Kết quả 11 đến 20 của 37
Chủ đề: Tam Quốc chí chú
-
09-08-2011, 12:09 AM #11
Tôi có 1 điều vẫn chưa thông:
Hoàn toàn tin tưởng vào Tam Quốc Chí Chú này, nhưng Tào Tháo có phải bạn của Viên Thiệu thủa niên thiếu không? (có tài liệu nói về chuyện đó...) và thấy chuyện này hao hao sử kí Tư Mã Thiên nhỉ, chắc độ tin cậy phải lớn lắm!Điềm tĩnh trước gái xinh và không giật mình trước gái xấu
-
09-08-2011, 02:04 AM #12
Thế thì bác yêu cầu Võ Đế bản kỷ và Viên Thiệu truyện đi?
Muốn biết như nào, xem hồi sau sẽ rõ.
Tất cả các bản chính sử của Trung Quốc đều viết theo dạng này, độ tin cậy chắc chắn lớn hơn các tiểu thuyết rồi.
Nguyên Tam Quốc chí do Trần Thọ chắp bút. Ông này vốn là quan cho nhà Thục Hán, sau lại làm quan cho nhà Tấn nên viết có phần hơi ưu ái cho nhà Thục.
Sau này được Bùi Tùng Chi chú giải thêm thì lại quá lâu rồi, nên hơi pha tạp.
Thú thật, tôi cũng không hiểu sao không có nhà xuất bản nào dịch và in bộ này, nếu có người dịch chuyên nghiệp chắc hay hơn
-
09-08-2011, 02:59 AM #13
Bác dịch đã quá hay rồi ,câu cú liền lạc vững chắc .người thích chính sử rất ít , đa số khoái dã sử với những tình tiết thêu thùa hư cấu phù hợp với óc tuởng tuợng đại chúng .Có lẽ vì thế nên ít nhà xuất bản nào chịu in bản này
Bản dịch này của bác đọc còn thú vị hơn cả Sử Ký Tư mã Thiên ,sức nặng của lịch sử trong chính sử thật độc đáo ,nó thổi tan đi những huyền thoại hoang đuờng để còn duy nhất một chân dung sự thật .Xin cảm ơn tấm lòng và công phu của người dịchBà kia tuổi sáu mươi rồi
Mà sao vẫn phải sầu ngồi bán khoai
Cụ kia tuổi bẩy mươi hai
Mà sao ong bướm mệt nhoài chán chê…
-
09-08-2011, 10:56 AM #14
Thực ra bản dịch này có tới hơn 10 người tham gia dịch và biên tập, cũng chẳng ai biết ai cả. Ngay trong số 10 người này cũng có người dịch hay, có người dịch chưa hay, có người dịch từ nguyên bản, có người dịch qua tiếng Anh rồi đối chiếu với từ điển Thiều Chíu, tôi sợ rằng có người có đoạn khó dịch quá nên bịa 1 đoạn, vì vậy bản dịch này đôi chỗ có vấn đề.
Xin gửi tiếp đoạn nói về Tào Tháo. Đoạn này dài nhất nên sẽ gửi là nhiều đợt.
-
09-08-2011, 10:57 AM #15
Vũ Đế kỷ (SGZ1)
Thái Tổ Vũ Hoàng Đế người Tiêu Quận nước Bái. Họ Tào, húy Tháo, tự Mạnh Đức, vốn dòng dõi Tướng Quốc nhà Hán là Tào Tham.
[Tào Man truyện chép: Thái tổ còn có tên là Cát Lợi, tên khi bé là A Man. Ngụy Thư của Vương Trầm chép: họ ấy gốc từ Hoàng Đế. Vào đời Cao Dương, người con của Lục Chung tên là An được đặt họ Tào. Khi Châu Vũ Vương đánh Ân, bắt đầu triều đại cùng tên, phong Tào Hiệp đất Chu. Vào thời Xuân Thu, có tham dự minh hội (1), đến thời Chiến Quốc, bị nước Sở diệt. Con cháu ly tán, vài nhà đến đất Bái. Khi Hán Cao Tổ nổi lên, Tào Tham nhờ công được phong Bình Dương Hầu, con cháu tập tước, vài lần bị tuyệt nhưng đều tái lập cho đến ngày nay -- ngôi vị tại Dong thành. ]
Thời Hoàn Đế, Tào Đằng được dùng làm Trung Thường Thị Đại Trường Thu, phong Phí Đình Hầu.
[Tục Hán Thư của Tư-mã Bưu chép: cha Đằng là Tiết, tự Nguyên Vĩ, có tiết hạnh nhiều người khen. Có lần người hàng xóm mất lợn, nhìn giống lợn của Tiết. Hắn bèn chiếm đoạt lấy nhưng Tiết không giận. Sau đó, con lợn về nhà, người hàng xóm xấu hổ đem lợn trả và tạ Tiết, Tiết chỉ cười nhận lấy. Vì thế, mọi người đều khen ngợi. Người con trưởng tự Bá Hưng, kế Trọng Hưng, rồi Thúc Hưng. Tào Đằng, tự Quý Hưng, từ bé vào cung làm Hoàng Môn Lang. Năm đầu Vĩnh Ninh, Đặng Thái Hậu xuống chiếu sai quan Hoàng Môn Lệnh (2) tuyển trong số Hoàng Môn, người tuổi tác tính tình thích hợp để cùng học với Thái Tử. Nhờ vậy, Đằng được chọn. Thái Tử yêu thích Đằng và thường ban cho Đằng quà rượu hơn người khác. Khi Thái Tử lên ngôi, tức Thuận Đế, cho Đằng làm Tiểu Hoàng Môn, rồi thăng đến Trung Thường Thị Đại Trường Thu. Đằng giữ chức hơn 30 năm, trãi 4 đời vua, trước nay chưa từng có. Đằng thích tiến cử hiền tài và không bôi nhọ ai. Trong số được Đằng tiến cử, từ Trần Lưu có Ngu Phóng, Biện Thiều, Nam Dương có Diên Cố, Trương Ôn, Hoằng Nông có Trương Hoán, Dĩnh Xuyên có Đường Khê, tất cả đều được ngôi cao. Đằng cũng không từng khoe khoang. Khi Thái-thú Thục Quận gởi thư cho Đằng bị Thứ-sử Ích Châu Thứ sử Sùng Cảo bắt được. Cảo dâng biểu xin bãi chức Đằng vì Đằng có liên hệ với các quan bên ngoài. Hoàng Đế đáp: "Thư ấy từ bên ngoài gởi vào, không phải do Đằng thảo, Đằng không có tội." Vì đế biểu của Cảo bị bỏ qua. Đằng không lấy thế làm thù oán, vẫn thường khen ngợi Cảo vì Cảo có khí tiết. Sau Cảo làm đến Tư Đồ, thường nói với mọi người rằng: "Tôi có ngày hôm nay nhờ Tào Thường thị". Mọi việc khác Đằng đều như thế. Khi Hoàn đế lên ngôi, vì Đằng là tôi tiên triều, lòng trung hiếu của Đằng được ngợi khen và phong làm Phí Đình Hầu, được tôn vinh. Năm Thái Hòa thứ 3 Đằng được truy tôn làm Cao Hoàng Đế.]
Con Đằng là Tung nối tước, làm đến Thái Úy, nhưng không ai biết nguồn tích của Tung ra sao. Tung sinh ra Thái Tổ.
[Tục Hán Thư: Tung tự Cự Cao, tính đôn hậu, ai cũng biết lòng trung hiếu. Ban đầu làm Tư Lệ Hiệu Úy, rồi Linh Đế thăng lên làm Đại Tư Nông, Đại Hồng Lô, rồi thay Thôi Liệt làm Thái Úy. Hoàng Sơ năm đầu, truy tôn Tung làm Thái Hoàng Đế. Tào Man truyện của người Ngô và Thế Ngữ của Quách Ban cùng chép: Tung là con dòng họ Hạ Hầu và là em bố Hạ Hầu Đôn. Nên Thái Tổ và Đôn là anh em họ.]
Thái Tổ khi bé tuy nhanh trí, nhưng ham chơi, lêu lổng, không màng đến sự nghiệp. Mọi người vì thế không cho Thái Tổ sẽ nên tích sự gì.
[ Tào Man truyện chép: Thái Tổ khi bé chỉ thích đua chó, săn chim, lêu lổng tối ngày, hay bị người chú đến mách bố. Thái Tổ bị răn trách, sau gặp người chú trên đường, giả lên cơn động kinh sùi bọt mép. Người chú hoảng sợ hỏi bị gì. Thái Tổ đáp "Trúng phải gió độc rồi!". Người chú vội vàng chạy đến báo với Tung. Tung kinh hãi, gọi Thái Tổ đến, thấy Thái Tổ vẫn bình thường. Tung hỏi: "Chú nói mày trúng gió. Không đúng à?" Thái Tổ đáp: "Con có gì đâu. Chú không thích con, nên toàn thấy những chuyện xấu". Tung vì thế đâm ra nghi ngờ. Từ đó trở đi, Tung không tin những gì người chú nói về Thái Tổ nữa, Thái Tổ lại càng táo tợn hơn. ]
Duy có người nước Lương là Kiều Huyền, người Nam Dương là Hà Ngung lại cho là khác. Huyền bảo Thái Tổ rằng: "Thiên Hạ sắp loạn, không phải người có tài 'mệnh thế' thì không cứu được. Ông chính là người đó!".
[ Ngụy Thư viết: Thái Úy Kiều Huyền, vốn nổi tiếng biết xem người, thấy Thái Tổ khác thường, nói: "Tôi biết hầu hết danh sĩ thiên hạ, nhưng chưa thấy ai được như ông! Ông giữ lấy mình. Tôi già quá! Vợ con gởi gấm nơi ông đấy!" Thanh danh Thái Tổ nhờ đó càng nổi. Tục Hán Thư viết: Huyền, tự Công Tổ, nghiêm minh và có tài lược, giỏi nhìn người. Hán Kỷ của Trương Phan chép: Huyền khi ở ngôi cao trong ngoài biết tư cách, khiêm nhượng với kẻ dưới. Lại không vì quyền quý vương khanh mà kết thân. Vào năm Quảng Hòa Huyền làm Thái Úy, được một thời gian vì bệnh nên thôi, được phong Thái Trung Đại Phu, rồi mất. Nhà nghèo không sản nghiệp, linh cửu không có đồ chôn theo. Người đương thời cho là danh thần. Thế Ngữ chép: Huyền bảo Thái Tổ: "Ông ít người biết, nên làm quen với Hứa Tử Tương" Thái Tổ làm quen, Tử Tương chịu nhận, nhờ vậy người ta biết tiếng. Sách Dị Đồng Tạp Ngữ của Tôn Thịnh chép: Thái Tổ một lần lẻn vào nhà Trung Thường Thị Trương Nhượng. Nhượng biết, bèn cầm thủ kích ngoài sân rồi nhảy qua tường bỏ đi. Tài vũ Thái Tổ hơn hết mọi người, không ai hại được. Sách nào cũng biết, đặc biệt là binh thư. Gom gộp binh pháp mọi nhà viết lại rõ ràng -- gọi là 'Tiếp Yếu', còn ghi chú cả 13 chương binh pháp của Tôn Tử, thảy đều còn truyền. Thường hỏi Hứa Tử Tương: "Tôi là người thế nào?" Tử Tương không đáp. Cố hỏi, Tử Tương rằng: "Thời bình ngươi là năng thần, thời loạn ngươi là gian hùng". Thái Tổ cười to.]
20 tuổi, được đề cử Hiếu Liêm, làm chức Úy một bộ ở Bắc Lạc Dương, rồi đổi qua Đốn Khâu Lệnh.
[ Tào Man truyện: Ban đầu mới giữ chức Úy, Thái Tổ sửa sang mọi việc. Làm roi 5 màu, dựng hai bên cổng tất cả 10 cây. Ai phạm cấm, bất kể cường hào, đều bị nọc ra đánh đến chết. Sau nhiều tháng, một hôm người chú của Tiểu Hoàng Môn Kiển Thạc, sủng thần của vua Linh Đế, đi đêm bị bắt, bèn cho đánh đến chết. Kinh Đô vì vậy yên ổn, không ai dám phạm luật. Bọn sủng thần vì vậy đều ghét, nhưng không ai làm gì được. bèn cùng nhau tiến cử cho đổi qua làm quan Lệnh ở Đốn Khâu.]
Rồi được phong làm Nghị Lang.
[ Ngụy Thư: Chồng em họ Thái Tổ là cường hào Tống Kỳ bị giết, phàm thân thích đều bị thải quan. Sau vì Thái Tổ thông cổ học, được vời làm Nghị Lang. Đại Tướng Quân Đậu Vũ cùng Thái Phó Trần Phiền mưu diệt hoạn quan, nhưng ngược lại cùng bị giết. Thái Tổ dâng thư nói vì Trần, Vũ cùng những người chính trực bị hãm hại, gian tà đầy triều, người thiện bị chèn ép, lời lẽ thống thiết; Linh Đế không màng đến. Sau đó truyền chiếu xuống cả 3 phủ, sắc rằng: Những ai lên tiếng đòi sửa sang chính trị của châu huyện đều bị coi là tung tin nhảm và cách chức. Các quan tam công thiên tà không còn là chuyện hiếm, hối lộ lại càng thịnh hành. Lời oán đám cường bạo đã không người tâu lên, những kẻ yếu ráng giữ mình cũng đa phần bị hãm hại. Thái Tổ giận lắm. Nhằm năm nhiều chuyện thiên tai khác thường, bèn dâng thư can gián, giải thích rằng tam công rặt tâu lên những chuyện tránh đụng chạm đến bọn quý thích. Tâu lên, nhà vua ngộ ra, bèn bãi chức cả tam phủ, những người 'tung tin nhảm' được phong làm Nghị Lang. Nhưng từ đó về sau việc chính trị ngày càng loạn, cường hạo lộng hành làm nhiều người bị hãm diệt. Thái Tổ biết mình không thay đổi được gì nên không tâu điều gì nữa. ]
Cuối thời Quảng Hòa, Hoàng Cân nổi dậy. Bèn được phong làm Kỵ Đô Úy, dẹp giặc ở Dĩnh Xuyên. Sau đổi làm Tế Nam Tướng. Nước này gồm 10 huyện , vì các quan Trưởng Sử đa phần dựa vào bọn quý thích, tham ô hối lộ lộng hành. Bèn tâu lên xin đuổi 8 người như thế. Lại cấm ngặt các hành vi tà vạy, bọn gian quỹ vì thế trốn đi, trong quận được yên ổn.
[ Ngụy Thư: Trưởng Sử nhận hối lộ, dựa vào thế quý thích, những quan Tướng trước không dám động đến. Nghe tin Thái Tổ đến, xin miễn chức cả đám, lớn nhỏ sợ điếng người, bọn gian quỹ bèn chạy sang quận khác. Việc chính trị nhờ thế củng cố, cả quận thanh bình. Trước đây, Thành Dương Cảnh Vương Lưu Chương có công lớn với nhà Hán, được phong quốc (Thành Dương) lập nhà từ, các quận khác của Thanh Châu đều bắt chước theo. Ở Tế Nam lại càng thịnh hành, xây đến hơn 600 nhà từ. Có tên thương gia giả chiếc kiệu 'nhị thiên thạch' cho chúng khuân trên đường, ca hát xênh xang, xa xỉ vô cùng, trong khi dân tình nghèo túng, thế nhưng quan Trưởng Sử không dám cấm các hành vi như thế. Thái Tổ đến, lệnh phá hết các nhà từ, cấm tuyệt cả quan cả dân đến tế ở nhà từ. Đến khi nắm quyền chính, bèn diện trừ nạn thờ cúng quỷ thần gian tà, việc thờ cúng huyễn hoặc từ ấy mới dứt.]
Ít lâu. được vời làm Thái Thú Đônguận, nhưng không nhận, xưng bệnh về làng.
[ Ngụy Thư: Khi bọn quyền thần nắm triều chính, quý thích lộng hành. Thái Tổ không thể đổi tính che chở cho bọn này. Nhiều lần trái lệnh, sợ họa đến nhà, bèn lui gót giữ mình. Tuy làm Nghị Lang, nhưng thường cáo bệnh, xin về làng. Lại cho xây nhà ngoài thành, XuânHạ đọc sách, Thu Đông săn bắn, lấy thế làm vui ]
Được ít lâu, Thứ-sử Ký Châu Vương Phân, cùng Hứa Du người Nam Dương, Châu Tinh người Bái Quốc liên kết hào kiệt, mưu phế Linh Đế, lập Hợp Phì Hầu, cho Thái Tổ biết, Thái Tổ không theo. Việc này không thành.
[ Cửu Châu Xuân Thu của Tư-mã Bưu: Khi con Trần Phiền là Dật cùng Thuật sĩ người Bình Nguyên là Tương Giai hội bàn với Phân, Giai nói: "Thiên văn bất lợi cho bọn Hoạn quan. Bọn Hoàng Môn, Thường Thị thảy đều sẽ bị diệt tộc". Dật rất vừa lòng. Phân nói: "Nếu vậy, tôi nguyện trừ bọn này". Bèn cùng Du kết mưu. Khi Linh Đế muốn về thăm nhà cũ ở Hà Gian, Phân nhân đấy lập kế, gởi thư cho cướp Hắc Sơn bảo đánh cướp quận huyện, để có dịp khởi binh. Bấy giờ ở phía Bắc xuất hiện làn khí đỏ trãi suốt từ Đông sang Tây, quan Thái Sử tâu lên rằng: "Đương có âm mưu, không nên bắc hành". Vua bèn dừng lại, hạ lệnh cho Phân bãi binh, rồi cho gọi đến. Phân sợ, tự sát. Ngụy Thư có thuật lời Thái Tổ cự Phân rằng: "Phế lập là chuyện bất tường cho cả thiên hạ. Người xưa phải nắm hết quyền bính trong tay, tính hết các lẽ nặng nhẹ, như Y Doãn, Hoắc Quang mới nghĩ đến chuyện đó. Y Doãn tỏ được lòng trung, lại có thế là Tể Tướng, trên hết các quan, nắm mọi đường tiến lui -- việc mới thành. Rồi đến Hoắc Quang, nhận lời ủy thác gửi nước, ngồi ngôi tông thần. Bên trong, nhờ Thái Hậu, nắm hết việc chính trị trọng yếu, bên ngoài lại có sự ủng hộ của các quan. Xương Ấp mới lên ngôi, chưa lấy được lòng quý tộc, trong triều lại không có ai ho he để có thể cùng bàn tính riêng. Nếu gồm hết những yếu tố này, việc đã không thành. Nay các ông chỉ thấy những thành công xưa mà không nhận ra khó khăn hiện tại. Các ông thử tính xem, cộng tất cả các ông lại, có đông bằng 'thất quốc' không? (1) Cái quý phái của Hợp Phì Hầu, liệu có bằng Ngô, Sở không? (2) Phàm làm chuyện phi thường, khắc kỵ dục vọng, (các ông) sao tránh được tai họa!"]
Người Kim Thành là Biện Chương, Hàn Toại giết Thứ Sử, Thái Thú làm phản, đông đến hơn 10 vạn người. Thiên hạ tao động. Thái Tổ được vời làm Điển Quân Hiệu Úy. Rồi Linh Đế mất, Thái Tử lên ngôi. Đại Tướng Quân Hà Tiến cùng Viên Thiệu mưu diệt Hoạn quan, Thái Tổ không nghe. Tiến muốn vời Đổng Trác, nhằm tạo thế uy hiếp Thái Hậu.
[ Ngụy Thư: Tin đến tai, Thái Tổ cười rằng "Quan hoạn xưa nay có bao giờ không có. Chẳng qua gần đây các vua cho bọn chúng quá nhiều quyền hành, ân huệ, mới gây ra nạn này. Muốn trị bọn này, cứ giết mấy tên đầu sỏ, chỉ cần một viên ngục quan là đủ, cần gì phải gọi tới gọi lui các tướng bên ngoài! Còn muốn diệt sạch bọn này, việc thể nào cũng lộ ra, tôi nghĩ là sẽ thất bại"]
Trác chưa đến, Tiến đã bị giết.
(1) Chỉ việc 7 nước khởi loạn thời Cảnh Đế.
(2) Chỉ Ngô Vương và Sở Vương, cùng sự kiện như (1).
(Còn nữa)Lần sửa cuối bởi hyh, ngày 09-08-2011 lúc 11:03 AM.
-
10-08-2011, 01:42 PM #16
Võ đế kỷ (tiếp)
Trác tới, phế Thiếu Đế làm Hoằng Nông Vương rồi lập Hiến Đế, kinh sư đại loạn. Trác dâng biểu cho Thái tổ làm Kiêu kỵ Thái uý(11), muốn cùng mưu toan việc. Thái tổ bèn thay tên đổi họ, bỏ quan đi về phía Đông.
Nguỵ thư chép: Thái Tổ nghĩ rằng Trác sau này ắt bại vong, bèn không nhận chức, bỏ trốn về quê. Đem theo mấy quân kỵ tới nhà người quen cũ ở Thành Cao là Lã Bá Xa; Bá Xa không có nhà, các con của Bá Xa và tân khách họp nhau đánh cướp lấy mất ngựa và đồ vật của Thái Tổ, Thái tổ tự tay giết chết mấy người.
Thế Ngữ chép: Thái tổ đi qua nhà Bá Xa, Bá Xa đi ra ngoài, năm con ở nhà, chuẩn bị đồ lễ tiếp đón tân khách. Bởi Thái tổ cho rằng mình trái lệnh Đổng Trác, ngờ rằng những người ấy mưu toan hại mình, nên đang đêm dùng gươm chém chết tám người rồi bỏ đi.
Sách Tạp ký của Tôn Thịnh chép: Thái tổ nghe tiếng mài dao(12), cho rằng họ toan hại mình, bèn ngay đêm giết chết họ. Giết xong rồi mới thương xót mà rằng: "Thà ta phụ người, chứ không để người phụ ta!" Rồi bỏ đi.
Ra khỏi cửa quan, đi qua huyện Trung Mâu, viên Đình trưởng(13) ở đấy nghi ngờ, bắt Thái tổ giải đến huyện, trong ấp có kẻ biết việc ấy, bèn xin thả ra. Sách Thế Ngữ chép: Người ở Trung Mâu ngờ rằng đấy là kẻ đang bỏ trốn, bèn bắt giải tới huyện. Bấy giờ đám Duyện thừa cũng đã nhận được công văn của Trác; nhưng chỉ có viên Công tào(14) trong bụng biết được rằng đó là Thái tổ, bởi thấy xã hội lúc ấy đang loạn lạc tứ tung, chẳng nên bắt bớ những kẻ anh hùng trong thiên hạ, nhân thế mới bẩm với viên huyện lệnh xin phóng thích.
Trác giết Thái hậu cùng Hoằng Nông Vương. Thái tổ đến Trần Lưu, phát tán gia tài, tụ tập nghĩa binh, muốn diệt Đổng Trác. Mùa đông tháng mười, mới khởi binh ở Kỷ Ngô, bấy giờ là năm Trung Bình thứ sáu.
Sách Thế Ngữ chép: Viên quan Hiếu Liêm ở Trần Lưu là Vệ Tư lấy của riêng chu cấp cho Thái Tổ, sai khởi binh, binh chúng có đến 5.000 người.
Mùa xuân Năm Sơ Bình nguyên niên tháng giêng, Hậu tướng quân Viên Thuật; Ký châu mục Hàn Phức; Anh hùng ký chép rằng: Phức tự Văn Tiết, người ở quận Dĩnh Xuyên. Làm Ngự sử Trung thừa. Đổng Trác tiến cử làm Ký châu mục. Lúc bấy giờ ở Ký châu nhân dân giàu có, binh lương đầy đủ. Viên Thiệu đang ở Bột Hải, Phức sợ Thiệu dấy binh ở đấy, liền phái mấy viên Tòng sự đến phòng giữ, không được manh động. Đông quận Thái thú Kiều Mạo giả danh Tam công ở Kinh sư gửi thư cho các châu quận, kể ra tội ác của Trác, nói rằng "bị bức bách, không thể tự cứu nổi, ngóng đợi nghĩa binh, cứu quốc gia qua cơn hoạn nạn". Phức được thư, họp đám Tòng sự của mình hỏi rằng: "Bây giờ ta nên cứu trợ Viên Thiệu, hay giúp đỡ Đổng Trác đây?". Viên Trị trung Tòng sự là Lưu Tử Huệ nói: "Nay ta hưng binh là vì quốc gia, sao lại nói là vì Viên-Đổng!" Phức tự biết mình nói hớ nên hổ thẹn ra mặt. Tử Huệ lại nói: "Việc binh là chuyện hung hiểm, chớ nên cầm đầu, nay hãy nghe ngóng ở các châu khác xem thế nào, chờ họ phát động trước, ta sẽ phụ hoạ với họ sau. Ký châu so với các châu khác cũng chẳng vì thế mà yếu đi vậy, người khác có công cũng không bảo là Ký châu không giúp đỡ vậy." Phức theo lời ấy. Bèn gửi thư cho Thiệu, nói Trác là kẻ ác, mong bên ấy khởi binh. Dự châu thứ sử Khổng Du; Anh hùng ký chép: Du tự là Công Tự, người ở quận Trần Lưu. Sách Hán kỷ của Trương Phan chép lời Trịnh Thái thuyết Trác rằng: "Khổng Công Tự là kẻ chỉ thanh đàm cao luận(15), mà hơi thở dật dờ như người sắp chết vậy." Duyện châu Thứ sử Lưu Đại;Đại là anh em với Lưu Do, chuyện này thấy chép ở Ngô chí. Hà nội Thái thú Vương Khuông; Anh hùng ký chép: "Khuông tự Công Tiết, người ở quận Thái Sơn. Vốn coi nhẹ tiền tài hay giúp đỡ người, dốc lòng làm việc nghĩa. Đại tướng quân Hà Tiến vời vào làm Phù sứ, Khuông đang ở Từ Châu dẫn 500 quân cung thủ theo hướng Tây thẳng tới kinh sư. Đúng lúc Tiến chết, Khuông lại trở về quê. Khi khởi sự, được phong là Thái thú Hà Nội. Sách Hậu Hán thư của Tạ Thừa chép: Khuông thủa nhỏ chơi thân với Sái Ung. Đến năm bị quân của Trác đánh bại, bỏ chạy về Thái Sơn, tụ họp được mấy nghìn quân dũng mãnh, bèn cùng với Trương Mạc hợp binh. Khuông trước tiên giết chết Chấp kim ngô Hồ Mẫu Ban. Đám thuộc hạ của Ban không đánh lại được hết sức phẫn nộ, bèn dựa vào thế lực của Thái tổ, hợp sức giết Khuông. Bột hải Thái thú Viên Thiệu; Trần Lưu Thái thú Trương Mạc; Đông quận Thái thú Kiều Mạo; Anh hùng ký chép: Mạo tự Nguyên Vĩ, cùng dòng dõi với Kiều Huyền. Trước làm Duyện châu Thứ sử, rất có ân uy. Sơn dương Thái thú Viên Di; Di tự Bá Nghiệp, Thiệu coi như anh. Làm chức lệnh ở Trường An. Trương Siêu ở Hà Gian từng tiến cử Di với Thái uý Chu Tuấn, khen Di là "Viên quan mẫu mực ở đời, mẫn cán mà độ lượng. Trung thực sáng suốt mà ngay thẳng, rộng lòng tha thứ; cai quản trăm họ, dân được phong túc, có tài nhìn vật biết đượctên, nay được người ấy, người ở nơi xa sẽ theo về cả." Điều này thấy ghi chép ở Siêu tập. Anh hùng ký chép: Thiệu sau dùng Di làm Dương châu Thứ sử, bị Viên Thuật đánh bại. Thái tổ khen "Đã cao tuổi vẫn miệt mài học tập, chỉ có ta và Viên Bá Nghiệp vậy." Câu này thấy ghi ở sách Điển luận của Văn Đế. Tế bắc quốc tướng Bão Tín,việc có Tíntham dự thấy nói ở Tử Huân truyện. Bấy giờ đồng thời cùng khởi binh(16), sĩ tốt mỗi đạo đều có mấy vạn người, suy tôn Thiệu làm Minh chủ. Thái tổ làm Phấn Vũ tướng quân.
Tháng hai, Trác hay tin binh mã nổi dậy, bèn dời Thiên tử từ kinh đô đến Tràng An. Binh của Trác đóng ở Lạc Dương, đốt cháy cung thất. Bấy giờ Thiệu đóng binh ở Hà Nội, Mạc-Đại-Mạo-Di đóng quân ở Toan Tảo, Thuật đóng binh ở Nam Dương, Du đóng quân ở Dĩnh Xuyên, Phức vẫn ở huyện Nghiệp. Binh lực của Trác rất mạnh, Bọn Thiệu chẳng ai dám tiến đánh trước. Thái tổ nói: "Chúng ta cất nghĩa binh giết kẻ bạo tàn, đại quân đã hội họp, chư quân sao còn phải hồ nghi nữa? Bọn Đổng Trác nghe tin ở Sơn Đông khởi binh, ỷ vào vương thất làm trọng, chiếm cứ hai kinh(17) hiểm yếu, ngoảnh về phía Đông xem việc thiên hạ; dẫu chúng ta hành động vô đạo, chỉ bởi chúng gây ra hoạ vậy. Nay chúng thiêu rụi cung thất, bức thiên tử dời đô, hải nội chấn động, sĩ dân chẳng biết hướng về đâu, ấy là lúc trời hại chúng nó vậy. Đánh một trận mà yên định được thiên hạ, cơ hội chẳng nên bỏ lỡ vậy."
Thái tổ dẫn binh về phía Tây, chiếm cứ Thành Cao. Mạo sai tướng của mình là Vệ Tư cầm một cánh quân đi theo Thái tổ. Đến sông Biện Hà ở Huỳnh Dương(18), gặp tướng của Trác là Từ Vinh, đánh nhau gặp bất lợi, sĩ tốt chết và bị thương rất nhiều. Thái tổ bị trúng tên, con ngựa đang cưỡi bị thương, người em họ Thái tổ là Hồng nhường ngựa của mình cho Thái tổ, đêm ấy Thái tổ trốn thoát được. Vinh thấy Thái tổ binh lực ít, nhưng đã đánh nhau trọn ngày, lại cho rằng Toan Tảo chưa thể đánh được, cũng dẫn binh quay về.
Thái tổ về đến Toan Tảo, thấy chư quân binh lực đông đến hơn chục vạn người, ngày ngày tụ họp uống rượu, chẳng có ý đồ tiến thủ gì. Thái tổ trách mắng bọn họ, nhân đó bầy mưu rằng: "Chư quân hãy nghe kế của ta, để Bột Hải(19) dẫn binh sỹ từ Hà Nội đến Mạnh Tân, các tướng ở Toan Tảo tiến lấy Thành Cao, chiếm cứ Ngao Thương, đóng giữ Hoàn Viên-Thái Cốc, chẹn hết chỗ hiểm yếu; phái Viên tướng quân (20) xuất lĩnh quân đội ở Nam Dương và quân Đan-Tích(21) tiến vào Vũ Quan, khiến Tam Phụ(22) chấn động. Nay mọi người lại tường cao luỹ sâu, không tiến đánh, khiến binh sỹ ngờ vực, việc trong thiên hạ là thế, theo lẽ thuận đánh kẻ nghịch tặc, có thể yên định được vậy. Nay cất binh làm việc nghĩa, lại ôm mối ngờ vực chẳng chịu tiến lên, thật mất cả lòng trông ngóng của thiên hạ, thiết tưởng ba quân đều phải xấu hổ vậy!" Bọn Mạc chẳng chịu nghe kế ấy.
Thái tổ binh ít, bèn cùng với bọn Hạ Hầu Đôn đến Dương Châu mộ binh, Thứ sử Trần ôn, Đan dương Thái thú Chu Hân giúp cho số quân hơn bốn ngàn người. Thái tổ quay về đến Long Kháng(23), số đông sĩ tốt làm phản. Nguỵ thư chép: Binh sỹ toan tính làm phản, đang đêm đốt trướng của Thái tổ, Thái tổ vung kiếm giết chết mấy chục người, đám còn lại đều bỏ chạy nháo nhào(24), trốn khỏi quân doanh; đám quân sỹ không làm phản chỉ có 500 người. Về đến Kiến Bình, lại thu được số binh lính hơn 1.000 người, bèn tiến lên đóng quân ở Hà Nội.
Lưu Đại cùng với Kiều Mạo đánh nhau, Đại giết chết Mạo, lấy Vương Lăng lĩnh chức Đông quận Thái thú.
Viên Thiệu cùng với Hàn Phức âm mưu lập U châu mục Lưu Ngu làm Hoàng đế, Thái tổ cự tuyệt việc ấy. Nguỵ thư chép lời Thái tổ đáp lại Viên Thiệu rằng: "Đổng Trác gây nên tội ác, sự tàn bạo vang bốn bể, chúng ta tụ hợp mọi người, hưng nghĩa binh, xa gần chẳng ai không hưởng ứng, ấy là việc nghĩa khiến thiên hạ cảm động vậy. Nay ấu chủ thơ dại, quyền hành ở cả trong tay gian thần, cũng chưa bằng Xương Ấp vong quốc vì biến loạn, một sớm làm việc phế lập(25), ai sẽ là người vỗ yên thiên hạ đây? Các ông cứ ngoảnh về Bắc, ta xin hướng về Tây (26).
Thiệu từng bắt được một cái ấn ngọc, ngồi cạnh Thái tổ mở tay cho xem, Thái tổ bởi thế cứ cười thầm. Nguỵ thư chép: Thái tổ cả cười nói: "Ta không nghe lời ông đâu." Thiệu lại sai người đến thuyết Thái tổ rằng: "Nay Viên công thế thịnh binh cường, có hai con hùng tráng, là anh hào trong thiên hạ, ai có thể hơn được?" Thái tổ không đáp. Bởi thế cho là Thiệu không ngay thẳng, có mưu đồ diệt đi.
(còn dài dài ....)
-------------
(11) Quan chỉ huy quân kỵ ở khu Tư lệ (kinh thành).
(12) Nguyên văn là 'văn kì thực khí thanh' - nghe tiếng mài khí cụ.
(13) Chức này tương đương với chủ tịch xã bây giờ.
(14) Chức này ví như là Trưởng công an huyện.
(15) Bàn những lời cao luận suông.
(16) Về các chức vụ ở trên thì có thể hiểu sơ bộ thế này. Thời nhà Hán có tất cả là 12 châu và khu Tư Lệ (kinh đô), mỗi châu do một viên thứ sử cầm đầu, chức Mục là chức mới đặt ra, quyền lực còn lớn hơn Thứ sử một chút. Còn các chức Thái thú là quản lý một quận (thuộc châu). Riêng chức tướng quốc cũng chỉ tương đương với quận mà thôi. Quốc ở đây hiểu như một đặc khu hành chính nhỏ.
(17) Cư nhị Chu chi hiểm, nhị Chu là hai kinh đô của Tây và Đông Hán.
(18) Trên bản đồ thì chỗ này ghi là Vinh Dương, có lẽ cũng đọc là Huỳnh.
(19) Tức Viên Thiệu.
(20) Tức Viên Thuật.
(21) Không rõ là tên người hay địa danh (?)
(22) Tức ba quận là Kinh Triệu (thủ phủ là Tràng An), quận Phù Phong phía bên phải Tràng An tức Hữu Phù Phong (thủ phủ là Hàm Dương) và quận Phùng Dực ở bên trái Tràng An tức Tả Phùng Dực (trung tâm là Đại Lệ).
(23) Một địa danh ở gần Lạc Dương.
(24) Nguyên văn là 'phi mỹ', chạy lướt, chạy vội.
(25) Nguyên văn là 'nhất đán cải dịch', tức là một mai việc biến đổi. Ở đây Thiệu bàn việc lập Lưu Ngu lên làm đế, tức là bàn chuyện phế lập vậy.
(26) Tào Tháo bày tỏ dứt khoát, bọn Thiệu cứ việc ngoảnh về Bắc (Lưu Ngu ở U châu), Tháo cứ hướng về Tây (Vua Hán lúc ấy ở Tràng An).
-
11-08-2011, 05:45 PM #17
Lưu tiên chủ truyện (tiếp theo)
Năm thứ hai mươi, Tôn Quyền nhân vì Tiên Chủ lấy được Ích Châu, sai sứ đến bảo rằng muốn lấy lại Kinh Châu. Tiên Chủ nói: "Đợi khi ta lấy được Lương Châu, đương nhiên sẽ trả lại Kinh Châu cho." Quyền giận, bèn sai Lã Mông tập kích đoạt lấy ba quận Trường Sa-Linh Lăng-Quế Dương. Tiên Chủ dẫn năm vạn binh cuốn đất đến Công An, lệnh cho Quan Vũ thâm nhập Ích Dương. Năm ấy, Tào Công bình định Hán Trung, Trương Lỗ trốn chạy vào Ba Tây, Tiên chủ hay tin, cùng với Quyền liên hoà, phân chia Kinh Châu, các quận Giang Hạ-Trường Sa-Quế Dương thuộc phía đông, Nam Quận, Linh Lăng, Vũ Lăng thuộc phương Tây(27), rồi dẫn quân về Giang Châu. Phái Hoàng Quyền dẫn binh đến nghênh đón Trương Lỗ, song Trương Lỗ đã hàng Tào Công. Tào Công sai Hạ Hầu Uyên-Trương Cáp đóng quân ở Hán Trung, mấy lần xâm phạm vào địa giới đất Ba. Tiên Chủ lệnh cho Trương Phi tiến binh đến Đãng Cừ, cùng với bọn Cáp giao chiến ở Ngoã Khẩu, đánh tan được bọn Cáp, rồi thu binh về Nam Trịnh. Tiên Chủ cũng trở về Thành Đô.
Năm thứ hai mươi ba, Tiên Chủ đốc xuất chư tướng tiến binh đến Hán Trung. Chia quân sai bọn Ngô Lan-Lôi Đồng thâm nhập Vũ Đô, đều bị quân Tào Công đánh giết tan tành ở đó. Tiên Chủ đóng ở cửa ải Dương Bình, cùng với bọn Uyên-Cáp cầm giữ nhau.
Năm thứ hai mươi bốn mùa xuân, Tiên Chủ từ phía nam Dương Bình qua sông Miện, men núi tiến lên, dựa vào địa thế Định Quân sơn lập quân doanh. Uyên dẫn binh đến tranh giành địa thế. Tiên Chủ lệnh cho Hoàng Trung thừa thế ở trên cao thúc trống đánh xuống, đại phá quân Uyên, chém Uyên cùng tạm quyền Thứ sử Ích Châu của Tào Công là Triệu Ngung. Tào Công từ Trường An cất đại binh nam chinh. Tiên Chủ ở nơi xa nghe được nói rằng: "Tào Công dẫu có lại, chẳng thể làm được gì, ta tất có được Hán Xuyên vậy." Lúc Tào Công đến, Tiên Chủ thu đại binh giữ đất hiểm, thuỷ chung không chịu giao phong, hơn tháng không đánh chác gì, quân sĩ bỏ trốn ngày một nhiều. Mùa hạ, Tào Công dẫn quân quay về, Tiên Chủ lấy được Hán Trung. Lại phái bọn Lưu Phong-Mạnh Đạt-Lý Bình(28) vây đánh Thân Đam ở Thượng Dung.
(27) Đông thuộc Ngô, Tây thuộc Thục.
(28) Tức Lý Nghiêm, lúc này Nghiêm đổi tên thành Bình.
-
11-08-2011, 05:49 PM #18
Thục thư quyển nhị
Lưu Tiên chủ truyện (tiếp theo)
Mùa thu, quần thần tôn Tiên Chủ lên làm Hán Trung Vương, dâng biểu lên Hán Hiến Đế rằng: "Bọn thần là Bình Tây tướng quân Đô Đình hầu Mã Siêu, Tả tướng quân Trưởng sử Trấn quân tướng quân Hứa Tĩnh, Doanh tư mã Bàng Hi, Nghị tào Tòng sự Trung lang quân nghị Trung lang tướng Xạ Viên, Tam quyết phụ lục chú chép: Viên tự Văn Hùng, người quận Phù Phong. Họ ấy vốn gốc họ Tạ, cùng với các họ Tạ ở đất Bắc là đồng tộc(29). Thuỷ tổ là Tạ Phục làm tướng quân đi đánh dẹp nơi xa, Thiên tử thấy Tạ Phục chẳng phải là danh tự hay, đổi ra là Xạ, nên con cháu mang họ ấy. Anh Viên là Kiên, tự Văn Cố, thuở nhỏ có danh tiếng tốt, công phủ vời vào làm Hoàng môn Thị lang, Hiến Đế còn nhỏ, Tam Phụ có nạn đói, Kiên bỏ quan, cùng với em là Viên đi về Nam vào Thục nương nhờ Lưu Chương, Chương lấy Kiên làm Trưởng sử. Lưu Bị lên thay Chương, lấy Kiên làm Thái thú Quảng Hán-Thục Quận. Viên thở nhỏ cũng có danh, Thái uý Hoàng Phủ Tung yêu tài gả con gái cho, Thừa tướng Gia Cát Lượng lấy Viên làm Tế tửu, rồi thăng làm Tòng sự, đang làm quan thì chết. Quân sư tướng quân Gia Cát Lượng, Đãng Khấu tướng quân Hán Thọ Đình hầu Quan Vũ, Chinh Lỗ tướng quân Tân Đình hầu Trương Phi, Chinh Tây tướng quân Hoàng Trung, Trấn Viễn tướng quân Lại Cung, Dương Vũ tướng quân Pháp Chính, Hưng Nghiệp tướng quân Lý Nghiêm tất cả một trăm hai mươi người dâng lời rằng:
"Xưa Đường Nghiêu là bậc chí thánh mà tứ hung ở trong triều, Chu Thành là hiền tài nhân đức mà tứ quốc làm khó, Cao Hậu xưng chế mà họ Lã trộm mệnh, Hiếu Chiêu nhỏ dại mà Thượng Quan mưu toan thoán nghịch, đều là cậy thế ân sủng, mượn lý lẽ để nắm quyền quân quốc, cùng hung cực loạn, xã tắc nguy nan. Chẳng phải Đại Thuấn, Chu Công, Chu Hư, Bác Lục, ắt chẳng thể lưu đày kẻ có tội giam cầm kẻ nghịch tặc, yên định an nguy.
Nghĩ đến thánh đức to lớn của Bệ hạ, nắm quyền cai trị muôn bang, nhưng gặp lúc vận hạn khốn khó gian nan. Đổng Trác cầm đầu làm loạn, khuấy động kinh sư, Tào Tháo nối theo gây vạ, trộm giữ mệnh trời; hoàng hậu thái tử, phải uống rượu độc mà chết, thiên hạ nhiễu loạn, muôn dân bị tàn hại. Bệ hạ phải chịu nỗi phong trần lo buồn khốn khổ đã lâu, ẩn mình ở ngôi hư hão. Chúng thần vô chủ, vương mệnh bị lấn áp, ngôi đế vương bị đè nén, thần khí bị cướp đoạt. Tả tướng quân Nghi thành Đình hầu lĩnh chức Tư lệ Hiệu uý ba châu Dự-Kinh-Ích là Bị, đã nhận phẩm trật của triều đình, nghĩ mình phải ra sức, dẫu có chết vì quốc nạn. Bởi thế nên khi thấy được thời cơ, nỗi giận bùng phát, mới cùng với Xa kỵ tướng quân Đổng Thừa mưu toan tru diệt Tháo, để an định quốc gia, đưa vua về cựu đô. Gặp lúc Thừa lo việc không kín, khiến Tháo mặc ý được dịp làm điều đại ác, tàn hại trong ngoài. Bọn thần vẫn thường sợ vương thất lớn thì có cái hoạ Diêm Nhạc(30), nhỏ thì có cái biến An Định(31) Triệu Cao sai Diêm Nhạc giết Nhị Thế. Vương Mãng phế Nhụ Tử làm Định An Công. Thần đêm ngày lo ngay ngáy, run sợ chẳng dám nghỉ ngơi.
Việc xưa ở Ngu thư, chín đời theo thứ tự, xét đến hai đời nhà Chu, phong tước chia đất cho người cùng họ, Kinh Thi nêu rõ việc ấy là nghĩa, truyền mãi đến muôn đời. Hán triều mới hưng thịnh, cắt chia cương thổ, tôn con em làm vương, bởi thế về sau diệt được cái hoạ mấy người họ Lã, mà dựng nên nghiệp lớn họ Lưu.
Chúng thần thấy rằng Bị có lòng vì vương thất, là con cháu công hầu, tấm lòng gửi ở quốc gia, luôn nghĩ đến việc dẹp loạn. Mới đây phá được Tào Tháo ở Hán Trung, kẻ anh hùng khắp hải nội ngóng gió mà nương cậy, thế mà tước hiệu chẳng rõ ràng, ngôi cửu tích chưa được thêm, chẳng phải là việc hay để giữ yên xã tắc, là gương sáng cho vạn đời vậy.
Chúng thần kính vâng mệnh ở bên ngoài, lễ chế vương mệnh bị đứt đoạn. Xưa kia Thái thú Hà Tây là Lương Thống đang lúc nhà Hán hưng vượng, ở trong cõi, địa vị quyền thế nào có hơn ai, chẳng thể làm tướng soái, mà được chọn làm nguyên suý thay cho Đậu Dung, rút cục lập lên công lao, dẹp tan được Ngỗi Hiêu. Nay xã tắc gặp nguy nan, Lũng-Thục khốn khó. Tháo ở ngoài nuốt thiên hạ, bên trong hại đồng liêu, triều đình có mối nguy tường vách, mà kẻ lấn áp chưa thể ngăn chặn, khiến cho y phải run sợ. Chúng thần nương theo điển cũ, phong Bị làm Hán Trung Vương, bái làm Đại tư mã, đốc trách hết lục quân, tập hợp đồng minh, quét sạch kẻ hung nghịch. Lấy Hán Trung-Ba-Thục-Quảng Hán-Kiện Vi lập quốc, tạm chiếu theo phép cũ như chư hầu thời Hán sơ. Đã là phép quyền nghi, ví như có lợi cho xã tắc, chuyên quyền có thể được vậy. Rồi sau này công thành nghiệp dựng, chúng thần xin chịu tội, dẫu chết không hề hối hận."
Rồi cho lập đàn tràng ở Miện Dương, bầy đủ các đồ nghi trượng, quần thần đến đông đủ, đọc tấu chương xong, dâng mũ áo lên cho Tiên chủ.
Tiên chủ dâng biểu lên Hán Hiến đế rằng: "Thần nghĩ rằng mình chẳng có tài cán, tự đảm đương gánh vác ngôi thượng tướng, tổng đốc ba quân, phụng mệnh ở bên ngoài, chẳng quét sạch được nạn giặc, ra sức khuông phò vương thất, khiến cho thánh giáo của bệ hạ bị lấn áp đã lâu, trong sáu cõi, bế tắc chưa thông, thần trong lòng lo lắng trằn trọc không yên, vạ nhưcó bệnh ở trong đầu.
Ngày trước bởi Đổng Trác gây nên loạn lạc, thế nên sau này, bè lũ hung nghịch tung hoành, tàn hại trong ngoài. Nhờ vào thánh đức uy linh của Bệ hạ, nhân thần cùng hưởng ứng, hoặc kẻ trung nghĩa phấn chấn đánh dẹp, hoặc trời cao giáng phạt, kẻ bạo nghịch đều bị giết, dần dần bị tiêu diệt cả. Chỉ còn một Tào Tháo, đã lâu chưa trừ được, dần dà chiếm đoạt quốc quyền, mặc lòng phóng túng gây loạn.
Thần trước đây cùng với Xa kỵ tướng quân Đổng Thừa vạch mưa kế đánh dẹp Tháo, liệu việc chẳng kín, Thừa bị hãm hại, thần trốn tránh không nơi cư trú, có lòng trung nghĩa mà chẳng nên công. Khiến cho Tháo được thể hung hăng cực nghịch, tru lục giết hại cả chủ hậu, mà hoàng tử phải uống rượu độc. Thần dẫu tụ họp nghĩa binh, đã cố hết sức mình, song thế còn yếu kém, năm tháng trôi qua việc cũng chưa thành. Vẫn sợ tâm sức mai một, phụ lại quốc ân, khi thức lúc ngủ mãi thở than, sớm khuya kính sợ mà gắng gỏi.
Nay bọn liêu thuộc của thần cho rằng việc xưa chép ở Ngu thư chín đời theo thứ tự, mọi người gắng gỏi hết lòng, Ngũ đế thêm bớt, đạo ấy chẳng thể phế bỏ. Trịnh Huyền chú rằng: Thứ, là mọi người; lệ, là làm nên; tự là thứ tự vậy. Chín dòng theo thứ tự là họ hàng thân thích, mà những kẻ thần tử hết lòng giúp đỡ vậy. Xét hai đời nhà Chu, chia đất cho những người họ Cơ, thế nên được cậy nhờ Tấn-Trịnh giúp cho hưởng phúc. Cao Tổ nổi lên, tôn ngôi vương cho con em, mở ra chín nước, về sau giết được những người họ Lã, để yên định họ Lưu. Nay Tháo ghét người cương trực trung trinh, bè lũ rất đông, che giấu ác tâm, mưu soán đoạt đã rõ ràng. Tông thất đã suy vi, dòng dõi Đế không ngôi, muốn châm chước phép cổ, tạm mượn quyền nghi, tôn thần lên làm Đại tư mã Hán Trung vương.
Thần suy đi tính lại hai ba lần, đã chịu hậu ân của quốc gia, tự gánh vác việc ở một phương, hết sức mà việc chưa thành, ơn ấy đã là quá, chẳng nên nhục chiếm ngôi cao để bị người đời mỉa mai mang tội lớn. Nhưng quần thần bức bách, lấy nghĩa ép thần. Thần gạt bỏ đi lại nghĩ rằng quân giặc cướp chẳng hết hung hăng, nạn nước chưa qua, tông miếu lâm nguy, xã tắc ngửa ngiêng, nên thần lo lắng nghĩ mình phải gánh vác lấy ngôi đầu. Thuận ứng theo lẽ quyền nghi thông biến, để yên định thánh triều, dẫu xông vào nơi nước lửa, chẳng thể chối từ, mạnh dạn mà lo lắng cái đạo đáng làm, để phòng sau này không hối tiếc. Thế nên thuận theo lời bàn của quần thần, bái nhận ấn tỉ, để tôn cái uy của quốc gia.
Ngẩng lên nghĩ tới tước hiệu, ngôi cao ân hậu, cúi xuống nghĩ rằng phải báo đáp đến cùng, mối lo sâu xa thì trách nhiệm nặng nề, nỗi sợ hãi chất chồng, như dấn thân vào lũng thẳm. Nguyện hết sức hết lòng, để tưởng lệ sáu quân, đốc suất nghĩa binh, ứng trời thuận thời, đánh dẹp kẻ hung nghịch, để yên xã tắc, mong báo ơn muôn một, kính cẩn thảo tấu chương sai dịch thừa dâng lên chúa thượng, xin trao trả chúa thượng chức Tả tướng quân cùng ấn thụ Nghi thành Đình hầu."
Liền đó về đóng dinh sởở Thành Đô. Lại đề bạt Nguỵ Diên làm Đô đốc, trấn thủ Hán Trung.
Điển lược chép: Bị liền cho xây dựng quán dịch, chòi canh, từ Thành Đô đến Bạch Thuỷ quan, hơn bốn trăm chỗ.
Bấy giờ Quan Vũ đánh tướng của Tào Công là Tào Nhân, bắt được Vu Cấm ở Phàn Thành. Ít lâu sau Tôn Quyền tập kích giết chết Vũ, chiếm lấy Kinh Châu.
Chú thích:
(29) Cùng một họ.
(30) Nhị Thế tức Hồ Hợi, chuyện này xảy ra sau khi Tần Thuỷ Hoàng tạ thế mấy năm.
(31) Nhụ Tử tức Nhụ Tử Anh, chuyện này xảy ra vào cuối thời Tây Hán.
(Còn tiếp)
-
13-08-2011, 04:26 PM #19
Thục thư quyển nhị
Lưu Tiên chủ truyện. (Tiếp theo và hết về Lưu Bị)
Năm thứ hai mươi lăm, Nguỵ Văn Đế xưng tôn hào, cải niên hiệu là Hoàng Sơ. Có người đưa tin Hán Đế bị hại, Tiên Chủ bèn mặc áo trắng cử tang, truy thuỵ hiệu là Hiếu Mẫn Hoàng Đế. Sau đó quần thần nói rằng gần đấy có điềm lành, nhật nguyệt nối theo nhau, cho nên các quan Nghị lang Dương Tuyền hầu Lưu Báo, Thanh Y hầu Hướng Cử, Thiên tướng quân Trương Duệ-Hoàng Quyền, Đại tư mã Chúc Ân Thuần, Ích châu Biệt giá Tròng sự Triệu Tộ, Trị trung Tòng sự Dương Hồng, Tòng sự Tế tửu Hà Tông, Nghị tào Tòng sự Đỗ Quỳnh, Khuyến học Tòng sự Trương Sảng-Doãn Mặc-Tiếu Chu cùng dâng lời rằng:
"Thần nghe rằng Hà Đồ-Lạc Thư, Ngũ kinh Sấm-Vĩ(32), đều do Khổng Tử xét soi sáng tỏ, đã chứng nghiệm từ lâu. Cẩn trọng tra xét Lạc Thư Chân Diệu Độ có ghi: 'Đời vua chuộng màu đỏ thứ ba, đức vận xương thịnh(33), sau chín đời đến người tên Bị, hợp với ngôi Đế.' Lạc Thư Bảo Hào Mệnh có ghi: 'Trời cai quản đạo đế vương cho người tên Bị xưng làm hoàng đế, lấy chính thống thu lấy đế vị, trăm việc đều nên chẳng thể thất bại.' Lạc Thư Lục Kỳ Vận có ghi: 'Cửu hầu thất kiệt tranh nhau, dân chúng róc xương làm củi đun, đầu người dẫm đạp trên đường lộ, ai khiến vị chúa tên Huyền(34) sang.' Hiếu Kinh Câu Mệnh Quyết Lục có ghi: 'Đế vương ba người hưng khởi, chín đời đến Bị'. Cha thần là Quần lúc chưa mất, nói rằng phía tây nam mấy lần có hoàng khí, bốc cao vài trượng, xuất hiện đã lâu năm, lại thường gió tốt mây lành từ sao Thiên Tuyền(35) hạ xuống quấn quýt, ấy là điềm lành phi thường. Lại nữa, giữa năm Kiến An thứ hai mươi hai, mấy lầm có đám mây như tinh kỳ, bay từ tây sang đông, lơ lửng giữa trời, Đồ-Thư nói rằng 'Ắt có thiên tử xuất hiện ở phương ấy'. Lại thêm năm ấy sao Thái Bạch-Huỳnh Hoặc-Trấn tinh, thường đi theo Tuế tinh(36). Gần đây nhà Hán mới hưng khởi, ngũ tinh cùng tuế tinh hội họp; tuế tinh chủ nghĩa, ngôi nhà Hán ở phía tây, chính là phương vị chủ nghĩa, cho nên phép chế của nhà Hán là lấy Tuế tinh để chiêm nghiệm bậc nhân chủ. Đương khi thánh chủ nổi dậy ở châu ấy, có ý trung hưng. Bấy giờ Đế(37) còn ở Hứa Đô, cho nên quần thần không dám tiết lộ. Mới đây Huỳnh Hoặc lại xâm phạm Tuế tinh, ở khu vực Vị-Mão-Tất(38); Sao Mão sao Tất là lưới trời, kinh sách nói rằng 'Đế tinh lu mờ(39), bọn tà nghịch tiêu vong.' Huý của thánh thượng đã sớm thấy(40), suy xét thời kỳ ứng nghiệm, phù hợp mấy điềm, chẳng phải chỉ có một mà thôi. Thần nghe bậc thánh vương hành sự trước ý trời mà trời chẳng lìa bỏ, hành sự thuận ý trời thì được thiên thời, cho nên ứng thời vận mà sinh, để tương hợp với thần linh. Mong đại vương ứng lòng trời thuận lòng người, mau chóng dựng nghiệp đế vương, để yên định quốc gia."
Bọn Thái phó Hứa Tĩnh, An Hán tướng quân Mi Trúc, quân sư tướng quân Gia Cát Lượng, Thái thường Lại Cung, Quang lộc huân Hoàng Quyền, Thiếu phủ Vương Mưu dâng lời rằng:
"Tào Phi thí chúa soán ngôi, chôn vùi ngôi Hán thất, cướp lấy thần khí, bức hiếp kẻ trung lương, tàn ác vô đạo. Quỷ thần căm giận, đều nghĩ đến họ Lưu. Nay ở trên không có thiên tử, hải nội bàng hoàng, không có chỗ ngóng trông. Quần hạ trước sau dâng sớ hơn tám trăm người, đều nói rõ có điềm lành, và những lời đồ sấm làm chứng cớ rõ ràng. Gần đây có rồng vàng hiện ra ở Xích Thuỷ núi Vũ Dương, suốt chín ngày mới tan. Hiếu kinh(41) dẫn lời của Thần Tiết(42) rằng 'Ân đức đến cùng cực ắt có rồng vàng hiện ra', rồng, là hình tượng của vua vậy. Hào thứ chín mươi lăm trong quẻ Càn ở sách Chu Dịch(43) nói 'rồng bay ở trên trời', mà đại vương đang như rồng bay lên, xứng nhận lấy ngôi đế vậy.
Mới đây Quan Vũ vây Phàn Thành-Tương Dương, con trai của Trương Gia-Vương Hưu ở Tương Dương dâng biếu ngọc tỉ, ngọc tỉ ấy ẩn dưới sông Hán, nằm ở nơi đáy sâu, ánh sáng rực rỡ chói chang, thần khí sáng rọi đến tận trời. Nhà Hán ta, trước kia Cao Tổ nổi dậy yên định thiên hạ mà xưng quốc hiệu, giờ đại vương noi theo phép xưa của Tiên đế, cũng dấy lên ở Hán Trung. Nay ngọc tỉ của Thiên tử trước đây lại sáng tỏ, mà ngọc tỉ ấy hiện ra ở Tương Dương, cuối dòng Hán thuỷ, minh đại vương nhận ngọc tỉ ấy ở hạ lưu, ấy là ngôi vị Thiên tử được trao cho đại vương, điềm lành ứng với thiên mệnh, chẳng phải sức người làm được vậy.
Xưa kia nhà Chu có điềm Ô Ngư(44), mọi người nói rằng đó là việc tốt lành. Chúa thượng vâng mệnh hai tổ(45), Đồ-Thư báo trước, đã chứng nghiệm rồi vậy. Nay trời cao báo điềm lành, quần nho anh tuấn, đều dẫn sách Hà Đồ-Lạc Thư, cùng lời sấm ký của Khổng Tử, hết thảy đều đủ cả. Chúng thần quỳ xuống kính cẩn suy ngẫm rằng Đại vương là dòng dõi của Trung Sơn Tĩnh Vương Hiếu Cảnh Hoàng Đế, dòng chính dòng phụ trăm đời(46), thiên địa giáng phúc, đại vương tư thái thần thánh kì vĩ, uy vũ như thiên thần, nhân đức chồng chất trùm đời, ưu ái dân chúng tôn kính kẻ sĩ, vì thế bốn phương dốc lòng theo về. Chúng thần khảo sát linh đồ, suy nghĩ sấm vĩ, trẫm triệu của thần minh, huý danh sáng tỏ. Vậy nên đại vương sớm lên ngôi đế, để tế lễ nhị tổ, nối nghiệp tổ tiên, thì thiên hạ may lắm. Chúng thần kính cẩn giao cho Bác sĩ Hứa Từ, Nghị lang Mạnh Quang, kiến lập lễ nghi, chọn giờ lành, để chúa thượng xưng tôn hiệu."
Tiên Chủ bèn lên ngôi đế ở núi Vũ Đảm phía nam Thành Đô.
Thục bản kỷ chép: Ở Vũ Đô có kẻ trượng phu hoá làm người con gái, nhan sắc rất đẹp, như giống tinh ở trong núi vậy. Thục vương lấy làm vợ, vì không quen thuỷ thổ, bị ốm chết muốn được đưa về nước, Thục vương giữ lại, chẳng kể gì đến việc người ấy đã chết. Sau Thục vương cho binh lính đào huyệt ở đất Đảm thuộc Vũ Đô, rồi an táng ở ngay trong Thành Đô, đắp mộ rộng mấy mẫu đất, cao mười trượng, gọi là Vũ Đảm. Thần Tùng Chi xét, Vũ Đảm, là tên núi, ở tây bắc Thành Đô, quẻ Càn phương vị ở phía tây bắc, cho nên mới đến đó lên ngôi đế.
Lại làm bài văn tế rằng: "Duy năm Kiến An thứ hai mươi sáu tháng tư ngày Bính Ngọ, Hoàng đế là Bị tiến dụng ngôi huyền mẫu, cáo rõ với Hoàng thiên Thượng đế hậu thổ thần kỳ: Nhà Hán có thiên hạ, số vận dài đến vô cùng. Xưa kia Vương Mãng soán đạo, Quang Vũ hoàng đế nổi giận lôi đình tru diệt đi, xã tắc lại còn. Nay Tào Tháo cậy quyền binh làm chuyện tàn nhẫn, tru lục cả chủ hậu, đầy trời ngập đất, tội trạng đã rõ ràng. Con Tháo là Phi, lại làm chuyện hung nghịch, cướp giữ ngôi thần khí. Quần thần tướng sĩ cho rằng xã tắc đã đổ nát, nên Bị phải kế vào, tiếp nối cơ nghiệp của hai tổ, tuân kính mệnh trời đánh kẻ có tội.
Bị nghĩ mình vô đức, sợ làm nhục đến ngôi Đế. Hỏi đến thứ dân, cùng các trưởng quan Man Di ngoài cõi, mọi người đều nói rằng 'thiên mệnh chẳng thể bỏ ngôi không, cơ nghiệp của tổ tiên chớ nên để suy đồi, bốn bể chẳng thể không có chủ'. Cả thiên hạ trông ngóng, chỉ còn có một mình Bị. Bị sợ mệnh sáng của trời, lại sợ ngôi Hán sẽ bị chôn vùi xuống đất, cẩn trọng chọn ngày lành, cùng trăm quan đăng đàn, nhận tỉ thụ Hoàng đế. Cho sửa sang đồ lễ, cáo tế với thiên thần, mong thần linh hưởng lộc giúp cho nhà Hán, bốn bể được vĩnh viễn yên vui!"
Nguỵ thư chép: Bị nghe tin Tào Công chết, sai phó quan là Hàn Nhiễm dâng điếu thư, lại gửi đồ lễ phúng viếng. Văn Đế ghét cái việc nhân lễ tang cầu thân, mệnh cho Thứ sử Kinh Châu chém Nhiễm, tuyệt đường sứ mệnh.
Điển lược chép: Bị phái tham mưu duyện Hàn Nhiễm mang điếu thư, lại dâng gấm vóc. Nhiễm xưng có bệnh, ở lại Thượng Dung. Từ Thượng Dung dâng thư lên, gặp lúc thọ chung(47), có chiếu thư hồi đáp cho Nhiễm được vào chầu. Bị được thư hồi đáp, bèn xưng chế.
Năm Chương Vũ nguyên niên mùa hạ tháng tư, đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu. Lấy Gia Cát Lượng làm Thừa tướng, Hứa Tĩnh làm Tư đồ. Đặt ra trăm quan, xây dựng tông miếu, hợp tế ở miếu Cao Hoàng đế.
Thần Tùng Chi cho rằng Tiên Chủ dẫu rằng xuất thân từ dòng dõi Hiếu Cảnh, nhưng bao nhiêu đời đã quá xa, chiêu mục khó rõ ràng(48), đã nối ngôi Hán, chẳng biết vì sao Đế lấy ông tổ mới để lập tông miếu. Mà lúc bấy giờ có hiền tài phụ giúp, các bậc nho sinh ở trong cung, chế độ tông miếu, hẳn có chương pháp, mà lại ghi chép thiếu sót qua loa, thật đáng giận thay.
Tháng năm, lập Ngô thị làm Hoàng hậu, con là Thiện làm Hoàng Thái tử. Tháng sáu, lập con là Vĩnh làm Lỗ vương, Lý là Lương vương. Xa kỵ tướng quân Trương Phi bị tả hữu hại. Khi trước, Tiên Chủ hận Tôn Quyền tập kích Quan Vũ, sắp đông chinh, đến mùa thu tháng bảy, bèn thống suất ba quân phạt Ngô. Tôn Quyền gửi thư xin hoà, Tiên Chủ nổi giận đùng đùng không nghe, Ngô tướng là bọn Lục Nghị(49)-Lý Dị-Lưu A đóng quân ở Vu huyện-Tỷ Quy; tướng quânNgô Ban-Phùng Tập ở Vu huyện tấn công đánh tan bọn Dị, rồi dừng quân ở Tỷ Quy, các tộc Man Di ở Ngũ Khê quận Vũ Lăng sai sứ đến cầu binh.
Năm thứ hai mùa xuân rằm tháng giêng, quân của Tiên chủ về lại Tỷ Quy, thuỷ quân của các tướng Ngô Ban-Trần Thức đóng ở Di Lăng, giáp với bờ tây xứ Giang Đông. Tháng hai, Tiên Chủ từ Tỷ Quy dẫn chư tướng tiến quân, men theo núi Tiệt Lĩnh, ở Di Đạo xứ Hào Đình đóng doanh trại, men núi Giáp thông sang Vũ Lăng, phái Thị Trung là Mã Lương yên uỷ rợ Man Di ở Ngũ Khê, các tù trưởng đều hưởng ứng. Trấn bắc Tướng quân Hoàng Quyền làm Đô đốc các quân ở Giang Bắc, cùng với quân Ngô cự nhau ở Di Lăng đạo. Mùa hạ tháng sáu, có luồng khí màu vàng hiện ra ở Tỷ Quy trong vòng mấy chục dặm, rộng đến mấy chục trượng. Hơn chục ngày sau, Lục Nghị đại phá quân Tiên Chủ ở Hào Đình, tướng quân Phùng Tập-Trương Nam đều bị chết. Tiên Chủ từ Hào Đình chạy về Tỷ Quy, thu họp binh sĩ li tán, rồi bỏ thuyền, theo đường bộ chạy về Ngư Phúc, đổi huyện Ngư Phúc thành Vĩnh An. Ngô sai tướng quân Lý Dị-Lưu A ngầm bám theo quân của Tiên Chủ, đóng binh ở Nam Sơn. Mùa thu tháng tám, thu binh trở về. Tư đồ Hứa Tĩnh chết. Mùa đông tháng mười, chiếu cho Thừa tướng Lượng lập quân doanh suốt từ nam lên Bắc tới Thành Đô. Tôn Quyền hay tin Tiên Chủ đóng ở Bạch Đế, rất sợ, sai sứ đến xin hoà. Tiên Chủ đồng ý, sai Thái trung đại phu Tông Vĩ đến đáp mệnh. Mùa đông tháng mười hai, Hán gia Thái thú Hoàng Nguyên nghe tin Tiên Chủ ốm không đến thăm, cất binh chống lại.
Năm thứ ba mùa xuân tháng hai, Thừa tướng Lượng từ Thành Đô đến Vĩnh An. Tháng ba, Hoàng Nguyên tiến binh đánh huyện Lâm Cung. Triều đình phái tướng quân Trần Hốt đánh dẹp Nguyên, quân Nguyên bị thua, thuận theo sông xuống hạ lưu, bị thân binh bắt trói lại, đem về Thành Đô, bị chém. Tiên Chủ ốm nặng, phó thác con côi cho Thừa tướng Lượng, Thượng thư lệnh Lý Nghiêm làm phó. Tháng tư mùa hạ ngày Quý Tỵ, Tiên Chủ băng ở Vĩnh An cung, bấy giờ sáu mươi ba tuổi.
Gia Cát Lượng tập chép lại di chiếu của Tiên Chủ sắc mệnh cho Hậu Chủ rằng: "Trẫm lúc mới ốm chỉ mắc bệnh lị mà thôi, sau chuyển sang tạp bệnh, sợ rằng chẳng qua khỏi. Người ta năm mươi tuổi chẳng nói là yểu, ta đã hơn sáu mươi tuổi, sao phải ân hận nữa, chẳng đau xót gì cho mình, chỉ nghĩ đến anh em khanh. Quan Bộc xạ tới đây, nói rằng Thừa tướng khen khanh sáng suốt hiểu biết, tiến bộ rất mau, vượt quá ước vọng của y, nếu thực được như thế, ta sao còn phải lo lắng nữa! Gắng lên, gắng lên! Chớ vì điều ác nhỏ mà làm, chớ vì điều thiện nhỏ mà không làm. Chỉ có hiền chỉ có đức, mới có thể thu phục được người. Cha các ngươi đức bạc, chớ nên bắt chước. Ngươi nên đọc sách Hán thư-Lễ ký, những lúc nhàn nhã nên xem các sách của Chư tử cùng với Lục Thao-Thương quân thư(50), cũng giúp tăng thêm ý chí và trí tuệ. Nghe nói Thừa tướng chỉnh lý các sách Thân-Hàn-Quản tử-Lục Thao(51) đều thông suốt hết cả, chưa đưa ra ngoài, e rằng lỗi đạo, ngươi nên phải tự thân đến cầu học lấy."
Lúc lâm chung, Tiên Chủ cho gọi Lỗ vương đến dặn nhỏ rằng: "Sau khi ta mất, anh em chúng mày phải coi Thừa tướng như cha, lệnh cho ngươi làm cộng sự giúp cho Thừa tướng mà thôi."
Lượng dâng biểu lên Hậu Chủ rằng: "Thần quỳ xuống kính cẩn nghĩ rằng Đại hành Hoàng đế có lòng nhân hơn người gây dựng đức chính, phúc đến cõi vô cùng, trời xanh chẳng xót thương, bệnh tật cứ ngấm dần, hôm nay ngày mười bốn tháng hai đã chợt vội đi xa, thần thiếp kêu gào, như cha mẹ mất. Nghĩ đến di chiếu, là việc lớn tổ tông, trên dưới phải động lòng; trăm qua cử ai, trừ phục hết ba ngày, đến khi an táng lại theo như lễ; Thái thú các quận quốc, những bậc quan tướng, Đô uý, Trưởng huyện lệnh, ba ngày mới được bỏ áo tang. Thần là Lượng thân chịu sắc giới, kính sợ thần linh, chẳng dám phạm lỗi lầm. Thần xin tuyên rõ để người dưới phụng mệnh thi hành."
Tháng năm, đem áo quan từ Vĩnh An cung về Thành Đô, đặt thuỵ là Chiêu Liệt Hoàng Đế. Mùa thu, tháng tám, an táng ở Huệ lăng.
Cát Hồng thần tiên truyện chép: Vị tiên nhân Lý Ý, là người Thục. Người đời kể lại, rằng người ấy sống vào thời Hán Văn Đế(52). Tiên chủ muốn phạt Ngô, sai người nghênh đón Ý. Ý đến nơi, Tiên chủ lấy lễ đón tiếp rất cung kính, hỏi việc lành dữ. Ý không đáp mà xin giấy bút, vẽ ra binh mã khí trượng vào mấy chục tờ giấy, xong rồi lấy tay nhất nhất xé nát hết đi, lại vẽ ra một người to lớn, đào đất chôn cất người chết, xong bỏ đi thẳng. Tiên chủ rất không vui. Từ khi xuất quân đánh Ngô, đại bại trở về, lấy làm hổ thẹn phẫn hận rồi phát bệnh chết, mọi người mới hiểu được ý tứ của Ý. Vẽ một người to lớn chôn cất người chết, tức là ý nói rằng Tiên Chủ chết vậy.
Bình rằng: Tiên Chủ là người cương nghị khoan hoà nhân hậu, hiểu lòng người kính kẻ sĩ, có phong độ của Hán Cao Tổ, có khí chất của bậc anh hùng. Đến lúc trao việc nước thác con côi cho Gia Cát Lượng, mà lòng không ngờ vực, tin rằng vua tôi đều chí công, là điều chưa từng thấy xưa nay vậy. Cơ mưu quyền biến tài cán thao lược, chẳng theo kịp Nguỵ Vũ(53), bởi thế cơ nghiệp gây dựng được cũng hạn hẹp. Nhưng vấp ngã mà chẳng sờn lòng, sau cùng chẳng chịu ở dưới người, có lẽ là suy đoán rằng sự độ lượng của kẻ kia(54) ắt hẳn chẳng dung được mình, nên chẳng những tranh cái lợi, mà còn tránh hoạ cho mình vậy.
Chú thích:
(32) Hà đồ, Lạc thư, Sấm vĩ là những sách cổ chuyên về thiên văn bói toán và lời sấm.
(33) Nguyên văn 'Xích tam nhật đức xương'. Xưa Hán Cao Tổ Lưu Bang chém rắn trắng khởi nghĩa lập nên nhà Hán, gọi là Xích Đế (đời thứ nhất). Đến khi Quang Vũ Đế Lưu Tú diệt Vương Mãng trung hưng nhà Hán (đời thứ hai). Nay đến Lưu Bị là đời thứ ba vậy.
(34) Huyền Đức.
(35) Sao Bắc đẩu, đây là ngôi sao luôn đứng yên ở phía Bắc bầu trời, người ta thường lấy nó để định phương hướng.
(36) Chỗ này nhắc đến một loạt các ngôi sao trong Nhị thập bát tú, hai mươi tám ngôi sao này chia ra bốn phương, mỗi phương gồm bảy ngôi, có ý nghĩa rất quan trọng đối với thiên văn cổ xưa của Trung Hoa, đặc biệt với các bậc đế vương, theo quan niệm thiên tử chịu mệnh trời.
(37) Chỗ này nhắc đến việc Bị đang ở đất Hứa với Tào Tháo, có mưu toan với Đổng Thừa việc diệt Tháo, Đế ở đây là nhắc đến Hiến Đế vậy.
(38) Là ba ngôi sao trong Nhị thập bát tú, các sao này nằm ở trung khu của các thiên thể.
(39) Nguyên văn câu này là 'đế tinh xử chi, chúng tà tiêu vong', chữ xử có nghĩa là ở ẩn, tức là không thấy nữa, ở đây theo nghĩa dịch là lu mờ. Nguyên lai sao Huỳnh Hoặc tức Hoả tinh, đây không phải một ngôi sao, chỉ là một hành tinh như trái đất của chúng ta, vì nó ở gần trái đất nên nó rất sáng, sáng nhất trên bầu trời đêm, chỉ kém mỗi mặt trăng và sao Kim (tức sao Thái Bạch), nó chạy trên đường hoàng đạo, vậy nên khi nó đi vào địa phận lưới trời (tức vị trí Mão, Tất) sẽ làm các sao khác bên cạnh lu mờ vì độ sáng của nó. Người xưa coi Huỳnh Hoặc là ngôi sao chủ việc hung nghịch càn dỡ vậy. Người Hy Lạp gọi nó là Ares, vị thần chiến tranh.
(40) Thấy ở các sách Ngũ kinh, Sấm Vĩ, Lạc Thư, Hà Đồ kể trên.
(41) Hiếu Kinh là bộ sách chép lời của Khổng Tử nói với Tăng Tử về đạo hiếu.
(42) Ông Tiết là thuỷ tổ của nhà Thương, khi trước là bầy tôi hiền tài của vua Thuấn.
(43) Chu Dịch là sách bói toán, nghe nói do Chu Công Đán soạn ra, sau này Khổng Tử soạn lại, chính là bộ Kinh Dịch nổi tiếng hiện nay.
(44) Ô Ngư là con cá đen, không rõ đây là điển tích gì.
(45) Nhị tổ ở đây tức là Hán Cao Tổ Lưu Bang dựng nghiệp Tây Hán và Hán Quang Vũ Lưu Tú dựng nghiệp Đông Hán.
(46) Nguyên văn là 'bổn chi bách thế', bổn là ngành trưởng, chi là ngành thứ, dịch thoát ý.
(47) Thọ chung là nói Tháo mới chết.
(48) Theo thứ tự lễ nghi tông miếu thời cổ thì một đời là hàng chiêu, hai đời là hàng mục, bên tả là hàng chiêu, bên hữu là hàng mục.
(49) Tức Lục Tốn.
(50) Hán Thư là bộ sử do Ban Cố đời Hán soạn ra, Lễ ký là bộ sách cổ nói về lễ nghĩa do Khổng Tử chỉnh lý, Lục Thao là sách binh thư do Khương Tử Nha soạn ra, Thương quân thư là sách dạy về quyền thuật của Thương Ưởng người nhà Tần soạn.
(51) Chỉ các cuốn sách của Thân Bất Hại, Hàn Phi Tử, Quản Trọng, Khương Tử Nha soạn ra, đều là những sách nói về cái thuật trị quốc và binh pháp.
(52) Hán Văn Đế là vua nhà Tây Hán, lên nối ngôi Hán Vũ Đế, thời ấy cách thời của Lưu Bị chừng ba trăm năm.
(53) Tức Tào Tháo.
(53) Kẻ kia tức là Tào Tháo vậy.
-
18-08-2011, 06:17 PM #20
Vũ Đế Kỉ (tiếp theo)
Năm thứ nhì, mùa Xuân, Thiệu, Phúc bèn lập Ngu lên làm Hoàng Đế, rốt cuộc Ngu cũng không dám nhận.
Tháng 4, mùa Hạ, Trác về đến Tràng An.
Tháng 7, mùa Thu, Viên Thiệu hiếp Hàn Phức, chiếm lấy Ký Châu.
Giặc Hắc Sơn là Vu Độc, Bạch Nhiễu, Tuy Cố cùng bộ hạ hơn 10 vạn nổi dậy đánh phá Ngụy Quận, Đông Quận, Vương Quăng (1) không chống cự nổi. Thái Tổ dẫn quân đến Đông Quận phá quân Bạch Nhiễu ở Bộc Dương. Viên Thiệu bèn dâng biểu xin Thái Tổ làm Đông Quận Thái Thú, giữ Đông Vũ Dương.
Năm thứ 3, mùa Xuân, nhân lúc Thái Tổ đóng quân ở Đốn Khâu, [Vu] Độc đánh Đông Vũ Dương. Thái Tổ bèn dẫn quân về phía tây tiến đánh thẳng vào căn cứ của Độc trên núi. [Ngụy Thư chép: Chư tướng cùng muốn kéo quân về cứu (Đông Vũ Dương). Thái Tổ nói: "Tôn Tẫn cứu Triệu bằng cách đánh Ngụy, Cảnh Yểm muốn lui về Tây An nên đánh Lâm Truy. Nếu giặc nghe ta tiến về hướng tây mà lui, Vũ Dương tự giải vây; bằng không, ta dẹp sào quyệt thì chúng cũng không lấy được Vũ Dương." Các tướng bèn cùng đi.] Độc nghe tin, bèn bỏ Vũ Dương quay về. Thái Tố đánh bắt Tuy Cố, sau lại đánh Ô Phù La người Hung Nô ở Nội Hoàng (2), đều thắng lớn. [Ngụy Thư chép: Ô Phù La là con Thiền Vu Nam Hung Nô. Vào giữa thời Trung Bình (2), cho Ô Phù La dẫn quân đến giúp nhà Hàn. Nhằm lúc trong nước có loạn, Thiền Vu bị giết, Ô Phù La cùng binh chúng bèn ở lại Trung Quốc. Nhân lúc thiên hạ loạn lạc, bèn hợp với bọn cướp Bạch Ba của Tây Hà, phá được Thái Nguyên, Hà Nội, cướp phá các quận lân cận. ]
Tháng 4. mùa Hạ. Tư Đồ Vương Doãn cùng Lữ Bố giết Đổng Trác. Tướng của Trác là Lý Quyết, Quách Tỷ (3) giết Doãn và đánh Bố. Bố thua, theo lối Vũ Quan bỏ chạy về phía Đông. Bọn Quyết chiếm hết việc triều chính.
Hơn trăm vạn quân Hoàng Cân của Thanh Châu tiến vào Duyện Châu, giết Nhiệm Thành Tướng Trịnh Toại. Lại tiến đến Đông Bình. Lưu Đại muốn đánh, Bào Tín can rằng: "Hiện tại giặc hơn trăm vạn, ai ai cũng khiếp đảm, sĩ tốt không có chí chiến đấu, không thể đối địch. Tôi thấy quân giặc có cả gia đình theo, lại không mang đồ tiếp tế, toàn phải dựa vào cướp bóc để sinh sống. Nay chi bằng nuôi sức quân sĩ, lo cố thủ từ trước. Giặc muốn giàn trận đánh nhau không được, đánh thành lại không đủ sức, thế ắt ly tán. Rồi ta tuyển quân tinh nhuệ, nhắm vào chổ hiểm mà đánh thể nào cũng phá được." Đại không nghe, cùng giặc đánh nhau, quả nhiên bị giết. [Thế Ngữ chép: Đại chết rồi, Trần Cung bèn bảo Thái Tổ: "Châu ngày nay không có chủ, vương mệnh lại đoạn tuyệt, Cung xin thuyết phục bọn người trong châu cho ông thế làm quan Mục. Rồi ta có thể dựa vào đó lấy thiên hạ, lập nghiệp bá vương." Cung bèn nói với các quan Biệt Giả, Trị Trung rằng: "Ngày nay thiên hạ phân chia, Châu không có chủ. Tào Đông Quận có tài mệnh thế, nếu đón về làm quan Mục có để giúp dân được yên ổn." Bào Tín và mọi người đồng ý.] Thế rồi, Tín cùng Vạn Tiềm cùng đến Đông Quận mời Thái Tổ làm Duyện Châu Mục. Rồi tiến quân đánh Khăn Vàng ở phía Đông Thọ Trương. Tín gắng sức đánh nhau đến chết, nhờ thế mới thắng. [Ngụy Thư chép: Thái Tổ dẫn hơn ngàn quân kỵ, bộ đến xem xét chiến trường, tiến vào trại giặc đánh nhau thất lợi, chết hơn trăm người bèn lui về. Giặc lại tiến quân. Khăn Vàng nổi lên đã lâu, cứ thắng luôn, binh lính tinh nhuệ, hung hãn. Thái Tổ chỉ còn ít binh lính cũ, lính mới chưa thao luyện, trong quân ai nấy đều hoảng sợ. Thái Tổ mặc giáp đội mũ sắt đích thân tuần tra tướng sĩ, khuyên nhủ, thưởng phạt công minh; quân chúng nhờ thế phấn chấn lên, theo lệnh tấn công, đẩy lùi quân giặc. Giặc bèn gởi thư cho Thái Tổ rằng: "Trước đây ở Tế Nam, ông hủy hoại đàn tế thần, đó là cùng đúng theo kinh sách chúng tôi (4). Trước đây sáng suốt, thế mà ngày nay ông lại u mê. Số Hán đã hết, nhà 'Hoàng' lên thay. Mệnh trời định thế, ông há có thể chỉ cậy tài cán mà làm trái được sao?" Thái Tổ đọc xong, mắng nhiếc, bảo giặc đầu hàng. Thế rồi đặt phục binh, ngày đêm hợp đánh, bắt được nhiều giặc. Giặc bèn bỏ chạy.] (Thái Tổ) cho tìm thi thể (Bào) Tín nhưng không được bèn khắc hình hài Tín bằng gỗ, lập đàn khóc tế. Truy đuổi Hoàng Cân đến tận Tế Bắc, giặc túng quá xin hàng. Mùa Đông, thu hàng được hơn 30 vạn quân, nam nữ hơn trăm vạn người, lại chọn lấy những quân tinh nhuệ, gọi là Thanh Châu binh.
Viên Thuật cùng Viên Thiệu có hiềm khích, Thuật cầu viện Công-tôn Toản, Toản phái Lưu Bị đóng ở Cao Đường, Thiền Kinh đóng ở Bình Nguyên, Đào Khiêm đóng ở Phát Cán, cùng bức Thiệu. Thái Tổ cùng Thiệu đánh, đều phá được (5)
Năm thứ 4, mùa Xuân, đóng quân ở Quyên Thành. Quan Mục Kinh Châu Lưu Biểu cắt đường tiếp vận của Thuật, Thuật dẫn binh đến Trần Lưu đóng ở Phong Khâu. Dư đảng Hắc Sơn và Ô Phù La cùng đến trợ tá. Thuật sai tướng là Lưu Tường đóng ở Khuông Đình. Thái Tổ đánh Tường, Thuật đến cứu. Đôi bên giáp trận, Thuật thua to, mới lui về giữ Phong Khâu. Sau bị vây, vòng vây chưa nối, Thuật chạy về Tương Ấp, (Tháo) đuổi đến Thái Thọ mở đê cho nước ngập thành, (Thuật) lại chạy đến Ninh Lăng, lại bị đuổi, bèn chạy về Cửu Giang. Mùa Hạ. Thái Tổ lui quân về Định Đào. (6)
Người Hạ Bì là Khuyết Tuyên tụ chúng hơn ngàn người tự xưng Thiên Tử, Từ Châu Mục Đào Khiêm cùng cử binh, chiếm các huyện Hoa, Phí quận Thái Sơn và đánh Nhiệm Thành. Mùa Thu, Thái Tổ đánh Đào Khiêm, hạ hơn 10 thành. Khiêm giữ thành không dám ra.
Năm ấy, Tôn Sách theo lệnh Viên Thuật vượt sông (Trường Giang). Trong vòng vài năm, Sách chiếm được Giang Đông.
(1) Thái Thú Đông Quận do Lưu Đại đặt. Bác Taolao dịch là Lăng
(2) Đời Linh Đế.
(3) Ta quen đọc là Lý Thôi, Quách Dĩ
(4) Nguyên văn: "kỳ đạo nãi dữ trung Hoàng đại ất đồng". Hoàng đại ất có nghĩa là "Kinh Vàng", tức kinh sách của Khăn Vàng.
(5) Đào Khiêm khi ấy trong vòng ảnh hưởng của Viên Thuật chứ không phải dưới quyền Công-tôn Toản. Đoạn này mập mờ để giải thích thêm sau.
(6) Trước đó trong liên minh đánh Đổng Trác, Viên Thuật tiến quân theo ngã Kinh Châu đánh Lạc Dương từ hướng Nam, đóng quân ở Lỗ Dương và tiến quân theo lối ải Hoàn Viên. Tướng của Viên Thuật là Tôn Kiên đánh thắng quân Đổng Trác tiến vào Lạc Dương, nhưng vì các sứ quân không có chiến lược đồng bộ, Kiên phải lui quân về Dương Nhân (phía nam ải Hoàn Viên). Không ngờ, Viên Thiệu xui Châu Ngang bất ngờ cướp trại Tôn Kiên. Liên minh Quan Đông tan vỡ. Viên Thuật bèn liên minh với Công-tôn Toản nhằm chống Viên Thiệu, Đào Khiêm nằm trong vòng ảnh hưởng của Thuật, Tào Tháo trong vòng ảnh hưởng của Thiệu vì thế cũng dây dưa. Đổng Trác bổ nhiệm Lưu Biểu làm Thứ Sử Kinh Châu thay Vương Tường (vốn bị Tôn Kiên giết vì hiềm khích từ trước). Lưu Biểu đóng ở Tương Dương dần tụ được uy quyền riêng. Viên Thuật sai Tôn Kiên đánh Lưu Biểu, không giờ Kiên bị giết, Viên Thuật cô thế bèn dẫn quân ra Sơn Đông vào Duyện Châu, lại bị Tào Tháo đánh đuổi rồi phải chạy về Dương Châu là thế.
(Vẫn còn)
Tam Quốc chí chú
Đánh dấu