các thôn nữ thường dùng làm đồ trang sức. Xưa nó tượng trưng cho tình yêu, nên cũng được gọi là "hạt tương tư". Còn Phạm tướng quân đây, sau khi bỏ Việt Vương thì chèo thuyền vào hồ, lên núi tu tiên. Tướng quân đắc đạo và không còn gợn mùi trần thế nữa.
- Sao bảo tướng quân đưa cả nàng vào hồ rồi thành ra ông Đào Uyên Minh? - tôi hỏi lại.
- Đấy là do người đời nhớ mến Phạm tướng quân và thiếp mà nghĩ ra thế. Sự thực là ở Ngô về, Câu Tiễn phu nhân hẹp lượng, có lòng nghi kỵ, sợ cái dớp khuynh thành, nên lén sai người bắt thiếp cho vào bao đá, thả chết chìm ở sông Tiền Đường, ngay tại bến Triết Giang! Lúc ấy, Phạm tướng quân đang mải mê phục quốc báo thù, ngày đêm xây dựng Cối Kê thành, chỉ biết cái nạn của thiếp sau khi việc đã xong rồi! Mà nếu biết sớm, phỏng cũng có giúp được gì? Ngày xưa, phận đào hoa nào có ra đâu! Việc xưng hùng xưng bá mới là trọng. Vả lại, thần thiếp lúc ấy cũng là thân nhơ nhuốc rồi. Sau này, Phạm tướng quân thành tiên, thiếp là người của bóng tối, âm dương cách biệt, gặp đấy mà không thể cùng chung xe loan phượng, hàng nghìn năm nay chỉ coi nhau như bạn... Nhưng thôi, thời thế lúc ấy là như vậỵ Chuyện cũng quá lâu rồi, không nhắc lại nữa.
Tôi đưa mắt nhìn Phạm Lãi, thấy tướng quân cúi đầu, vẻ mặt ân hận lắm. Tôi nói:
- Phạm tướng quân là bề tôi kiên trung, giàu chí lớn, lại là người dũng lược mà chí tình. Anh hùng trong thiên hạ được mấy người như thế? Tướng quân thành tiên là phải.
Phạm Lãi chỉ lắc đầu, xua tay không nói.
Tây Thi ra hiệu - Phạm tướng quân trỏ ra giữa hồ, con thuyền nhẹ nhàng tách bến, quay mũi, không ai chèo, không một tiếng động, êm ái lướt đi. Bến Tây Tử xa dần.
Giữa thuyền, trước mặt chúng tôi, là một chiếc bàn vuông thấp, đóng bằng gỗ liễu. Trên bàn có một hồ lô rượu và mấy chiếc chung bằng đồng đúc. Tây Thi trỏ hồ rượu bảo:
- Đêm nay gặp khách thơ, xin cùng uống cạn hồ rượu này!
Nàng rót ba chung rượu và sẽ sàng:
- Rượu này là rượu Thiệu Hưng quê thiếp. Đây cũng là danh tửu Trung Hoa. Uống nguội thì không được, nhờ Phạm tướng quân hâm nóng giúp cho.
Phạm Lãi xòe hai bàn tay trên mấy chung rượu. Tôi như thấy có ánh lửa xanh từ tay chàng bay xuống, lấp loáng trên mặt rượu. Giây lát, chàng thu tay về, Tây Thi mời chúng tôi nâng rượu thưởng trăng. Rượu quả rất ấm. Uống xong, mặt nóng bừng mà tâm trí rất là phấn chấn.
Tây Thi bảo tôi:
- Thiếp và Phạm tướng quân là chủ, còn chàng là khách. Thời giờ còn nhiều, đường còn xa, trước hết thiếp xin đàn một khúc.
Nàng lấy trong ngăn ra một cây đàn nguyệt và lại bảo:
- Đàn này vốn không có ở Trung Hoa. Những người chết chìm oan khiên như thiếp, đều có "Tiềm thủy du pháp", đi lại dưới nước như thần. Mấy năm trước, thiếp theo dòng Trường Giang ra Đông Hải, xuống được tới phương Nam của chàng, học được phép chơi đàn này. Nay xin mạo muội lấy đàn Nam đãi khách Nam. Cây đàn quê chàng, khả năng diễn tấu hẹp, nhưng cần đàn dài, các phím khá xa nhau, dễ nhấn nhá và rất đắc dụng khi biểu lộ những tình cảm sâu xa từ đáy lòng.
Nói rồi, nàng vừa đàn vừa hát:
Đàn chim (hề) cao bay
Vẫy vùng (hề) đường mây!
Thân thiếp (hề) vô tội
Trách trời (hề) độc thay!
Hây hây (hề) gió may,
Trở về (hề) bao ngày!
Lòng đau (hề) như cắt
Nước mắt (hề) vơi đầy...
Thuyền đị Nàng đàn và hát. Phạm Lãi và tôi uống rượu, nghe đàn. Thuyền đi mãi, ra khỏi hồ rồi theo sông đi nữa. Càng hát, mặt hoa càng đầm đìa nước mắt. Phạm Lãi vò đầu bứt taị Lòng tôi tan nát.Bà kia tuổi sáu mươi rồi
Mà sao vẫn phải sầu ngồi bán khoai
Cụ kia tuổi bẩy mươi hai
Mà sao ong bướm mệt nhoài chán chê…
Nguyệt cầm Hàng châu
Đánh dấu