Nhưng vì sao nàng lại hát bài này? Đây là bài hát mà chính Câu Tiễn phu nhân, khi sang Ngô ở bến Triết Giang ngày ấy, đã hát kia mà?

Chợt nàng buông đàn, ngửa mặt lên trời mà than rằng:

- Phu nhân cũng là đàn bà như thiếp. Lòng phu nhân cũng biết vui buồn như thiếp. Sao phu nhân nỡ bắt thiếp chết tức tưởi như thế? Hỡi phu nhân!

Lòng tôi đau đớn quá! Dù chuyện xảy ra đã rất lâu, nhưng thật khó mà những người đàn bà tha thứ cho nhau! Khốn nỗi, nàng càng khóc càng sầu thì càng đẹp. Mà thế thì biết nên khuyên giải thế nào!

Lại không để tôi phải khuyên giải, nàng lau nước mắt trỏ ra bờ sông nghẹn ngào:

- Kia chính là bến Triết Giang!

Tôi nhìn ra, dưới ánh trăng, chỉ thấy hai bờ um tùm cây lá, đâu có thấy bến bãi nào! Tôi nhìn nàng. Tây Thi sụt sùi kể:

- Sau khi thiếp chết, mọi người thương cảm, không dùng bến cũ nữa. Bến mới bây giờ lùi lên tới Cối Kê thành.

Một lát, rồi nàng cũng nguôi ngoai. Nàng bảo với Phạm Lãi:

- Phạm tướng quân nên đưa khách thăm Cối Kê!

Phạm Lãi trỏ tay ngược lại, con thuyền ngoan ngoãn quay mũi. Một lúc, bên bờ đã thấy một quả núi hình con rùa rất lớn. Phạm Lãi trỏ quả núi kể rằng:

- Rời Ngô sau ba năm, ba tháng khốn cùng, Việt Vương muốn ghi sâu trong lòng cái nhục Cối Kê, bèn lệnh thiên đô ra đây và giao cho tôi lo liệu. Tôi xem thiên văn, xét địa lý, lập ra một cái thành mới, bao bọc núi Cối Kê ở trong. Phía Tây Bắc lập Phi Dục lâu ở núi Ngọa Tang để làm thiên môn. Phía Đông Nam lập Thạch Đậu lâu để làm địa bộ. Còn mặt Tây Bắc thì để không và nói phao lên rằng, không dám lấp đường cống tiến nước Ngô vì đã thần phục nước Ngô rồi, nhưng kỳ thực là để tiện đường đánh Ngô sau đó. Khi thành đắp xong, bỗng thấy trong thành mọc lên quả núi nàu. Núi hình con rùa, chu vi mấy dặm, cây cỏ rậm rạp. Có người trông quả núi, nhận ra đó chính là núi Đông Vũ ở xứ Lang Gia, không biết cớ sao lại bay đến đây được. Tôi tâu với Việt Vương rằng, đó là điềm nước Việt nên được nghiệp bá. Việt Vương mừng lắm, đặt tên núi là Quái Sơn cũng gọi là Phi Lai Sơn - núi bay đến từ nơi khác - hay còn gọi là Quy Sơn - núi con Rùa. Việt Vương, từ khi nếm phân đoán bệnh cho Phù Sai, thành ra có bệnh hôi miệng. Tôi biết có một nơi có thứ rau trấp, ăn được nhưng có mùi hôi, mới sai người đi hái rau trấp về cả triều cùng ăn, để vua không phải hôi miệng một mình nữa...

Kể mãi, rồi Phạm Lãi thở dài:

- Tôi biết Việt Vương chỉ có thể cùng sống lúc hoạn nạn, chứ không thể chung sống khi sung sướng, nên sau khi phá Ngô, tôi bỏ vào hồ. Tôi có rủ Văn Chủng, ông ấy không nghe, thành ra phải "bất đắc kỳ tử". Thật đau lòng quá! Còn Tây Thi, nàng đã kể chuyện mình. Đâu còn có thể có chuyện gì giữa một người cõi tiên và một người cõi âm được.

Nói rồi, Phạm Lãi lại thở dài, nhìn trân trân lên Phi Lai Sơn.

Dù Tây Thi có bảo, Phạm tướng quân tu tiên đắc đạo, không còn bén mùi trần, nhưng xem ra thì chưa hẳn. Trong lòng chàng vẫn âm ỉ câu chuyện hai ngàn năm trăm năm trước. Dù sao, chuyện Phạm Lãi và Tây Thi bỏ vào hồ sống với nhau, rõ ràng là chuyện thêu dệt của đời sau.

Tôi hỏi Phạm Lãi:

- Phạm tướng quân nói gì về các mối bang giao?

Phạm Lãi rót rượu uống, thong thả nói:

- Lâu quá rồi tôi không xem chính sự. Dù sao thì lòng yêu nước, chí quật cường là có thật. Tôi vẫn luôn kính trọng những người vì nước quên thân, nhưng việc can qua là việc nên tránh. Nếu không sẽ còn bao nhiêu Tây Tử nữa đây!

Phạm Lãi quay sang nói với Tây Thi:

- Đã quá canh tư rồi, nên dừng để canh năm Tây Tử còn hồi viên.

Tây Thi gật đầụ Phạm Lãi trỏ xuôi. Con thuyền quay mũi rồi từ sông lại đi vào hồ, lát sau đã thấy Tây Tử lâu trước mặt.

Về tới bến, Tây Thi bảo Phạm Lãi dừng thuyền. Nàng nâng chén mời tôi và nói:

- Chỉ một canh nữa là thiếp phải xa chàng. Thiếp biết lòng chàng ngưỡng mộ và thương xót thiếp lắm. Thật chẳng có ai như chàng, xa xôi đến thế mà để lòng thăm viếng thiếp, thiếp vô cùng cảm tạ. Nếu những điều thiếp nói đêm qua có gì chưa phải, chàng bỏ quá cho! Dù sao thiếp cũng chỉ là đàn bà. Một canh còn lại này, ta uống hết hồ rượu này và xin chàng cho thiếp một bài thơ nữa. Từ nay đâu còn có thể gặp nhau.

Tôi bảo, thơ Trung Hoa viết về nàng đã nhiều và hay lắm rồi, tôi không dám cầm bút nữa. Nàng và Phạm Lãi đều cố năn nỉ, rằng bài thơ thả xuống hồ làm hai người rất cảm phục; rằng chỉ những kẻ cao ngạo mới nói, đã có thơ Trung Hoa rồi thì không cần làm thơ nữa; rằng thơ cốt ở lòng chứ không ở thuật...

Cuối cùng, "cung kính không bằng vâng lệnh", mà đây là lệnh của Tây Thi chứ của ai, tôi bằng lòng. Thế là nàng lấy bút, bảo tôi đọc thơ cho Phạm Lãi chép lên giấy tốt. Bài thơ tôi tặng nàng gọi là bài "Nghe đàn nguyệt ở Tây Hồ". Thơ như sau:

Tơ trắng muốt căng qua trăng viên mãn.
Chiếc cần đàn mảnh như phận người con gái
Nàng đang buông bắt trên cần đàn
Những thanh âm bật ra từ bầu trăng tròn ấỵ
Ta vào hồ trăng.


Lúc đầu, tiếng nàng là của nàng.
Nghe một dạo, ta thấy đó là gió, cây, mây và sương thu lên tiếng.
Nghe một dạo nữa, ta lại thấy tiếng đàn bật ra từ ngực tạ
Lúc nàng dạo nhẹ, nhịp điệu rất thong thả, ta nghe được cả tiếng thở dài.
Lúc nàng gảy mau, như thác đổ xuống thác, ta vẫn
thấy tiếng thở dài ấm áp của nguyệt cầm.
Đến khi nàng dừng tay, thì chính im lặng lại làm
nên những thanh âm ta chưa bao giờ được biết.
Từ ấy, cứ khi nào im lặng kéo đến, ta lại nghe văng vẳng nguyệt cầm.
Từ ấy, khi xa nàng, ta chỉ còn yêu sự im lặng.

Nghe xong, nàng khóc và bảo:

- Hóa ra dưới gầm trời này, vẫn có người thương thiếp đến thế! Hóa công há chẳng rộng lòng với thiếp lắm ru! Từ nay, thiếp xin giải hết mối sầu hận ở trong lòng.

Đưa tôi lên bờ, mặc Phạm Lãi giục mãi, nàng cứ dùng dằng chẳng đi. Tôi cũng chỉ mong trời đừng sáng nữa. Chợt xa xa vẳng lại tiếng gà. Nàng giật mình, tái mặt, rồi nói:

- Chết nỗi! Gà báo canh năm rồi, thiếp không thể lưu luyến được nữa. Xin chàng hãy bảo trọng!

Nói rồi nàng gạt lệ, cùng Phạm Lãi xuống thuyền.

Bỗng chốc đã không thấy gì nữa...