Trong lịch sử, Nhật Bản đã hai lần bị tấn công, vào các năm 1274 và 1281 thời Nguyên Mông, từ bán đảo Triều Tiên và qua biển. Nhưng Trung Quốc đại bại và chỉ để lại ý nghĩa quyết tử trong chữ Thần Phong, kamikaze! (Nước Đại Việt thì chẳng có thần phong bảo vệ nhưng đã ba lần dập tắt ảo vọng bách chiến bách thắng của quân Mông Cổ, đấy là chuyện đáng nhớ khác).

Sống trên hải đảo, người Nhật có hai khuynh hướng trái ngược, nhưng đổi ý mà ít khi báo trước: báu gươm rút ra hay tra vào thì cũng đột ngột như tiếng sét. Hay một trận động đất!

Khuynh hướng thứ nhất là đóng cửa với bên ngoài để bảo vệ bản sắc bên trong, như từ thế kỷ thứ chín đến thể kỷ 12, hoặc từ đầu thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 19 khi bị Phó Đề đốc Matthew Perry của Hải quân Mỹ gõ cửa bằng đại bác làm rung chuyển Mạc phủ Đức Xuyên (dòng Tokugawa).

Khuynh hướng thứ hai là bung ra ngoài để học hỏi và bắt chước mọi tinh hoa thế giới, là chuyện xảy ra giữa thế kỷ thứ sáu để du nhập Phật giáo và Khổng giáo từ Trung Hoa, hay trong thế kỷ 16 để học hỏi kỹ thuật của Hoà Lan và Bồ Đào Nha. Lần mở cửa dữ dội nhất chính là sau năm năm 1853, khi bị pháo hạm Mỹ uy hiếp.

Thời ấy Trung Quốc đang bị liệt cường sâu xé, Nhật cũng bế quan toả cảng để thủ thân. Nhưng Hoa Kỳ đòi mở cửa buôn bán nên nước Nhật phải chọn: có đóng cửa như nhà Đại Thanh thì vẫn là thuộc địa, chi bằng mở ra để canh tân đất nước. Cuộc Cách mạng thời Minh Trị từ năm 1868 không chỉ là việc duy tân mà còn là chọn lựa mới, từ hướng nội sang hướng ngoại.

Con cháu Thái Dương Thần nữ bèn bước ra ngoài, nhưng dụng võ hơn dụng văn. Trong cõi bi hùng hai ngả, họ lấy hùng hơn là bi.
Chuyện Giáp Ngọ là khi người Nhật rút gươm khỏi vỏ thì thế giới rùng mình.

Từ thời Minh Trị, Nhật Bản cho sứ giả và sinh viên đi học khắp nơi. Hàng hải của Anh, khoa học của Đức, hay kinh doanh và chính trị của Mỹ, v.v... họ đều học và hành rất nhanh. Nhưng họ canh tân không với ý chí là để khỏi bị thống trị mà để tranh đua với Tây phương. Những gì các nước Tây phương làm được, tại Ấn Độ hay Trung Quốc, Đông Dương, Nam Dương, thì Nhật cũng sẽ làm. Trước hết là ở các khu vực ngoại vi của lãnh thổ.

Vì vậy, Đài Loan được chiếu cố vào năm 1874 để mở rộng vùng trái độn cho quần đảo Ruykyu, (chư đảo Lưu Cầu), bên trong có cả mấy hòn đảo Senkaku bé xíu ngày nay. Sau đó, đến lượt Triều Tiên được chiếu cố: triều đình Cao Ly phải mở cửa làm ăn với Nhật! Trong gần hai chục năm, mâu thuẫn cứ tích lũy dần trên bán đảo, cho đến khi Cao Ly có loạn giữa hai ngả úp mở và hai phe thân Tầu và thân Nhật, thì Nhật Bản rút gươm.

Vì Cao Ly được Mãn Thanh coi là chư hầu và gửi quân vào dẹp loạn, nên trận chiến Nhật-Hoa chính thức bùng nổ, vào ngày một Tháng Tám năm 1894, là mùng một Tháng Bảy Giáp Ngọ!


Hải quân Trung Quốc vào thời Đại Thanh không thể là đối thủ của Nhật, Lục quân cũng vậy. Quân Nhật thừa thắng, từ Triều Tiên vượt sông Áp Lục đánh tới Mãn Châu, đất thang mộc của nhà Mãn Thanh. Ở ngoài biển thì chiếm luôn quần đảo Bành Hồ nằm giữa Đài Loan và Trung Quốc và vượt sóng Trường Giang tiến sâu vào Hoa lục.

Ngày 17 Tháng Tư năm 1895, Trung Quốc đầu hàng qua "Hòa ước" Shimonoseki, xin công nhận nền độc lập của Cao Ly, nhượng cho Nhật nào Bán đảo Liêu Đông, nào Đài Loan và các đảo Bành Hồ, lẫn quyền buôn bán trên sông Dương Tử và tại nhiều thương cảng, kèm theo tiền... bồi thường chiến tranh. Sau này, tính tổng cộng thì trị giá 36 triệu lượng bạc, tương đương với 13 ngàn 600 tấn.

Dù Thanh triều phải ký hòa ước xin hàng, nhiều quan chức vẫn còn tử thủ tại Đài Loan và tuyên bố thành lập Đài Loan Dân Chủ Quốc (Republic of Formose). Chiến sự chỉ kết thúc váo Tháng Mười khi Đô đốc Monotori Kabayama đưa quân vào dẹp. "Tổng thống" Đài Loan phải giả làm cu li trốn vào một tầu buôn của Anh để bỏ chạy vào lục địa.

Chi tiết lý thú – mà đau lòng – là ông Tổng thống này chính là Lưu Vĩnh Phúc. Đấy là viên thủ lãnh Giặc cờ đen năm xưa đã được triều Tự Đức mời vào chống Pháp và đạt thành tích giết chết hai tư lệnh viễn chinh của Tây tại Ô Cầu Giấy của Hà Nội, là Đại úy Hải quân Francis Garnier năm 1873 và Đại tá Hải quân Henri Rivière vào năm 1883. Chi tiết ấy khiến ta nghĩ đến chuyện duy tân hụt, và nỗi buồn của những người xin triều đình cải cách, như Nguyễn Trường Tộ hay Nguyễn Lộ trạch....


Lưu Vĩnh Phúc, thủ lãnh giặc Cờ Đen tại Việt Nam thời 1873-83, Tổng thống thứ hai của "Đài Loan Dân Quốc" thời 1895. Bị quân Nhật rượt đuổi trong trận Chiến tranh Hoa Nhật mà thoát chết khi giả làm cu li trốn trong một thương thuyền của Anh. Thương thuyền bị Hải quân Nhật Bản chặn lại khám xét mà nhờ nằm dưới đáy tầu, họ Lưu vẫn thoát vì người Nhật không biết mặt! Về sau, Lưu chết già bên Tầu, nhưng vẫn có tượng có tên ở thành phố cổ Đài Nam của "Republic of Formosa" trước khi Đài Loan rơi vào tay Nhật Bản từ 1895 đến 1945...