Kết quả 1 đến 10 của 1170
Chủ đề: Cà phê Đen II
Threaded View
-
20-02-2014, 07:46 AM #11
Cà phê
Cà phê và thuốc lá gắn bó với nhau như bóng với hình, một đằng là “nghiện” cafeine và một đằng là nicotine. Thực ra, chẳng có cái nào đáng được gọi là tốt đẹp nhưng suy cho cùng, “ghiền” cà phê vẫn còn đỡ hơn “nghiện” thuốc phiện,
Điều kỳ lạ là người nghiện cà phê cảm thấy như được sảng khoái hẳn lên khi chất cafeine được nạp vào cơ thể.
Theo một truyền thuyết, khoảng năm 1671, những người chăn dê ở Kaffa (phía tây Ethiopia ngày nay) phát hiện ra một số dê trong đàn sau khi ăn một cành cây có hoa trắng và quả màu đỏ đã chạy nhảy không mệt mỏi cho đến tận đêm khuya. Họ bèn đem chuyện này kể với các thầy tu. Sau đó các thầy tu đã đi xem xét khu vực ăn cỏ của bầy dê và phát hiện ra một loại cây có lá xanh thẫm và quả giống như quả anh đào. Như vậy có thể nói rằng nhờ đàn dê này mà con người đã biết đến cà phê!

Hương vị cà phê thế nào thì những người nghiện hay không nghiện cà phê đều đã có dịp trải qua. Nhưng mùi hoa cà phê chắc chỉ một số ít người được thưởng thức
Có điều, mùi hương thoảng theo gió rất dịu nhẹ nhưng đến gần mùi đó trở thành hăng hắc. Một số người có thể bị dị ứng với hoa cà phê khi đến gần

Hoa cà phê
Chuyện dê phát hiện ra thứ nước uống “thần kỳ” thuộc về… thần thoại. Nhưng nhiều học giả vẫn quả quyết là tỉnh Kaffa của Ethiopia tận bên Phi châu là vùng đất trồng cây cà phê đầu tiên trên thế giới từ thế kỷ thứ 9. Đến thế kỷ thứ 14 những người buôn nô lệ đã mang cà phê từ Ethiopia sang vùng Ả Rập nhưng tới thế kỷ thứ 15 người ta mới biết rang hạt cà phê lên và sử dụng nó làm đồ uống.
Cách thức pha chế cà phê truyền thống của người Ethiopia dĩ nhiên là cách thức cổ xưa nhất. Họ để hạt cà phê vào một cái chảo sắt to và rang lên, sau đó được nghiền vụn hoặc cho vào cối giã thành bột cà phê. Chỗ hạt giã vụn đó được trộn với đường trong một cái bình gọi là “jebena” (một loại bình cổ thon có quai) và được nấu lên rồi đổ ra bát. Thế là đã có “bát” cà phê thơm ngon để thưởng thức.
Theo nhiều tài liệu, quán cà phê đầu tiên được mở ở Ba Tư, tức Iran ngày nay. Trong những quán nhỏ ở vùng Tiểu Á, Syria và Ai Cập người ta gặp nhau tại đây để thưởng thức loại thức uống kỳ lạ. Kể từ năm 1532, các quán cà phê này luôn đông nghịt khách.
Vào thế kỷ 17 cây cà phê được trồng phổ biến tại các thuộc địa của Hà Lan, đưa nước này lên vai trò thống trị ngành thương mại cà phê. Ở Constantinopolis (Istanbul ngày nay) cà phê được biết đến lần đầu tiên vào năm 1517. Đến năm 1645, quán cà phê đầu tiên của Ý được mở ở Venezia, tức thành phố sông nước hữu tình Venise.
Tại Anh, lần lượt xuất hiện các quán cà phê từ năm 1650 ở Oxford và năm 1652 ở London. Ở Pháp những quán đầu tiên được khai trương vào năm 1659 tại thành phố cảng Marseille và tiếp đó là Paris vào năm 1672.
Vào năm 1683, thành phố Wien (Viena), thủ đô của Áo, cũng có quán cà phê đầu tiên do một người Ba Lan làm chủ sau khi nước Áo giành thắng lợi trước Thổ Nhĩ Kỳ và tịch thu được… 500 bao cà phê “chiến lợi phẩm”. Wien sau đó trở thành một thành phố với những quán cà phê nổi tiếng nhất.

Một quán cà phê cổ ở Palestine
Người Pháp chiếm Việt Nam làm thuộc địa và họ cũng thiết lập tại đây những đồn điền trồng các loại cây mà sau này gọi là “cây công nghiệp”: cây cao su tại miền Nam từ năm 1879, cây cà phê năm 1888 tại miền Bắc và sau đó là cây chè (1924). Chính phủ bảo hộ lập đồn điền cà phê đầu tiên tại Kẻ Sở ở Tonkin (Bắc Kỳ) với giống cà phê Arabica, hay còn gọi là cà phê chè, được mang từ đảo Bourton sang. Sau khi thu hoạch cà phê được mang thương hiệu Arabica du Tonkin và xuất cảng sang Pháp.
Giống Arabica có năng suất thấp và chất lượng kém nên sau đó được du nhập thêm giống Robusta (gọi là cà phê vối) và giống Mitcharichia được gọi là cà phê mít kể từ năm 1908. Đồn điền cà phê được thành lập tại nhiều nơi ở Bắc kỳ như Hà Tĩnh (1910), Yên Mỹ, Thanh Hóa (1911), Nghĩa Đàn, Nghệ An (1915). Mãi đến năm 1925 mới được trồng ở vùng cao nguyên phía Nam như Ban Mê Thuột, Kontum và Di Linh.
Thuở ban đầu người Việt chỉ biết cắm cúi trồng và chăm sóc cây cà phê, đến khi ra trái người Pháp lại “xuất cảng” về chính quốc. Uống cà phê vào thời đó là một cái thú của các quan thuộc địa và một số ít người bản xứ “có máu mặt”. Công nhân các đồn điền cà phê chỉ biết “đổ mồ hôi, sôi nước mắt”, bán sức lao động để kiếm cơm.
Claude Bourrin, nhân viên sở thuế đã từng sống và làm việc ở Hà Nội, ông cũng là cây bút viết ký sự về Bắc kỳ xưa, đã ghi lại một số những quán “cà phê Tây” từ năm 1885 trên đường Pháp Quốc (sau đổi thành Paul Bert và nay là đường Tràng Tiền) như quán cà phê Thương Mại, Sĩ Quan, Hòa Bình,Paris, Quảng Trường...
Chủ quán cà phê Sĩ Quan là De Beire, người phụ nữ hiếm hoi có mặt rất sớm ở Hà Nội. Đây là nơi tụ họp của những người lính viễn chinh, họ đến quán để gặp bạn bè, đánh bài và giải khát. Đôi khi nước giải khát được thêm vào những cục đá lạnh được chở đến từ Hải Phòng.
Những quán cà phê Pháp ở Hà Nội là cả một xã hội thu nhỏ giữa cánh nhà binh phiêu bạt và giới cai trị đầy uy quyền của chính phủ bảo hộ. Claude Bourrin cũng mô tả thân phận người bản địa bên phố cà phê, đó là những đứa trẻ đói rách, giành giật nhau để được giữ ngựa cho khách.

Cối xay cà phê ngày xưa
Cây cà phê được trồng trước tiên tại miền Bắc nhưng những quán cà phê lại mọc lên như nấm tại miền Nam. Theo nhà văn Sơn Nam , tại Sài Gòn khoảng năm 1864, đã thấy xuất hiện hai tiệm cà phê do người Pháp làm chủ, đó là quán Lyonnais trên đường De Lagrandière (sau đổi thành đường Gia Long và nay là đường Lý Tự Trọng) và Café de Paris trên đường Catinat (sau đổi thành đường Tự Do và ngày nay là Đồng Khởi).
Khách sạn Continental bên cạnh Nhà hát Thành phố cũng có một khu vực cà phê lộ thiên, nói theo ngôn ngữ bình dân là “cà phê vỉa hè”, nhưng ngược lại, đây là nơi sang trọng dành cho khách Tây thuộc địa. Tại khu vực quận nhất, nhiều quán cà phê cũng nhanh chóng xuất hiện như Café de la Musique, Grand Café de la Terrasse, Café des Fleurs... để phục vụ lính viễn chinh lẫn người bản địa giàu có,
Thời chiến tranh Việt Nam cũng là lúc các quán cà phê mọc lên như nấm sau mưa. Edith Lederer, nhà báo lão thành của Associated Press, hồi tưởng lại chuyện các quán cà phê Sài Gòn: “Văn phòng của AP nằm trong tòa nhà Eden. Nhà báo chúng tôi ngồi ở Givral, Brodard và La Pagode nói đủ chuyện trên đời và nghe ngóng tin tức”.
Cái gọi là “Trục Cà Phê” La Pagode-Givral-Brodard đã từng một thời là trung tâm báo chí của chiến tranh Việt Nam, nơi quy tụ những phóng viên hàng đầu về báo chí như Peter Arnett, Larry Burrows... Từ đây những thông tin nóng hổi về cuộc chiến đến tay người đọc khắp thế giới.

Cà phê “vỉa hè” tại Khách sạn Continental
Cà phê Đen II





Đánh dấu