Kết quả 11 đến 16 của 16
Chủ đề: Trư bát giới .
-
12-08-2011, 12:04 PM #11
Giai thoại tình yêu !
Ai đã xem “Tây Du ký” phát hành 1986 ,tập 16 “ Thỉnh kinh Tây Lương nữ quốc “ hẳn còn nhớ mãi những cảnh Nữ Quốc vương của “Nữ nhi quốc” ve vãn Đường Tăng và những đoạn đối thoại qua lại giữa hai người.
Nữ Quốc vương thì yêu say đắm vị sư nhà Đường đến phát cuồng,mê dại , còn Đường Tăng cũng phải ra sức đấu tranh để kìm hãm tình cảm trai gái tưởng chừng đã dẹp bỏ được mà nay chỉ chực trỗi dậy…
Nhiều người đánh giá đây là một tập phim hay nhất, thành công nhất…
::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::;
Lời thoại trong phim chính là xuất phát tự cõi lòng của 2 diễn viên Từ Thiếu Hoa( ĐT ) và Chu Lâm ( vai T L N Q)
- "Tùy vào đạo hạnh của sư phụ mà thôi" ( TNK tập này nói với ĐT thâm thật)
-Hỏi thánh tăng, tình nhi nữ có đẹp hay ko? ( nhu mì,êm ái lay động lòng trần )
- Chàng ơi! Hãy mở mắt ra nhìn thiếp nào! Chàng cứ nói “sắc sắc không không”, thế mà chẳng dám mở mắt ra nhìn thiếp!
-Trở thành Thánh Tăng để làm chi hỡi chàng? Chi bằng chàng ở lại cùng thiếp, hưởng cuộc sống vinh hoa phú quý, chàng là hoàng thượng, còn thiếp sẽ là hoàng hậu...
- Đời này bần tăng đã hiến thân cho cửa Phật với mong muốn cứu độ chúng sinh khiến cho đời này không còn giết chóc, tranh giành đau khổ, không còn những oán thù hay những bản tình lang.
- Vây thì với tấm lòng từ bi, trước mắt chàng đây đang có một chúng sinh cần Thánh Tăng cứu độ.
-Giá như chàng không phải là Đường Tăng, giá em chẳng phải Nữ vương nặng gánh sơn hà. Em và chàng sẽ ngao du đến tận nơi cuối bể chân trời, trao nhau những lời thơ tình ấm nồng, hơi men làm đôi má em khẽ lựng, mắt chàng tinh tứ và mắt em e thẹn. Ta trao nhau ngày tháng mặn nồng và tình đẹp mãi thiên thu
-Giấc mộng này, đến bao giờ mới thành sự thật? Ngự Đệ ơi!
Chàng vẫn cương quyết ra đi ư?
Chàng đi đường bình an! Thỉnh kinh xong, chàng nhớ quay lại Tây Lương Nữ Quốc với thiếp nhé!
Nhưng giấc mộng không thành, Tây Lương Nữ Vương buồn bã dõi theo bóng hình ai dần xa khuất
Những cảnh đâc sắc nhất trong tập phim:
* Lần gặp mắt đầu tiên, khí chất và vẻ đẹp của một của vị Thánh Tăng đã làm Nữ vương động lòng, mê mẩn. Chả trách Đường Tăng thưa đến ba lần mà nàng vẫn ngồi im như pho tượng, mắt ngây dại ngắm nhìn Ngự Đệ. lúc ánh mắt của 2 người này vô tình chạm nhau...thật sự làm người xem ...
* TLNQ Toàn tâm, toàn ý hoạ hình người trong mộng chỉ sau 1 lần gặp mặt
* Giấc ngủ mơ màng, mơ ngay về Ngự Đệ . Một giấc mơ ,mơ về một ngày chàng và thiếp cùng cưỡi ngựa ,cùng sóng đôi trên những bãi đất mênh mông,cùng nhau cho cá ăn , cùng đắm say giấc mơ hạnh phúc, chìm đắm trong giấc mộng hương tình, cùng mang đến hạnh phúc cho nhau .Giấc mơ sẽ mãi là giấc mơ .Giá như đêm dài hơn ,giá như thiếp luôn mơ giấc mơ ấy khi an giấc ,giá như...giá như giấc mơ ấy thành hiện thực !
* E thẹn sau rèm chờ gặp chàng Ngự Đệ.
* Kiều diễm trước mắt Thánh Tăng , thánh tăng giật mình thảng thốt vội nhắm mắt lại
* Cảnh hai người gặp nhau ở phòng riêng của Nữ Vương ,ĐT làm rớt tấm áo cà sa và rõ ràng là chỉ thiếu chút xíu nữa thôi thì Đường Ngự Đệ chấp nhận ở lại làm vua Nữ quốc rồi
* Cảnh cuối phim, lúc Nữ Vương nuốt nước mắt đóng dấu lên công văn tiễn ĐT và ba đệ tử lên đường, khi ĐT leo lên ngựa nàng còn chạy theo một quãng, ĐT có dừng ngựa lại nhưng ko dám quay hẳn đầu lại nhìn Nữ Vương ( sợ quay lại nhìn thì ko thể đi tiếp được nữa) .
* Khi giấc mộng không thành, hình ảnh Tây Lương Nữ Vương đứng trông hình bóng Đường Tăng đang dần dần khuất mờ mà trong lòng buồn đau khôn xiết.
Giọt nước mắt chia ly cuốn vào niềm hy vọng sẽ có kiếp sau .Vị Nữ vương xinh đẹp và quyền uy ấy vẫn là một cô gái bình thường ,vẫn luôn có những khát khao như bao người con gái .Khát khao về một tình yêu ,đối với người con gái ấy ,thật quá xa vời .
Ở đoạn hội thoại lúc Nữ vương và Đường Tăng cùng đi dạo trong vườn thượng uyển:
* Cảnh hữu tình mà người cũng hữu ý. Người con gái ấy lặng lẽ hỏi vị thánh tăng rằng:
-- " nữ nhi có đẹp hay không? "( là rất nhu tình, e ấp mà cũng không kém phần tha thiết, mặn nồng ).
Thử hỏi có trang nam nhi nào có thể kiềm được lòng mình trong khung cảnh nên thơ hữu tình lại cùng một người con gái đẹp nữa? Đôi uyên ương trong vườn có thể cùng chắp cánh bay lượn giữa trời cao, đôi bướn có thể lượn bay vui đùa dập dìu trong vườn xuân, đôi ngỗng có thể cùng bơi dưới hồ nước yên ả lặng sóng thì sao chàng và thếp lại không thể nên duyên đôi lứa cùng dệt giấc mộng hương tình đẹp nhất thế gian này. Đúng là tạo hóa xe duyên, cho người và cảnh hòa hợp với nhau.
Đường Tăng nói rằng:
- Đời này bần tăng đã hiến thân cho cửa Phật với mong muốn cứu độ chúng sinh khiến cho đời này không còn giết chóc, tranh giành đau khổ, không còn những oán thù hay những bản tình lang.
Nữ vương đáp lại:
- Vây thì với tấm lòng từ bi, trước mắt chàng đây đang có một chúng sinh cần Thánh Tăng cứu độ.
Không phải là một lời đong đưa mà là một thỉnh cầu thật tâm của người con gái khát khao hạnh phúc, khát khao được yêu và khát khao tìm được một người chồng thật sự.
Đường Tăng thì lại có hoài bão lớn lao và trách nhiệm cao cả đó là giải thoát chúng sinh. Còn những người phụ nữ như Nữ vương lại chỉ mong những điều bình dị của cuộc sống đó là được sự yêu thương
Đó cũng là cái trớ trêu của số phận!
Tại sao đã là một người xuất gia lại không thể đem tình yêu thương đó với một người con gái, tại sao yêu thương chúng sinh nhưng lại không thể yêu thương một người con gái. Chẳng lẽ người con gái đó không phải là một chúng sinh sao? Tu hành là để con người ta giải thoát chính mình khỏi những nỗi khổ đau của trần thế chứ đâu phải để từ bỏ hạnh phúc của mình để rồi lại rơi vào nghiệp luân hồi của chia li sầu khổ…..
Hay nhất trong tập phim vẫn là đoạn mà Đường Tăng và Tây Lương cùng ở trong cấm cung ( Đoạn phim này đã được 2 diễn viên là Chu Lâm và Từ Thiếu Hoa diễn rất đạt ).
Đây là đoạn phim "Xem quốc bảo" nổi tiếng trong phim Tây Du Ký khi Thái sư lừa Đường Tăng đi xem " báu vật " của Tây Lương Nữ Quốc.
Mới vừa vào phòng thì ĐT gặp Nữ vương mặc chiếc áo mỏng tang nằm trên long sảnh với tư thế rất gợi cảm buông sau tấm rèm ngủ. Quan Thái sư lúc ấy lại mau chóng rút lẹ để Đường Tăng ở lại lúng túng, bối rối. Lúc ấy Nữ vương mới ngồi dậy, nhẹ nhàng tiến gần bức rèm ngủ vén lên nói rằng : “Chẳng lẽ trong mắt của Ngự đệ ta không đáng là quốc bảo sao”.
Phải! Nữ vương chính là thứ quốc bảo quy giá nhất của Tây Lương nữ quốc, và thứ quốc bảo này lại chỉ có thể đi xem vào ban đêm cơ chứ. Đó không phải là thứ quốc bảo bằng vật chất mà là tinh thần và đó cũng là thứ quốc bảo để tặng Đường Tăng.
Còn trong mắt của ông sư ngố này liệu quốc bảo trong lòng ông ta là thế nào nhỉ? Liệu ông ta có coi nữ vương là quốc bảo của Tây Lương không? Ở trên đời này mọi thứ vật chất chỉ là phù du cát bụi chỉ có tình cảm giữa người với người mới là thứ đáng quý nhât, nữ vương đã giành thứ tình cảm chân thành đó cho Đường Tăng và nó cũng chính là thứ báu vật quý giá nhất trên đời này!
- “ngự đệ có thấy không, ngọn đèn như thấu hiểu tình người sáng soi cho ngày vui hôm nay”.
TLNQ mượn ngọn đèn để soi tỏ tình chàng ý thiiếp, mượn “vật” để nói lên “tình”, người và vật cùng tri âm. Và nó cũng là thứ để khơi gợi tình cảm trong lòng Ngư đệ ca ca.Còn Đường Tăng nhà mình khi được tỏ tình thì lúng ta lúng túng . Ai đời lại để cọc đi tìm trâu chứ nhỉ? ( cái thứ ông sư ngố)
Đoạn đối thoại giữa hai người trong đoạn phim này rất hay, có thể nói nó là cuộc chiến giữa "tình" và "đạo". Đường Tăng là đại diện cho phái "đạo", nữ vương là phái "tình"
- Thiếp là thân phận Nữ vương hưởng đủ phú quy vinh hoa nhưng chưa từng hưởng hoan lạc của cuộc sống đời thường, mời ngự đệ hãy tới đây đi thật là tiên duyên tiền định. Sau này chàng lên ngôi rồi thiếp nguyện làm hoàng hậu, từ đó như đôi chim tung cánh giữa trời cao...
- Phật tâm tứ đại giai thông, đời này bần tăng đã dứt hết mọi tâm tưởng, quyết không thể hưởng vinh hoa phú quy . A di đà Phât ! ( công lực 10 phần chỉ còn 3 )
-Chàng nói Phật tâm” tứ đại giai thông “ nhưng lại nhắm nghiền hai đôi mắt, nếu chàng mở mắt nhìn thiếp, thiếp không tin đôi mắt của chàng không nhìn thấy gì.
Đường Tăng hỉ biết nhắm nghiền hai đôi mắt mà không dám mở mắt ra.
Đúng thật là “Sắc tức thị không” - Gặp sắc thì không được “thị” (nhìn), vì nếu “thị sắc” thì chắc không kiềm chế nổi, nên phải không thị - “Không tức thị sắc”.
( xin lỗi các bác là đệ tử phật gia vào đọc lời tếu táo này )
Ây dza! Nhìn những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán Đường Tăng trông rõ tội ( nội công tự vệ của Đường Tăng đã không còn nữa) . Nữ vương lại rất tinh tế thấy vậy liền mỉm cười lấy khăn lau những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán Ngự Đệ, đến lúc này thì Đường Tăng mới dám mở mắt nhìn Nữ vương. Cao trào chính là ở lúc này……Và mọi người có thấy gì không khi Đường Tăng nhìn Nữ vương cứ phải gọi là...
Đường Tăng đã xiêu lòng trước Nữ Vương chứ ! Không phải là "hoa rơi hữu ý, nước chảy vô tình" ! Bản năng con người cũng có những giới hạn và chính vì rung động trước Nữ vương nên Đường Tăng mới nói một câu nói bỏ lửng mà đầy ngậm ngùi :
- Nếu có kiếp sau ...... ( Bao nhiêu câu hỏi như dậy sóng trong lòng )
Trong khi đó TLNQ cổ vũ:
- Thiếp chỉ biết có đời này kiếp này thôi.
( ĐT chiều nữ vương một tí có sao đâu cơ chứ! Giữ cái “đạo hành” làm gì cho mệt, sung sướng có hơn không? Trong khi TLNQ lại nhiệt tình đến thế! )
Đến đúng cái đoạn hay nhất là Nữ Vương đặt được Đường Tăng ngồi lên giường rồi thì “ yêu quái “ lại đến cuốn Đường Tăng đi mất mới thật là tiếc hùi hụi.
Công nhận nhà đạo diễn khéo thât, cách giải quyết vấn đề cho Đường Tăng rất hay. Thử hỏi nếu Đường Tăng không bị yêu quái cuốn đi thì chuyện gì sẽ xảy ra nhỉ ?
Ngô Thừa Ân ko bao giờ có ý định cho Đường Tăng của mình lưu luyến một bóng hồng nào, nhưng khi truyện thành phim thì quả thật, mấy ai có thể cầm lòng trước ánh nhìn da diết của nữ chúa nước Tây Lương ! Chỉ tiếc rằng Đường Tăng đã trót đi trên 1 con đường dằng dặc, mà nữ vương chỉ như phong cảnh bên đường, mà phong cảnh có đẹp đến đâu cũng ko thể nào níu chân người lữ khách đã nguyện đem cả cuộc đời mình hiến dâng cho lý tưởng cứu độ nhân sinh.
( còn tiếp )
-
12-08-2011, 12:20 PM #12
Giai thoại tình yêu ( tiếp theo )
Mạn phép trích lời nhận xét của Đoàn Hữu phong để kết thúc 1 giai thoại tình yêu :
Trước vẻ đẹp cùng với sự tinh tế, dịu dàng của Nữ vương đã khiến một cao tăng đắc đạo như Đường Tăng cũng phải xiêu lòng (ta có thể thấy rõ điều này qua sự ngại ngùng, bối rối đến toát hết cả mồ hôi của Đường Tăng trong đoạn phim). Tuy là một nhà tuy hành có quyết tâm vượt mọi gian khó, cám dỗ, có phật tâm “tứ đại giai thông” nhưng có những giới hạn mà bản thân cái phật tâm của Đường Tăng cũng không thể vượt qua vì Đường Tăng cũng là một con người bằng xương bằng thịt chứ không phải là gỗ đá, cũng có những bản năng, tình cảm của một con người bình thường. Trong tâm khảm của của vi Thánh tăng lúc này có sự đấu tranh rất lớn giữa "tình" và "đạo", giữa "giới luật thanh quy" với "hoan lạc đời thường", liệu với đạo hành của mình Đường Tăng có vượt qua được thử thách này nếu không bị yêu quái cuốn đi?
Câu nói “nếu có kiếp sau...” của Đường Tăng như một lời khẳng định rằng tình cảm của mình với Nữ vương là có thật, nhưng không thể cùng chung vui hạnh phúc với Nữ vương vì kiếp này Đường Tăng đã hiến thân cho cửa phật và trót mang lời hứa đi lấy kinh với vua Đường, cái “tình” tuy có đấy nhưng cái “chí” vẫn lơn hơn, cái “tình” ấy bị rằng buộc bởi đạo luật và trách nhiệm nên nó mới mong chờ vào “kiếp sau”.
Phải nói thử thách này rất lớn với một nhà tu hành như Đường Tăng vì cái "tâm" phât bị dao động bởi cái "tình". Nếu giả sử như Đường Tăng không có tình cảm gì với Nữ vương thì ông ta có thể vượt qua thử thách này một cách dễ dàng, nhưng ở đây là có nên cái thử thách này là khó vô cùng, và chiến thắng hay vượt qua được nó thì cũng không phải là một điều vui mừng như khi các thầy trò vượt qua được những gian nan thử thách hay chiến thắng được những yêu quái.
Ở trên đời này có 4 kiểu người có thể vượt qua được thử thách Tây Lương nữ quốc:
+ Thứ nhất đó là những người có trái tim gỗ đá, không biết rung động.
+ Thứ hai đó là những kẻ đồng tính, pê đê.
+ Thứ ba đó là những người có tình cảm, có rung động như những con người bình thương khác nhưng có ý chí đủ mạnh để có thể chiến thắng tình cảm cá nhân mình.
+ Thứ tư đó là những ông sư có đạo hành cao thâm.
Hai kiểu người ở trên đầu thì có thể vượt qua thử thách Tây Lương nữ quốc một cách dễ dàng không đáng nói. Còn Đường Tăng thuộc kiểu người thứ 3 hay thứ 4 tùy vào nhận xét của mỗi người. Nhưng như các nhà làm phim thì Đường Tăng thuộc vào kiểu người thứ 3, kiểu người này vươt được qua thử thách Tây Lương nữ quốc mới đáng phục hơn cả bới vì khác với 3 kiểu người còn lại, kiểu người này vượt qua thử thách là khó khăn nhất vì có sự đấu tranh với nội tâm của mình chứ không như 3 kiểu người còn lại. Mọi người thử nghĩ xem! Nếu Đường Tăng không có tình cảm gì với Nữ vương thì đây đâu còn là một thử thách cho Đường Tăng nữa và cũng chẳng có giới hạn nào giành cho Đường Tăng cả. Phải nói sống ở trên đời này điều cơ bản nhất của một con người là sống phải biết yêu thương người khác, yêu thương mọi người, kẻ sống không biết yêu thương tức là kẻ ích kỷ - chỉ biết yêu bản thân mình. Nhưng các nhà làm phim đã rất giỏi khi xây dựng một nhân vất Đường Tăng mang dáng dấp của một con người thực sự, chứ không còn là Đường Tăng khô khan không biết rung động như trong truyện nữa.
Cuộc chiến của Đường Tăng khác với cuộc chiến của các ông đồ đệ với những yêu tinh, yêu quái đầy những tiếng gươm đao, đầy những máu lửa chết chóc thì cuộc chiến của Đường Tăng luông là cuộc chiến âm thầm của nội tâm, chiến thắng với chính bản thân mình. Ở đây những ông đồ đệ không giúp gì được cho Đường Tăng mà tự Đường Tăng phải vượt qua tất cả. Đường Tăng cũng là một con người và cũng có những ham muốn tình cảm của con người, mà thứ tình cảm của con người này cũng giống như chiếc lò xo vậy, càng nén nó lại sức bật của nó lại càng lớn.
Đạo phật vẫn quan niệm đời là bể "khổ", con người ta chỉ có thể diệt "khổ" bằng cách dứt hết mọi tình cảm cũng như tham lam dục vọng nơi bản thân mình (hay còn gọi là giải thoát) chính vì vậy khi các nhà tu hành gửi mình nơi cửa Phật cũng là phải cắt đứt hết mọi duyên trần tục, tu tâm dưỡng tính sao cho lòng không vẩn đục, người tu hành nơi cửa phật phải đạt đến cái tâm thanh tịnh thì mới gọi là đắc đạo, lòng vẫn còn vương vấn bụi trần tức là không thể tu hành được. Đường Tăng là con người cái tâm luôn hướng về phật đạo (hay đúng hơn là một tín đồ sùng đạo) chính vì vậy mà cái giới luật thanh quy ở đây nó như cái vòng quy tắc không cho nhà tu hành được phép vượt qua. Nhưng chả phải đạo Phật vẫn khuyên con người ta phải hướng thiện, sống tốt với mọi người ư! Liệu rằng phụ tình một con người có phải là một điều tốt, liệu rằng chỉ vì giữ chữ “đạo” mà phụ bạc chữ “tình” có đáng với chữ “thiện” hay không? Vậy thì đối với Đường Tăng chữ “tình” và chữ “đạo”, chữ nào đáng quý hơn, cái giới luật thanh quy cứng nhắc có đáng đươc trân trọng như đối với thứ tình cảm chân thành, sâu nặng của nữ vương không? Đúng là tạo hóa thật chớ trêu sinh ra cái giới luật thanh quy của nhà Phật nhưng lại để cho kẻ tu hành vướng vào sợi tơ tình. Liệu rằng nếu không có cái giới luật thanh quy ấy đôi lứa có nên duyên? Liệu rằng nếu chàng không giữ chữ "đạo" đôi lứa có thể trở thành tri kỉ? Có phải chữ "đạo" là cái kéo cắt đứt sợi dây "tình". Nhưng rút cuộc đến giây phút cuối cùng Đường Tăng vẫn chon chữ “Đạo”. Âu! Đó cũng là cái chí của kẻ làm trai, sẵn sàng hi sinh tình cảm riêng tư vì cái nghĩa lớn, từ bỏ cả hạnh phúc cá nhân để đem đến hạnh phúc cho chúng sinh trăm họ. Có lẽ cái tình nghĩa kia cũng thấu hiểu cho nỗi lòng của kẻ đa mang mà không oát trách vì đã kiềm lòng mà dứt áo ra đi.
“Đạo” chàng bất tận “tình” thiếp đành trân trọng, chàng giữ“đạo” thiếp cũng ngàn trọng trân
“Tình” nàng sâu nặng “chí” chàng từng vương vấn, bởi chữ "tình" mà lòng phải vấn vương
Nhiều bạn nói rằng Đường Tăng là Phật, vậy thì Đường Tăng không thể động lòng trước bất kỳ một bóng hồng nào. Điều này hoàn toàn không dúng, vì Phật cũng là do con người tu đắc đạo mà thành, giống như đức Phật Thích Ca Mâu Ni (người sáng lập và đặt nền móng đầu tiên cho đạo Phật) tương truyền ngài cũng là một hoàng tử được kế nhiệm ngôi vương nhưng do thấy chúng sinh lầm than khổ cực, ngài đã từ bỏ mọi vương quyền phú quý để đi tìm con đường tu đạo, giải thoát chúng sinh, và tại gốc cây Bồ Đề, ngài đã bỏ lại vợ dại con thơ để hóa thân thành Phật. Vậy thì Phật Thích Ca trước khi thành Phật ngài cũng là một con người bình thường như bao con người khác, cũng có vợ có con, cũng biết yêu thương rung động như một con người. Đường Tăng cũng vậy trước khi đến được “đất Phật” Tây Thiên thì tại nơi “đất tình” Tây Lương, Đường Tăng vẫn là một con người chứ đã phải là Phật đâu, mà đức Phật Thích Ca trước khi thành Phật có thể lấy vợ sinh con thì tại sao Đường Tăng lại không thể nhỉ ? Rõ ràng cả đức PHật Thích Ca và Đường Tăng đều giống nhau đó là trước khi thành Phật họ đều là con người, mà đã là con người cần phải biết yêu thương, rung động và mang những tình cảm của con người chứ không thể như những thứ thể xác vô hồn vô cảm được. Nếu ngay cả những thứ tình cảm cơ bản cần phải có của con người đó mà họ cũng không có được thì họ đâu đáng được làm đức Phật cao quy để đi giáo hóa, dăn dậy chúng sinh, đâu đáng để muôn ngàn người tôn kính. Như vậy Đường Tăng rung động trước một Tây Lương nữ vương cũng là một điều hợp lẽ và cần phải có để chứng tỏ Đường Tăng là một con người chứ đâu phải là một thứ vô tri vô cảm do cha mẹ sinh ra.
Chưa đến đất "Phật" Tây Thiên... thì "người" chưa là "Phật"
Vẫn ở cõi "tình" Tây Lương... thì "Phật" vẫn là "người".
Thế nên với Tây Lương Nữ vương đó chỉ là một duyên phận hẩm hiu. Nữ vương đa tình thât, Đường Tăng cũng xiêu lòng, nhưng có lẽ ý chí cộng với Phật tâm đã giúp vị thánh Tăng dứt bỏ tình cảm để đi tiếp trên con Đường cầu chân Kinh.
Công nhận đoạn chia li giữa hai người cảm động thật...
Bài hát nghe hay đến chạnh lòng...
Nữ vương mặc dù rất muốn ngự đệ ở lại nhưng không thể ép ngự đệ được. Bởi vì cái chí nguyện của kẻ tu hành không phải giành cho Tây Lương, vất vả cầu kinh vạn dặm không thể buông suôi tất cả nên cũng đành tạ tội với tấm tình nhi nữ. Nữ vương có lẽ cũng hiểu ”chí” chàng nên đành nghẹn ngào nén chặt tình cảm trong lòng mà đóng chiện vào tờ văn điệp thông quan cho Ngự đệ ra đi.
Thôi thì giấc mộng hương trần đó sẽ mãi chỉ là mộng phù vân. Bể đời trầm luân, chuyện hợp tan, ly hợp thật vô thường. Giữa đoạn trường ly biệt, bóng hồng lệ nhòa hoen mi chỉ biết lặng lẽ thả hồn với gió cuốn ngút ngàn cùng tiếng vó ngựa xa xăm muôn dặm của người đi. Chàng thì cất bước với chốn xa mây gió, thiếp ngậm ngùi với nỗi nhơ niềm thương. Từ đây, duyên phận đôi lứa sẽ mãi là lỡ làng cùng với thiên thu. Tơ duyên đã không định thôi đành chia lìa , chút hương thầm vương vấn này đành mang theo trong mộng tưởng. Người đi giữa muôn dặm trường hư không mờ ảo, người ở lại với nổi niềm nhung nhớ khôn nguôi. Ai bảo rằng yêu là chia ly đau khổ, ai bảo rằng yêu là xa lìa, sao sự đời lại luôn đúng như vậy! Chút tình này chỉ xin được ghi khắc vào trong giấc mộng êm đềm. Như cái ngó sen kia! Dẫu cho ai đã cắt lìa thì vẫn còn lại những sợi tơ, tình chàng thiếp cũng vậy, dẫu cho lìa ngó ý thì vẫn còn vương tơ lòng. "Kiếp nhân sinh" dẫu đã trót tàn phai, thì chỉ còn "kiếp sầu tư" sẽ mãi theo cùng vô vọng. Thật xót xa cho mảnh hồng nhan, chút hương yêu cố quận này mong được gửi tới gió mây ngàn, tới bóng tình lang và hãy rọi sáng cho người gối chiếc chăn đơn trong đêm cô quạnh.
" Dù cho tóc có điểm sương
Mãi là nỗi nhớ yêu thương một người ".
Một kiếp gặp nhau dù chẳng nên duyên giai ngẫu, người thì mang vận mệnh cao cả là giải thoát chúng sinh, kẻ thì gánh trách nhiệm lớn lao là chăm lo cho lê dân chăm họ, nhưng gạt nước mắt họ vẫn phải bước tiếp trên con Đường mình đã chọn, sau ngày dù cho cách trở quan san thì lòng dặn lòng vẫn nhớ về nhau, chỉ mong đêm về được gặp người trong mộng. Giấc mộng uyên ương bươm bướm trên đời dẫu chẳng thành hiện thực. Xin hẹn kiếp sau để nối lại duyên này.
Chàng là Thánh Tăng siêu thoát cho chúng sinh trăm họ
Thiếp phận nữ vương an nghiệp cho bách tính muôn dân.
Lúc chia tay người lên ngựa, kẻ chia bào rất quyến luyến, bịn rin.
Lúc Đường Tăng quất ngựa ra đi, nghe câu nói thân thương của nữ chúa Tây Lương “ngự đệ chàng ơi” liền ngoảnh đầu lại ngắm nhìn người thương một chút để rồi ngoảnh mặt đi quyết chẳng hồi đầu. Mang theo trong lòng mối tình nặng trĩu thẳng tiến tới Tây phương vạn dặm. Để người ở lại phải vương đôi dòng lệ thầm chúc chàng thượng lộ bình an.
Nơi Tây Lương chí trai từng lưu luyến.
Đất Tây Thiên lữ khách chẳng hồi đầu.
Tấm tình nữ nhi.... thầm chúc chàng đến thiên trúc bình yên gió lặng.
Nỗi lòng nam nhi.... mong cho nàng tìm được một bến bờ ấm êm.
Tây Thiên ..... Người ra đi lòng mang “chí” lớn.
Tây Lương ...... Kẻ ở lại vương vấn bởi nặng chữ “tình”.
Sự đời vẫn vậy! Phàm là những thứ gì lung linh, đẹp đẽ nhất thì cũng thường mong manh nhất. Mây ngũ sắc thì dễ tan, ngọc lưu ly thì dễ vỡ, cầu vồng bảy sắc tuy đẹp thật đấy nhưng rồi cũng sẽ mau chóng phai tàn. Giấc mộng hương tình của Tây Lương và Đường Tăng cũng vậy! Thật tiếc thay! Đúng là có "duyên" mà không có "phận", vừa mới có duyên nhưng phận đã buộc phải chia lìa. Người thì có tình ý sâu nặng, nhưng kẻ giữ đạo lại mang một lòng cố chấp không dám phá vỡ nó. Mà cũng đâu hẳn là phá vỡ được nó rồi thì xong vì chí nguyện một đời đã giành cả cho nó, bao năm ròng rã là một nhà sư tu tâm niệm Phật, bao nhiêu năm ròng rã theo đuổi con đường tìm đến với chân kinh. Con đường của nhà tu hành là tìm đến với Tây Thiên chứ không phải là dừng lại ở Tây Lương. Có lẽ cái tâm nguyện này đã giúp cho kẻ tu hành có đủ lý trí để vượt qua được thử thách nơi tâm khảm để rồi đành ngậm ngùi mong chờ vào “kiếp sau”.
Ngày xưa khi còn nhỏ mình xem Tây Du Ký không cảm nhận được cái hay của Tập phim này. Giờ khi đã trưởng thành dần có được những suy nghĩ, sự chín chắn của người lớn thì mình lại rất thích tập phim này. Nhân vật Đường Tăng hồi bé mình vẫn ghét nhất vì vừa ngu vừa dại thì giờ lại thấy thích nhất. Trước dây phút thử lòng giữa lý trí và tình cảm Đường Tăng không còn là một ông sư với cái đầu ấu trĩ và một trái tim vô cảm nữa mà là một con người thực sự như chúng ta, cũng mang những tình cảm yêu thương. Còn mối tình Đường Tăng và Tây Lương thật là một giấc mộng đẹp. Tiếc thay! trời cũng chẳng toại lòng người nên giấc mộng hương tình đó vẫn mãi chỉ là một giấc mông và cũng mãi mãi chỉ là một chữ "nếu", nó sẽ chẳng bao giờ thành hiện thực vì mỗi người bọn họ đều có một mục tiêu, một sở nguyện khác nhau. Sau này người đất Tây Thiên, kẻ đất Tây Lương còn chăng duyên tương ngộ, còn mong đợi được hai chữ "kiếp sau".
Mình có viết một bài thơ tiếc cho duyên phận của Tây Lương và Đường Tăng. Hi vọng mọi người đừng chê thơ mình nhé.
Duyên kiếp này, phận kiếp sau
Đoàn Hữu Phong (doanhuuphong)
Duyên gặp gỡ, phận chia li
Người thì cất bước, người thì lặng trông
Trách chi duyên phận lỡ làng
Sao chàng đến thiếp vội vàng chàng đi
Giữa trời đất, chuyện bể dâu
Tình nàng sâu nặng, lòng chàng đa mang.
Hỏi sao muôn sự tại trời
Trăm năm có nối duyên này nữa không ?
Đường tình ai lỡ phân ly
Để cho ai nhớ ai chờ đợi ai ?
Mong sao luân ngả trăm hồi
Gặp người trong mộng nối tình duyên xưa .
Kiếp sau... Kiếp sau... Kiếp sau...
Duyên thì gặp gỡ, phận đừng chia li.
Tương kiến nan, biệt diệc nan
(bài hát cuối phim)
Lời: Diêm Túc
Nhạc: Hứa Kính Thanh
Ca sĩ thể hiện: Ngô Tĩnh
Duyên này gặp gỡ vội chia ly
Muôn ngàn tâm sự dấu trong tim
Tấm "tình" thiếp mênh mông sông lớn
Nhưng "chí" chàng vượt mọi núi sông
Chỉ oán trách tơ duyên không định
Chàng giữ đạo thiếp ngàn trân trọng
Cầu chúc chàng thượng lộ bình an.
Việc nhân gian thường đâu như nguyện
Bóng nguyệt kia lúc tỏ lúc mờ
Lặng hồn theo bóng người xa khuất
Chỉ gặp chàng trong mộng mà thôi.
(dịch bởi Đoàn Hữu Phong)
1/Tương kiến nan, biệt diệc nan
Tây Lương Nữ Quốc - Tương kiến nan biệt diệc nan - YouTube
2/ Tương kiến nan, biệt diệc nan
Tay Du Ky TQ - 8- Tương kiến nan, biệt diệc nan - YouTube
( Nguồn internet )
( Còn tiếp : đệ nhất chung tình )
-
14-08-2011, 07:02 PM #13
Đệ nhất chung tình !
Đệ nhất chung tình
( Nữ vương nữ quốc Chu Lâm vì Đường Tăng Từ Thiếu Hoa độc thân 20 năm )
Khi xem tập 16 này, ban đầu ai cũng nghĩ là cái nạn mà thầy trò Đường Tăng gặp phải chính là việc "mang thai" và tìm nước giải độc ý...và việc bị Bọ Cạp tinh bắt ( nạn toàn gắn với yêu quái).Nhưng khi xem đi xem lại, mới thấy Nữ Vương mới chính là cái "nạn" khó vượt qua nhất của ĐT; hầu như tập phim nào cũng thấy ĐT mắc sai lầm. Sai lầm nghiêm trọng nhất vẫn là không chịu làm "Ngự đệ ca ca", làm cho người ta “ ở giá “ suốt đời .
Nữ Vương sẽ ra sao khi Đường Tăng bỏ đi? Nàng sẽ u sầu và chết dần chết mòn trong nhớ thương, phiền muộn? Hay nàng sẽ gạt đi nỗi đau riêng, uống nước sông Mẫu Tử rồi sinh ra một công chúa, tiếp tục làm Nữ Vương của Tây Lương Nữ Quốc?
Có người gặp nhau nhiều nhưng vẫn không yêu nhau, nhưng có người chỉ cần một phút gặp nhau đã yêu thật lòng , thắm thiết. Duyên số tại trời, không có bất cứ đạo lý nào phá vỡ được. Tấm chân tình ko ngăn nổi chí tang bồng của đấng trượng phu.Tấm tình si của TLNQ đã thành thiên thu trường cửu.
Đến tháng 5 năm 1985, Chu Lâm nhận được lời mời của đoàn làm phim << Tây Du Ký>>, mời cô đóng vai “ nữ vương nữ quốc ”. Vì còn những công việc khác không thể trì hoãn, thời gian Chu Lâm đến với đoạn làm phim Tây Du Ký tương đối muộn và cô không biết ai diễn Đường Tăng.
Đến với đoàn làm phim, Chu Lâm chăm chỉ tranh thủ từng giây từng phút đọc kịch bản. Sự nhiệt tình công việc và tinh thần tôn trọng công việc của cô đã làm cho những người khác trong đoàn rất khâm phục. Sau khi xem xong kịch bản tập Tây Vương Nữ Quốc trong Tây Du Ký, Chu Lâm luôn có cảm giác có gì đó không hài lòng. Toàn tập phim không phải bắt yêu cũng là trừ quỷ, mặc dù thể hiện chính nghĩa nhưng vẫn thiếu chút tình cảm con người. Cô ấy muốn cùng đạo diễn thương lượng một chút, đưa thêm vào kịch bản này chút sắc thái tình cảm. Tại phim trường, đạo diễn đang căng thẳng làm việc, Chu Lâm nhẹ nhàng đứng một bên nhìn. Lúc đó, đúng giữa mùa hè oi ả, Chu Lâm ướt đẫm mồ hôi, đứng chờ rất lâu, cảm thấy miệng khô và háo. Cô nhìn bốn phía, mọi người điều rất bận, đành chịu khát không nói. “Khát rồi phải không? Uống chút nước nhé” ngay lúc đó bên tai cô vang lên một giọng nam trầm, một cốc trà lạnh đưa ra trước mắt cô. Chu Lâm thoáng ngạc nhiên, ngẩng đầu xem, trước mặt cô là một thanh niên cao 1m8 đang nhìn cô với ánh mắt quan tâm. “Phong thái anh vĩ, tướng mạo trang nghiêm, răng trắng như bạc, môi hồng, miệng bốn phương, vầng trán rộng mắt thanh tú". Giờ khắc đó, nhìn người thanh niên trước mặt, Chu Lâm đột nhiên nghĩ tới cảnh miêu tả Nữ Vương Nữ Quốc lần đầu tiên nhìn thấy Đường Tăng trong Tây Du Ký. Tim cô ấy nhảy lên từng nhịp, buột miệng mà nói rằng: “ Ngự đệ ca ca” . Mặt người thanh niên ửng đỏ lên một chút, cười với Chu Lâm thể hiện đồng ý. Nụ cười đó cũng như nụ cười đôn hậu, thật thà, chất phác của Đường Tăng. Cảnh hai người cười nhìn nhau đã bị mọi người trong trường phim nhìn thấy, có người không nhịn được nói vui rằng: “Vẫn còn chưa tới Nữ Quốc đâu, hai người như thế thì cho lên diễn trước nhé!” Chu Lâm nghe xong giật mình, nhanh chóng tránh ánh mắt của Thiếu Hoa. Đạo điễn Dương Khiết và chế tác đến gần. Đạo diễn giới thiệu với Chu Lâm, người thanh niên cao nhã to lớn này là Từ Thiếu Hoa, đang đóng vai Đường Tăng. Chu Lâm nói suy nghĩ của mình đối với kịch bản. Đạo diễn Dương nói: “Vừa nhìn thấy cảnh hai người vừa rồi, trong lòng tôi cũng nẩy ra một ý tưởng”. Dương Khiết nói với Chu Lâm bà ấy sẽ suy nghĩ sửa lại kịch bản.
Lúc ăn cơm tối, không biết có ý hay vô tình, Chu Lâm phát hiện ra Từ Thiếu Hoa ngồi ngay bên cạnh mình, hai người vui vẻ nói chuyện với nhau. Từ Thiếu Hoa nói anh ấy là người Thanh Đảo. Chu Lâm vừa nghe thấy Thanh Đảo lập tức vui vẻ nói rằng: “Thanh Đảo tốt quá, tôi rất thích thành phố đó”. Từ Thiếu Hoa lập tức mời một cách thành khẩn : “Chu Lâm có thời gian đến Thanh Đảo chơi, tôi sẽ làm hướng dẫn viên cho cô”, nhìn ánh mắt ấm áp của Từ Thiếu Hoa, Chu Lâm lại một lần nữa cảm động và ngại ngùng. Ngoài thời gian quay phim, Từ Thiếu Hoa lúc nào cũng cầm một quyển sách. Có lúc vừa đi vừa đọc sách. Từ Thiếu Hoa nói với Chu Lâm, anh ấy chuẩn bị thi đại học, vào được đại học Thâm Tạo là ước mơ lớn nhất của anh ấy. Một Từ Thiếu Hoa anh tú, nho nhã và khát vọng cầu kiến thức, càng làm cho gia tăng những tình cảm tốt đẹp của Chu Lâm đối với Từ Thiếu Hoa.
Trong đoàn làm phim, Từ Thiếu Hoa không những ham học hỏi mà còn biết cách chăm sóc người khác. Đối đãi với mọi người lúc nào cũng rất lễ độ, còn đối với Chu Lâm càng thêm phần chăm sóc. Có một buổi sáng, Chu Lâm thức dậy nghe giọng đọc nam rất có tình cảm của một người con trai: “Ngân Cát, ta nhớ em, ta không biết tại sao em lại được gọi là Công Tôn Thục.....trong thế giới tuyệt nhiên đã không có sự tồn tại của em, nhưng em vẫn đứng thẳng, ngân vang trong không trung khúc khải hoàn ca của nhân gian”. Chu Lâm trong lòng cảm thấy xúc động. Đó chính là Từ Thiếu Hoa. Anh ấy mỗi sáng đều luyện đọc diễn cảm. Chu Lâm nhẹ nhàng đến bên Từ Thiếu Hoa, Từ Thiếu Hoa nhìn thấy sự thẹn thùng của cô ấy cười. Chu Lâm cầm lấy quyển sách từ tay anh, quả nhiên hàng chữ khải được chép lại rất công phu. Đoạn < Ngân Hạnh> là anh chép lại sao? Chu Lâm kinh ngạc hỏi, Từ Thiếu Hoa gật gật đầu, nói rằng anh ấy lúc bình thường có thời gian thích luyện chữ: “ Luyện chữ có thể giúp tĩnh tâm, cũng có thể điều tiết nhịp thở, rất có lợi đối việc đọc diễn cảm.” Chu Lâm gật đầu, nói: “Ngân hạnh đã được anh đọc diễn cảm hay như thế này, em chưa từng nghe qua”. Từ Thiếu Hoa nghe xong rất phấn khởi nói mấy hôm trước quay ngoại cảnh trên ngọn núi kia có thấy mấy cây Ngân Hạnh. “ Có thời gian, anh đưa em đi coi nhé!”. Chu Lâm nghe xong cười vỗ tay nói: “ Hay quá, chúng mình quyết định thế nhé”. Buổi chiều ngày hôm đó, Từ Thiếu Hoa không có nhiệm vụ quay, đưa Chu Lâm đi xem Ngân Hạnh. Đường lên núi khấp khểnh, thực sự rất khó đi. Chu Lâm đi dép cao gót càng thêm khó khăn. Từ thiếu Hoa luôn đưa tay đỡ cô ấy. Đột nhiên, Chu Lâm bị dây leo quấn ngã. Nghe tiếng hét, đang đi phía trước Từ Thiếu Hoa giật mình, hốt hoảng quay lại đỡ cô ấy dậy, nhìn thấy trên đầu gối trầy xước phủ một lớp rêu xanh, trong lòng Từ Thiếu Hoa rất đau xót. Chu Lâm đứng dậy bước đi khập khiễng, trên mặt chỉ đành biểu lộ nụ cười xin lỗi, nói với Từ Thiếu Hoa: “Chúng ta về thôi”. Từ Thiếu Hoa thấy vẻ tiếc nuối của cô ấy, không đành lòng mà nói : “Chúng ta đã đến đây rồi thì đi coi thử thế nào. Nếu em không đi được, anh cõng em”, nói xong thì tấm thân cao lớn của anh ấy quỳ xuống không nói gì một tay cõng Chu Lâm lên trên lưng. Nằm trên tấm lưng ấm và rộng của Từ Thiếu Hoa, một Chu Lâm chưa yêu ai bao giờ vừa cảm động vùa ngại ngùng, cảm thấy có một luồng hơi ấm hạnh phúc, mãn nguyện. Cũng chính vào giây phút đó, tình cảm của người thiếu nữ đã mở rộng với người thanh niên này.
Lên đến núi, Từ Thiếu Hoa đặt Chu Lâm Ngồi dưới một gốc cây Ngân Hạnh. Vẻ đẹp không thể so sánh được của ánh nắng hoàng hôn xuyên qua lá Ngân Hạnh, đánh rơi những điểm nắng tinh nghịch. Thấy lá Nhân Hạnh nhẹ nhàng đung đưa trong gió tạo thành những âm thanh xào xạc, như những lời tâm tình của người tình. Chu Lâm rất thích thú: “Đẹp quá, thật là đẹp”. Cô nhặt một chiếc lá trên mặt đất để trong lòng bàn tay mình tỉ mỉ ngắm nhìn , chiếc lá đó như chiếc quạt tinh tế, rất đáng yêu. Cô đưa chiếc lá lên, cảm giác một hương thơm thẩm thấu vào tận trong lòng, cô như đã say rồi. Nhìn thấy điệu bộ như một đứa trẻ rất hứng khởi và dáng vẻ đáng yêu dịu dàng của Chu Lâm, Từ Thiếu Hoa không thể kìm được cái nhìn thương yêu trong đôi mắt. Chu Lâm vô tình ngẩng đầu lên, đúng lúc bắt gặp cái nhìn đắm đuối của Từ Thiếu Hoa, cô thện thùng đỏ mặt, nhanh chóng cúi đầu, một luồng hơi ấm ngọt ngào lan tỏa khắp không gian.
Thời gian đó thức ăn đoàn làm phim chuẩn bị không ngon lắm, Từ Thiếu Hoa có lúc mời Chu Lâm đi ăn bên ngoài, cũng có lúc tự tay làm một vài món mang hương vị Sơn Đông mời Chu Lâm thưởng thức. Tài nấu bếp của Từ Thiếu Hoa rất giỏi, Chu Lâm cảm thấy anh ấy đến nấu mì cũng có hương vị đặc biệt. Rồi không biết tự lúc nào, Chu Lâm cảm thấy bản thân càng ngày càng thích ở cạnh Từ Thiếu Hoa. Chu Lâm liền mấy đêm không ngủ được đều suy nghĩ, có phải mình đã yêu một thanh niên nhẹ nhàng, chu đáo, có chí tiến thủ rồi hay không?
Một hôm vào buổi trưa, trong thời gian nghỉ ngơi. Chu Lâm không nhìn thấy bóng dáng Từ Thiếu Hoa đâu, hỏi vài người cũng đều nói không biết, cảm thấy rất buồn, bình thường Từ Thiếu Hoa bất luận là làm gì cũng vô tình hữu ý nói với cô một câu. Hôm nay tại sao lại không thấy đâu? Đến tận giờ ăn cơm tối, Từ Thiếu Hoa mới trở về. Nhìn thấy mặt anh đẫm mồ hôi, Chu Lâm liền vội đưa cho anh chiếc khăn, quan tâm hỏi han: “Anh đã đi đâu thế? Cũng không nói với mọi người câu nào, mọ người lo lắng lắm đấy”. Đối diện với sự quan tâm nhiệt tình của Chu Lâm, Từ Thiếu Hoa vừa lau mồ hôi vừa nói rằng anh chạy ra ngoài gọi điện cho gia đình. Chu Lâm thở phào nhẹ nhõm, hỏi: “Bác trai, bác gái vẫn khỏe chứ ạ?” - "Vẫn khỏe”. Từ Thiếu Hoa do dự nói: "Không phải anh gọi điện cho bố mẹ, là gọi điện cho vợ”. “ Anh.. anh có vợ rồi à”, Chu Lâm đột nhiên cảm giác như bị chấn động, cô mở to mắt đôi mắt trái hạnh đào sáng , trừng trừng nhìn Từ Thiếu Hoa, ánh mắt đầy phức tạp. Từ Thiếu Hoa nói với Chu Lâm trước khi gia nhập đoàn làm phim <Tây Du Ký> 3 ngày, anh đã kết hôn rồi. Chu Lâm không nói gì nữa, quay người lặng lẽ bước đi. Nhìn dáng người cô độc của Chu Lâm, Từ Thiếu Hoa đau lòng, không nói nổi nên lời. Anh chỉ dám khẽ gọi: "Chu Lâm..." Chu Lâm đứng lại một giây lát, nhưng nhất định không quay đầu.
Hai ngày sau, Chu Lâm nhận được kịch bản tập <Thỉnh kinh nữ nhi quốc>. Đường Tăng lúc này đã không còn là một thánh tăng cao siêu, mà trở nên "có da có thịt", gần gũi hơn. Dù cảm động trước tình cảm nồng nàn của Nữ vương, Đường Tăng cuối cùng vẫn quyết chí ra đi vì lý tưởng thiêng liêng, chỉ có thể hẹn Nữ vương duyên phận kiếp sau. Chu Lâm đọc xong kịch bản, trốn trong phòng khóc rất nhiều.
Sau đó qua đạo diễn, cô được biết chính Từ Thiếu Hoa là người đã đề nghị thêm câu “ hẹn kiếp sau “ vào kịch bản.
Chu Lâm đã hiểu rõ tình ý. Đường Tăng là người nghĩa lớn, Nữ vương là người hiểu đại sự, đành dằn lòng, kiếp này vô phận, xin được hẹn đến kiếp sau. Đường Tăng nhận văn điệp từ tay Nữ vương, biết là đã không còn gì có thể nói với nhau được nữa, nhìn ánh mắt người ngấn lệ, trái tim nhói đau. Cuối cùng, quyết chí ra đi. Người lên ngựa bỗng nghe tiếng gọi "Ngự đệ ca ca...", quay đầu nhìn lại nhưng không dám nhìn lâu, sợ lại thấy ánh mắt tuyệt vọng một lần nữa. Trường đoạn <Thỉnh kinh nữ nhi quốc> Chu Lâm và Từ Thiếu Hoa phim giả nhưng tình là chân thật. Ánh mắt họ nhìn nhau, nhân vật mà họ vào vai, và trường đoạn phim ấy đã trở nên bất tử.
-
14-08-2011, 07:04 PM #14
Đệ nhất chung tình !
Đệ nhất chung tình ! ( tiếp theo )
Trong chương trình Nghệ thuật nhân sinh - Tây du ký 20 năm
gặp lại, nữ diễn viên thể hiện vai Nữ vương Tây lương nữ quốc đã tâm sự: "Từ trước đến nay, trong mắt tôi chỉ có một mình ngự đệ ca ca". Nói đến đây, đôi mắt cô ngấn nước, hướng đến Từ Thiếu Hoa - nam diễn viên thể hiện vai Đường tăng năm đó nói: "Xa nhau 21 năm, ngự đệ ca ca vẫn khỏe chứ?". Khi cô cất lên tiếng lòng, khán giả trên dưới im lặng và bồi hồi xúc động. Một đoạn ân tình chôn dấu trong lòng bao lâu, bỗng chốc, trước mặt rất đông người, đã được thốt lên đầy chân thành, xúc động.
Gần đây, tòa báo đã phỏng vấn Chu Lâm, cô xúc động nhớ lại kỷ niệm đẹp khi đóng tập thứ 16 đó... và Chu Lâm hình dung đó như mối tình đầu.
Chu Lâm sinh năm 1958, người Bắc Kinh, tốt nghiệp học viện công nghệ y học. Tuy nhiên, từ nhỏ, cô đã yêu thích nghệ thuật, theo học vũ đạo, tham gia thể thao, sau đó lại theo học cả học viện điện ảnh. Với ngoại hình ưu nhã, tú lệ, cô từng đạt giải Kim kê cho nữ diễn viên xuất sắc nhất cho bộ phim Đêm khải hoàn... Từ thập niên 80 - thập niên 90, Chu Lâm là một trong những nữ minh tinh hàng đầu của làng nghệ Trung Quốc. Khoảng tháng 5/1985, cô nhận được lời mời tham gia đoàn làm phim Tây du ký với vai Tây lương nữ vương. Do công việc bận rộn, cô gia nhập đoàn làm phim khá trễ, và lúc đó còn không biết ai là diễn viên thể hiện đường Tăng.
Gia nhập đoàn làm phim, cô không ngừng nỗ lực làm việc. Khi mọi người nghỉ ngơi, thì cô bàn bạc cũng đạo diễn về cách diễn. Sự yêu nghề kính nghiệp và hết mình với vai diễn khiến ai cũng khâm phục.
Nhưng sau khi xem xong kịch bản tập 16, Chu Lâm cảm thấy có gì đó không được trọn vẹn, vì cả tập nếu không hàng yêu thì bắt ma, thiếu đi ít nhiều hương vị tình yêu. Cô đã đích thân đến bàn bạc cùng đạo diễn, và cho biết muốn thêm một chút vị ái tình vào tập phim. Đạo diễn bận rộn công việc, Chu Lâm kiên nhẫn đứng đợi. Thấy cô đứng đợi rất lâu, ai cũng thấy thương. Bỗng có một giọng nam ấm áp đến bên và hỏi "Cô uống nước không", rồi một cốc nước đưa đến bên cạnh cô... Ngước lên, Chu Lâm thấy trước mắt là một chàng trai nét mặt phúc hậu, sáng ngời, cao khoảng 1,8m đang nhìn cô và tay thì đưa cô cốc nước. Ngay lúc đó, Chu Lâm cảm thấy cô có thể miêu tả được lần gặp gỡ đầu tiên của ĐT với Tây lương quốc vương.
Lúc đó, đạo diễn Dương Khiết đến và giới thiệu đó chính là Từ Thiếu Hoa, Chu Lâm nói với bà suy nghĩ của mình. Đạo diễn nói: "Khi nhìn thấy hai người gặp và nhìn nhau như vậy, lòng tôi cũng có ý nghĩ như thế", và đồng ý sửa kịch bản.
Lúc ăn cơm tối, tình cờ, Chu Lâm và Từ Thiếu Hoa ngồi cạnh nhau. Cả hai bắt đầu trò truyện. TTH là người Thanh Đảo. "Thanh Đảo rất tuyệt, tôi rất thích thành phố này". Ngay lập tức, TTH tỏ ý muốn mời người đẹp đến quê nhà: "Tôi có thể làm hướng dẫn viên du lịch". Nhìn thấy ánh mắt và sự hồn hậu của TTH, CL không khỏi xúc động.
Sau khi hoàn thành các cảnh quay, TTH thường đọc sách, đi đâu cũng kè kè quyển sách bên người. TTH cho biết, anh đang chuẩn bị thi đại học, hoàn thành ước mơ lớn nhất của mình. Trong đoàn làm phim, TTH không chỉ hiếu học, chăm chỉ mà còn rất biết quan tâm người khác. Đăc biệt, anh rất quan tâm, chăm sóc Chu Lâm. Một buổi sáng sớm, CL vừa tỉnh giấc thì nghe thấy bên ngoài có tiếng đọc sách: "Ngân Hạnh, ta rất nhớ nàng, ...", thì ra là TTH, sáng sớm đã luyện đài từ... CL khẽ đến bên và ngạc nhiên khi biết cả cuốn tiểu thuyết Ngân Hạnh, TTH đã chép lại ngay ngắn, rõ ràng. Thì ra anh rất thích luyện chữ; "Viết chữ có thể giúp tâm thanh tịnh, điều hòa khí , với diễn viên hay phải nói thoại rất hữu ích".."Nhưng đọc/ngâm hay như anh vậy thì đây là lần đầu tiên tôi được nghe". TTH rất vui, liền nói, vài ngày tới đoàn làm phim ra ngoài quay ngoại cảnh, có chỗ có vài cây ngân hạnh, "nếu có thời gian, tôi đưa cô đi xem". Chu Lâm cười nói: "Được, chúng ta nhất định đi nhé".
Chiều hôm đó, dù không phải quay ngoại cảnh, TTH cũng đưa Chu Lâm đi lên núi xem cây ngân hạnh. Đường núi khó đi, CL lại đi giày cao gót, càng đi càng mệt. TTH đi bên cạnh luôn nắm tay và đỡ cô đi tiếp. Bỗng nhiên CL trượt ngã, TTH lo sợ lập tức đến bên đỡ cô dậy, thấy đầu gối có vết bầm xước. TTH lộ vẻ đau lòng. Đứng dậy tập tễnh đi CL cười an ủi và xin lỗi: “thôi chúng ta về đi”. Thấy vậy TTH không chờ đến sự đồng ý của CL đã cõng cô đi tiếp. Một cô gái chưa từng yêu như CL bỗng cảm thấy bồi hồi, xúc động và ngập tràn hạnh phúc. Thời khắc đó tình ý đã nảy sinh.
Lên đến đỉnh núi, TTH để CL ngồi dưới gốc cây ngân hạnh, cảnh đẹp nên thơ... Những chiếc lá lất phất rơi và CL ngắm nhìn đầy thích thú. Nhìn dáng vẻ đáng yêu, ngây thơ của CL, TTH cảm thấy lòng tràn ngập yêu thương. Bất ngờ, CL ngẩng lên và bắt gặp ánh mắt của TTH... lại bối rối nhìn xuống, trong lòng ngập tràn cảm giác ngọt ngào.
Lúc đó, đời sống còn nghèo, đóng film còn nhiều thiếu thốn, TTH có đôi khi mời CL đi ăn, có những lúc còn tự tay làm những món có hương vị Sơn Đông mời CL. Không biết từ lúc nào, CL muốn được ở bên TTH... có những đêm không ngủ được, cô tự hỏi có phải đó là tình yêu.
Có một buổi trưa vừa nghỉ ngơi xong, CL tìm không thấy TTH, bèn hỏi những người xung quanh nhưng không ai biết. Cô cảm thấy rất buồn, vì thường thường, đi đâu, TTH cũng nói cho cô biết. Đến lúc ăn tối, TTH mới trở lại, trên mặt lấm tấm mồ hôi. CL không ngừng quan tâm, đưa anh chiếc khăn và nói " Anh đi đâu vậy mà không nói, chúng tôi lo lắng quá". TTH vừa lau mặt, vừa cho biết, đi ra khu thành thị để gọi điện thoại. "Bác trai bác gái có khỏe không? ". "Khỏe". "Không, tôi không gọi điện cho ba mẹ, mà gọi cho vợ..." (Huhu, sao mà bác TTH nỡ xát muối vào lòng cô ấy trong lúc này cơ chứ) Nghe đến đây, CL cảm thấy choáng váng... Đôi mắt to của cô ngước nhìn TTH, tâm trạng vô cùng phức tạp. TTH cho biết, trước khi gia nhập đoàn làm phim 3 ngày, anh đã kết hôn. CL không nói gì, quay lại và bỏ đi... nhìn bóng CL đi xa, TTK không khỏi buồn bã: "Chu Lâm..." anh nhè nhẹ gọi... CL khẽ đứng lại, nhưng không ngoảnh đầu...
Hai ngày sau, khi cầm trong tay kịch bản mới của tập Tây lương nữ quốc, trong đó miêu tả ĐT không chỉ là một vị cao tăng, mà còn là con người máu thịt, có tình cảm, có suy tư... Xem xong kịch bản, CL đã trốn trong phòng khóc rất nhiều. Đạo diễn nói cho cô biết, là TTH đề nghị sửa kịch bản như vậy. CL hiểu rõ tình ý của TTL, ĐT là người đàn ông gánh trọng trách quốc gia, và Tây lương nữ vương cũng là người con gái biết vì việc lớn. Hai người quen nhau, không thể trọn kiếp này, xin hẹn đến kiếp sau. Đường tăng sau khi lấy đuợc công hàm từ Nữ vương, dù không từ mà biệt, nhưng ánh nhìn đã nói lên tất cả, cảnh cuối, TLNQ với theo gọi "ngự đề ca ca..." mới ngoảnh đầu nhìn lại... Đây là cảnh cuối của tập Tây lương nữ quốc. Dù là đóng phim nhưng ánh nhìn 2 người dành cho nhau là thật, là phim giả tình thật.
Ngay sau khi hoàn thành vai diễn, CL lập tức rời đoàn làm phim, trở về Bắc Kinh. Đường về còn dài, trong lòng ngổn ngang những xúc cảm... Nhìn ra cửa sổ bên ngoài, nhắm nghiền đôi con mắt, lòng còn những say nồng, và trong thời khắc đó, cô nghe thấy có tiếng gọi quen thuộc, mở mắt, thì ra là TTH - (đầu trọc đẫm mồ hôi...). Xe bắt đầu chuyển bánh, CL nhoài hẳn nửa người ra khỏi cửa sổ, TTH đứng ở sân ga, lấy ánh mắt đưa tiễn cô quay về. Hôm nay xa cách, không biết lúc nào mới gặp lại.
Sau đó, CL nghe nói TTH đỗ đại học, rời đoàn làm phim. Cũng từ đó, cô bặt vô âm tín anh. Nhưng hình ảnh của Đường ngự đệ vẫn còn đó, và cô trân trọng những xúc cảm đầu đời, giữ lấy cho đến kiếp sau.
Đoạn sau cho biết, sau đó CL gặp một quân nhân rất yêu cô, muốn cùng cô kết duyên, nhưng trong lòng CL đã ghi nặng hình bóng 1 người, một mối tình thầm kín, 20 năm vẫn âm thầm một mình. Người quân nhân kia cảm động vô cùng, và tình nguyện suốt đời làm bạn cùng cô (ý là bạn bình thường )
Năm 2005, CL nhận lời tham gia chương trình Nghệ thuật nhân sinh. Lúc đó biết tất cả các diễn viên tham gia bộ phim cùng tề tựu, cô đã vô cùng xúc động, người đầu tiền muốn gặp mặt là TTH. 20 năm đã trôi qua, dấu ấn thời gian đã hiện lên khuôn mặt, hai người nhìn nhau chỉ nhẹ nhàng cười, trong lòng ngổn ngang. CL được mời lên sân khấu, và cô đã không ngần ngại nói lên tâm sự của mình.
MC ngạc nhiên hỏi:
"Có phải lúc đó cô nhập vai quá nên lộng giả thành chân?"
CL nói: “Tuy trong phim từ đầu tới cuối chỉ là một giai thoại, lại là mối tình không có kết quả nhưng là một kỉ niệm theo tôi trọn đời. Tôi không hối hận vì tôi mãi mãi hoàn toàn sống trong mối tình của ĐT và TLNQ. Tình cảm con người đôi khi rất phức tạp, nhân sinh có nhiều cám dỗ. Giống như TLNQ, là người hiểu tình, hiểu lý, biến tình yêu thành một mối cầu, để một lòng khát khao, hướng về cũng là một cảnh giới. TLNQ làm được, tôi hi vọng mình cũng làm được"
Phải, đây là mối duyên lầm trong kiếp này, nhưng vẫn khiến người ta đồng tình, kính phục, trách nhiệm tình yêu của CL, trách nhiệm của THT với gia đình, cả hai đã làm hết sức để hoàn thành trách nhiêm của mình, cũng như ĐT và TLNQ, đã hết mình vì sứ mệnh. Kiên định, bi ai, nhưng biết đâu, lại là một dạng của tình yêu hoàn mỹ.
Chuyện tình của hai diễn viên cũng buồn và lãng mạn không kém các nhân vật của họ; Đường tăng và Nữ vương còn "gặp" nhau trong sứ mệnh cao cả, còn CL và TTH chỉ còn có thể tìm lại mối lương duyên trong kỉ niệm xưa.
( Nguồn internet )
p/s: Avatar bôm nay là hình ảnh của Chu Lâm sau 20 năm xa cách .Lần sửa cuối bởi dohuuthuc, ngày 14-08-2011 lúc 07:07 PM.
-
14-08-2011, 07:51 PM #15
Dạo này bác Thực toàn dùng hình mỹ nữ làm Avatar !!! heheheee
-
15-08-2011, 11:30 PM #16
Tháp Đại Nhạn, Ngàn Năm Mây Trắng !
Tháp Đại Nhạn, Ngàn Năm Mây Trắng
Tháp Đại Nhạn, ngàn năm mây trắng - TỜ BÁO CỦA GIỚI DOANH NHÂN - DOANHNHANSAIGON.VN
Quảng trường mênh mông, tượng Đường Tam Tạng chắc bằng đồng đen nổi bật từ xa. Mọi người chỉ đứng tới mí dưới áo của Ngài. Nhà sư dáng người tầm thước, mặc áo cà sa, bàn tay trái xòe ra chắp trước ngực, cổ tay đeo chuỗi bồ đề, cánh tay áo quảy một túi vải rất lớn thòng đến đầu gối.
Tay phải cầm một thiền trượng. Đầu cạo trọc, hai vành tai to đẹp như tai phật, nét mặt hiền hòa nhưng ẩn chứa sự cương nghị quyết tâm. Tuổi khoảng năm sáu mươi. Chắc đây là tượng của nhà sư lúc thỉnh kinh trở về. Không thấy nét khắc khổ phong trần của con người vượt bao nhiêu hiểm nguy trắc trở đi cầu đạo, không thấy nét rắn rỏi hiển hiện của con người trải qua bao cuộc gian lao, đấu tranh trí tuệ. Chỉ thuần một nét điềm đạm, bình an.
Trí nhớ của tôi thuở ấu thơ in đậm hình ảnh Tam Tạng, người trắng trẻo đội mũ, nét mặt thật thà, da thịt thơm tho mà yêu quái nào cũng muốn ăn một miếng để được trường sinh. Thầy Đường Tăng cỡi con ngựa bạch, cùng ba đệ tử Tôn Ngộ Không vốn là con khỉ sinh ra từ đá, Trư Bát Giới Ngộ Năng mỏ heo là Thiên Bồng Nguyên soái bị đày xuống phàm trần và Sa Tăng Ngộ Tịnh. Sau này lớn lên tôi biết Ngô Thừa Ân viết truyện Tây Du Ký dựa vào câu chuyện có thật về nhà sư Trần Huyền Trang đời Đường sang Ấn Độ nghiên cứu học hỏi và đem nhiều kinh Phật về Trung Quốc.
Nhưng Đường Tăng thật chỉ một mình, không có ba học trò, không thấy con ngựa bạch. Và bức tượng Ngài trước mặt tôi, như hiển hiện. Xúc động, tôi chấp tay chiêm bái hình ảnh huyền thoại của tuổi thơ, nhà sư tài ba vĩ đại của Phật giáo Trung Quốc và toàn cõi Á Đông. Sử Trung Hoa ghi lại, cậu bé Trần Vỹ sinh ra tại đất Lạc Dương, đời Tùy Văn Đế Dương Kiên, 13 tuổi đã xuất gia. Quy y năm 20 tuổi tại Trường An, nơi đây đã thành đế đô của nhà Đường. Nhiều năm đi đây đi đó, viếng nhiều cảnh chùa, tu học kinh sách Phật pháp với nhiều bậc thầy.
Càng học càng rối vì thấy có nhiều điều không nhất quán nên nung nấu trong lòng tâm nguyện cầu đạo gốc ngay đất Phật. Sư đã phải trốn đi, vì thời đó lệnh vua cấm dân chúng ra khỏi biên giới phía Tây, vì Đường Thái Tôn mới nắm quyền trị nước, mối quan hệ với Tây Vực đang căng thẳng.
Tôi đứng rất lâu ngắm nhìn Đường Tam Tạng, vô cùng cảm khái. Đúng đây là Trường An - đế đô nhà Hán, nhà Tùy, nhà Đường. Trong đầu tôi rõ mồn một các nhân vật trong truyện Thuyết Đường. Lý Thế Dân - sau này là Đường Thái Tôn - đánh Nam dẹp Bắc cùng các tướng tài Tần Thúc Bảo mặt vàng như nghệ gọi là Tần Huỳnh, Trình Gião Kim tài nghệ chỉ được ba búa mà có số hên, quân sư Từ Mậu Công lỗ mũi trâu.
Em Lý Thế Dân là Lý Ngươn Bá người gầy nhom mà sức mạnh vô cùng được xếp là anh hùng số một. Nhân vật giang hồ hảo hớn nhất là Đơn Hùng Tín. Nhà Tùy sụp đổ, nhà Đường tiếp nối. Trong thời buổi tao loạn ấy, sư trẻ Huyền Trang mải mê học đạo, bỏ công tu học Kinh sách Tiểu Thừa (Theravàda) lẫn Đại thừa (Mahàyàna).
Hai mươi tám tuổi, sư Huyền Trang trốn ra khỏi nước. Hành trình gian khổ, trèo non lội suối vượt sa mạc mênh mông, nhiều lúc tưởng đã chết dọc đường. Sư chỉ đi một mình với con ngựa già đỡ chân. Trong Hồi ký Đại Đường Tây Vực ký do sư Huyền Trang soạn thì hành trình đến đất Phật còn nguy hiểm hơn các chuyện giả tưởng trong Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân. Có lúc lạc trong sa mạc, đói khát, kiệt lực, sư vẫn tiến tới phía trước và tự nhủ: “Trước kia đã thề nếu không đến được Tây phương cõi Phật quyết không trở về phía Đông độ. Thà đến Tây phương mà chết hơn quay về sống hèn”.
Rồi như có phép màu. Một vùng xanh tươi hiện ra giữa sa mạc hoang vắng, sư uống nước suối và thoát chết. Sư kể trong hồi ký: “Không thấy con chim nào trên trời, không thấy con thú nào dưới đất. Không có cây cỏ nào mọc, không có dấu vết của con người. Không có nước và thức ăn. Tôi thấy hàng đống xương và vũ khí. Chập chờn bóng ma quái”. Có lúc bị bọn mọi bắt và sẵn sàng ăn thịt nhà sư. Rốt cuộc sư đã cảm hóa được chúng. Hai năm qua 110 nước để đến Ấn Độ, Sư theo Con đường Tơ lụa phía Bắc. Đến đất Phật, sư lưu học năm năm tại Na-Lan Đà-tu viện Phật giáo lớn nhất thời đó, dưới sự dìu dắt của pháp sư Giới Hiền, người có trên mười ngàn tín đồ học đạo.
Về sau, vượt trội trong cuộc tranh luận Phật học lớn nhất thời bấy giờ, sư Huyền Trang trở nên lừng lẫy, được lòng tin yêu của các sư Ấn Độ và các tín đồ. Đặc biệt Sư được sự khâm phục và quý mến của vua Harsha, tín đồ Phật giáo cuối cùng uy quyền nhất. Vua nài nỉ Sư lưu lại nhưng Huyền Trang cương quyết trở về. Năm 643, Sư lên đường về quê nhà.
Năm 644 khi qua sông Indus thì năm mươi bản kinh bị rơi và trôi mất tăm. Sư cùng đoàn phải dừng lại cho người đi thỉnh lại các kinh đã mất. Chuyến thỉnh kinh cả lượt đi lượt về của Huyền Trang mất 17 năm. Năm 645 về đến Trường An, đoạn đường ông qua tính ra khoảng 25.000 cây số. Ông mang về nhiều tượng Phật, 150 xá lợi và 657 bộ kinh bằng tiếng Phạn. Ngày về Trường An thật vinh quang.
Từ đó vua Đường Thái Tôn rất kính trọng sư Huyền Trang, thường cầm tay hỏi han mọi sự, giao ông tường trình chuyến đi kỳ thú và vĩ đại. Đại Đường Tây Vực ký có được là do sư soạn theo lệnh vua. Vua ban cho ông danh hiệu Tam Tạng (tiếng Phạn là Tripitaka) vì là người tinh thông kinh sách cả Ba Tạng, gồm Kinh Tạng, Luật Tạng và Luận Tạng.
Suy nghĩ miên man về con người thám hiểm vĩ đại, người cầu đạo kiên trì, nhà hành hương đĩnh ngộ học hỏi không mệt mỏi, tôi chợt nghĩ nếu tới Tây phương mà không đem kinh về được Đông độ thì sao? Và nếu kinh còn nguyên gốc tiếng Phạn thì sao? Đường Tam Tạng đã miệt mài dịch Kinh.
Nhà sư đứng trước mặt tôi đã làm nên sự nghiệp vô tiền khoáng hậu tại ngôi tháp Đại Nhạn sừng sững uy nghi vút lên trên trời xanh, mây trắng bay bay đàng xa kia, trong vòng thành của đền Từ Ân. Vòng thành của đền nhìn đến mút mắt. Đền được Thái tử Lý Trị (sau lên ngôi là Đường Cao Tôn) xây để tưởng niệm mẫu hậu. Khuôn viên của đền rộng khoảng 30.000m2.
Có một ngôi chùa lớn ở trung tâm đền, khói nhang nghi ngút, đông nghẹt người kính tín. Tôi nhắm hướng ngôi tháp cao đàng xa mà đi tới. Tháp cao quá, đứng gần ngước nhìn mỏi cổ. Tháp bảy tầng, bằng gạch. Được biết hiện nay tháp cao sáu mươi bốn thước. Tôi lại lặng người chiêm bái. Sư Huyền Trang thỉnh kinh về, tấu xin vua cho xây tháp theo kiểu Ấn để cất giữ kinh Phật. Vua Đường Thái Tôn rất vui chuẩn tấu.
Tháp được xây có năm tầng trong khuôn viên đền Từ Ân. Năm mươi năm sau tháp bị sụp. Nữ hoàng Võ Tắc Thiên cho tu sửa lên thành mười tầng. Trận động đất năm 1557 làm tháp bị lún ba tầng, còn lại bảy tầng và có chiều cao như hiện nay, rồi được trùng tu vào đời nhà Minh và mới đây vào năm 1964. Tôi hơi ngạc nhiên về thiêän ý tu sửa tháp Đại Nhạn của Võ Hậu, người vốn sùng bái Đạo Lão có tài trị nước nhưng cũng đầy nhẫn tâm. Qua bao nhiêu năm tháng mà tháp Đại Nhạn vẫn còn đó, uy nghi thanh thoát. Các tiền bối kiến trúc cổ xưa thật đáng khâm phục.
Tại sao lại có tên là Tháp Đại Nhạn? Tên thật đẹp thật hay. Sư Huyền Trang giống như con chim nhạn lớn bay đi thật xa, rồi lại quay về (có người gọi là tháp Đại Ưng, còn tên tiếng Anh là Wild Big Goose Pagoda). Gần một ngàn năm trăm năm trước, bậc Đại Tăng của Đại Đường đã dịch kinh Phật từ tiếng Phạn sang tiếng Hán tại tháp Đại Nhạn này. Nhìn tháp in trên nền trời xanh, mây trắng bay bay, nhớ câu thơ trong bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu: Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay (Tản Đà dịch). Các bản dịch của Đường Tam Tạng đã đem lời dạy của đức Phật đến khắp cõi Á Đông.
Còn thú vị nữa là, sau khi sư Huyền Trang rời đất Phật thì chẳng lâu, Ấn giáo mạnh lên, làm lu mờ đạo Phật, rồi các vua Hồi giáo đến hủy hoại cả Ấn giáo và Phật giáo. Nhờ kinh gốc và bản dịch của Đường Tam Tạng mà lời dạy của Phật còn nguyên. Sư Huyền Trang là người dịch kinh Phật từ tiếng Phạn ra Hán tự số một trong bốn vị uy tín nhất thuở ấy. Các bản dịch của ông đồ sộ nhất, chuẩn nhất và có ảnh hưởng lớn nhất.
Sức làm việc của sư thật kinh khủng, miệt mài dịch bảy mươi lăm bộ kinh, một ngàn ba trăm ba mươi lăm quyển. Sư là một học giả vĩ đại, từ nhỏ thông Nho học, trước khi sang Tây phương, sư đã bỏ công học nhiều ngoại ngữ và nắm vững tiếng Phạn. Ở đất Phật, sư lại tinh luyện tiếng Phạn đến mức thắng lợi trong các cuộc tranh luận và được các học giả và tín đồ ở đó tâm phục khẩu phục.
Thăm bảo tàng Rừng Bia vốn xưa kia là miếu thờ Khổng Tử ở ngay cửa Nam thành cổ Tây An, tôi quá bất ngờ và thú vị. Bên các tấm bia đá cổ xưa khắc các kinh sách Nho giáo cổ điển như Hiếu Kinh, Tứ Thư, Ngũ Kinh từ đời Đường, tôi cảm khái tấm bia khắc bài Giới thiệu các lời dạy thiêng liêng của sư Tam Tạng, nước Đại Đường do vua Đường Minh Hoàng đích thân soạn.
Người hướng dẫn chỉ bức tượng đá hoa cương trắng tạc Lão Tử và hỏi tôi có biết là Đường Tam Tạng cũng là người dịch bản Đạo Đức Kinh sang tiếng Ấn Độ để giới thiệu văn hóa Trung Hoa. Thật sòng phẳng, có đi có lại.
Taxi đưa tôi từ Tháp Đại Nhạn trở về đến cửa Nam thành cổ Tây An. Tôi chợt nghĩ đến điều thú vị, tháp nằm bên ngoài thành cổ Tây an, mà xưa kia tháp Đại Nhạn và đền Từ Ân nằm bên trong thành Trường An, thì ra đế đô của nhà Đường được xây trên vị trí hiện nay của Tây An, nhưng rất rộng lớn, ước tính chu vi là 35km, rồi khi nữ hoàng Võ Tắc Thiên cho dời đô về Lạc Dương thì cho phá hủy Trường An. Tại sao bà chừa lại và trùng tu Tháp Đại Nhạn? Vua Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương cho xây thành Tây An vững chắc, còn y nguyên cho đến ngày nay, nhưng nhỏ hơn nhiều, chu vi chỉ có 12km.
Tôi được thăm đất Trường An, Tây An xưa và nay. Quá khứ Trung Quốc chồng chất tại đây: đế đô Phong, Hạo của nhà Chu, Kinh đô Hàm Dương của vua Tần, đế đô Trường An của Hán Cao Tổ nằm hai bên bờ sông Vị Thủy. Tôi được thăm bảo tàng Bình Mã Dũng trong lăng mộ Tần Thủy Hoàng, được cùng nhà thơ Bạch Cư Dị ngậm ngùi cho mối tình của Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi tại Thanh Hoa Trì nơi mỹ nhân thường tắm gội.
Và tháp Đại Nhạn với tượng Đường Tam Tạng lại đậm nét nhất trong tôi.
( NGUYỄN CHẤN HÙNG )
Trư bát giới .
Đánh dấu