Kết quả 981 đến 990 của 1253
Chủ đề: Cà Phê Đen III
-
21-10-2014, 02:51 PM #981
-
Post Thanks / Like - 9 Thích, 0 Không thích
-
21-10-2014, 10:58 PM #982
Lệ đá xanh
Tình là cái đáng quí chứ bác Phi .Vì tình mà có bị vô minh tí chút thì đã sao nào ! Nói thế chứ cái bất hạnh nhất ở đời là không còn tin vào cái gì nữa
Kahlin Gibran nhà thơ nổi tiếng của Liban có nói một câu trong tập thơ Thần cảm của ông viết năm 20 tuổi mà tôi rất thích
Lúc tình cảm héo úa là khi siêu thăng miền trí tuệ
Phật cũng dạy Tình dứt là trí sáng
Biết rằng là hay đấy nhưng sáng để làm gì tối tối một tí sống trong cõi người ta thú vị hơn Com của ông đọc một lần đâu đã xong ,lui tới sà sã mới thấy chỗ uyên nguyên .
Dôi khi anh muốn tin .Ôi những người khóc lẻ loi một mình
Chép tặng bài thơ Lệ đá xanh của Thanh tâm Tuyền cho bác
Lệ đá xanh
Tác giả: Thanh Tâm Tuyền
Tôi biết những người khóc lẻ loi
không nguôi một phút
những người khóc lệ không rơi ngoài tim mình
em biết không
lệ là những viên đá xanh
tim rũ rượi
đôi khi anh muốn tin
ngoài trời chỉ còn trời sao là đáng kể
mà bên những vì sao lấp lánh đôi mắt em
đến ngày cuối
đôi khi anh muốn tin
ngoài đời thơm phức những trái cây của thượng đế
mà bên những trái cây ngọt ngào đôi môi em
nguồn sữa mật khởi đầu
đôi khi anh muốn tin
ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
mà bên cỏ hoa quyến rũ cánh tay em
vòng ân ái
đôi khi anh muốn tin
ôi những người khóc lẻ loi một mình
đau đớn lệ là những viên đá xanh
tim rũ rượi
-
Post Thanks / Like - 15 Thích, 0 Không thích
leutrong, nhachoaloiviet, ChienKhuD, tamthaplucke, roamingwind, PhiHuong, trung_cadan, huyenmapu, vuminh999999, cuonghanh, Kiem_Nhat, jayjay, Aty, 6789, trinhson đã thích bài viết này
-
22-10-2014, 12:16 AM #983
Hong Kong, nhẩm xà đàm đạo
Các khuôn mặt non choẹt bận áo thung phải ngồi đấu trí với những người đáng tuổi cha ông mình trong các bộ đồ vest.Anh có thể biết tôi, tạm gọi là vậy, qua ngọn gió trên đồi
Anh sẽ không biết tôi bằng danh xưng nào khác.
You can know me, if you will, by the wind on the hill
You'll know me by no other name.
(No Other Name - Peter, Paul and Mary)
-
Post Thanks / Like - 11 Thích, 0 Không thích
Tontu,
tom, ChienKhuD, SNAJDAN (L) #narliza, cuonghanh, PhiHuong, trung_cadan, huyenmapu, yeulam_yeulai_laiyeulam, Thợ Điện, Kiem_Nhat đã thích bài viết này -
22-10-2014, 07:05 AM #984
Ông Thợ, hai câu này có hình thức giống nhau, nhưng câu trên dễ làm cho người ta hiểu chẳng còn tin vào cái gì nữa. Còn câu Phật nói sáng rõ chỉ đúng vào trọng tâm.
Trước tôi thường nghĩ Nếu xóa được cái "khôn" biết phân biệt thì huệ tâm sẽ bừng mở. Nay đọc được câu nói của Phật thì chẳng còn nghi ngờ gì nữa, nhưng ... quên được sao ?.
-
Post Thanks / Like - 10 Thích, 0 Không thích
Tontu,
tom, ChienKhuD, Kiem_Nhat, huyenmapu, cuonghanh, nhachoaloiviet, Aty, Thợ Điện, roamingwind đã thích bài viết này -
22-10-2014, 10:02 AM #985
Tiếu Lâm.
Xem clip tại đây - http://www.cnn.com/2014/10/21/world/...lks/index.html
xem đoạn 00:45 đến 1:17. Lễ học sinh Hồng Kông (sinh viên ??) ra trường gần đây. Làm sao đám này sống nổi với lối cầm quyền của Bắc Kinh?Anh có thể biết tôi, tạm gọi là vậy, qua ngọn gió trên đồi
Anh sẽ không biết tôi bằng danh xưng nào khác.
You can know me, if you will, by the wind on the hill
You'll know me by no other name.
(No Other Name - Peter, Paul and Mary)
-
Post Thanks / Like - 6 Thích, 0 Không thích
-
22-10-2014, 10:30 AM #986
Hong Kong, nhẩm xà đàm đạo (2)
Một trong 5 người học sinh trong buổi đàm đạo.
Trẻ đến nổi mặt vẫn còn mụn. Chắc trong người còn có cái máy chơi game, đang chơi phải bỏ vội vào túi quần trước khi vào phòng chiến. Xếp bút nghiên lo việc đao binh.
Rõ là thời nào cũng có những người trẻ kiên cường.Anh có thể biết tôi, tạm gọi là vậy, qua ngọn gió trên đồi
Anh sẽ không biết tôi bằng danh xưng nào khác.
You can know me, if you will, by the wind on the hill
You'll know me by no other name.
(No Other Name - Peter, Paul and Mary)
-
Post Thanks / Like - 10 Thích, 0 Không thích
-
22-10-2014, 10:32 AM #987
Đọc Tây du ký thấy tả Đường Tam Tạng chỉ là một vị tăng hiền lành có vẻ hơi thiên kiến nhưng đời thật của ngài hết sức phi thường .Công phu dịch thuật vô cùng vĩ đại
Tây Tạng có hai Đại dịch giả cũng vĩ đại không kém .Ngài Marpa đại dịch giả thầy của đại hành giả Milarepa
Người thứ hai là một trong 25 đệ tử của Bồ tát Padmasambhava Vairotsana. Dịch giả vĩ đại sống trong triều đại Vua Trisong Deutsen. Là một trong bảy tu sĩ Tây Tạng đầu tiên, ngài được phái sang Ấn Độ để nghiên cứu với Shri Singha. Cùng với Đức Padmasambhava và Vimalamitra, ngài là một trong ba Đạo sư chính yếu mang giáo lý Dzogchen tới Tây Tạng.Hiện nay hoá thân của ngài là Rinpoche Terzin Sonam đang sống tại Úc .Ngài là người hết sức thông tuệ Trưởng dòng Barom Kagyu thuộc hệ phái Karmapa
Huyền Trang là đại sư Phật học, dịch giả nổi tiếng đời Đường. Tên ông nguyên là Trần Y, người Câu Thị, Lạc Châu (nay là Yển Sư, Hà Nam), Huyền Trang là pháp hiệu sau khi ông xuất gia, mọi người quen gọi ông là Đường Tam Tạng (1).
Cha của Huyền Trang là một tín đồ Phật giáo thành tâm, anh của ông cũng là một hòa thượng ở chùa Tĩnh Thổ, Lạc Dương. Đầu đời Đường, Huyền Trang tới nghiên cứu kinh Phật ở Tứ Xuyên. Khi ấy, Tứ Xuyên là nơi tương đối ổn định, rất nhiều cao tăng ở khắp nơi đã về đây. Huyền Trang thỉnh giáo họ, học vấn ngày càng được mở rộng. Thấy các tư liệu kinh Phật ở trong nước có rất nhiều những vấn đề chưa được giải quyết, ông học Phạn văn, quyết tâm tới Thiên Trúc (bán đảo Ấn Độ ngày nay) để học kinh Phật.
Khi ấy, phía tây Trung Quốc còn là khu vực do người Đột Quyết kiểm soát, chính phủ triều Đường nghiêm cấm cư dân tự ý ra ngoài biên giới. Quan phủ cự tuyệt lời xin của Huyền Trang và những người cùng nguyện vọng. Huyền Trang không ngại khó khăn quyết vượt qua. Mùa thu năm 627, ông cùng một đoàn thương nhân xuất phát từ Trường An đi về phía tây. Khi tới phía tây Cam Túc, trước lúc vượt qua Ngọc Môn quan (phía tây Đôn Hoàng, Cam Túc ngày nay), ngựa của Huyền Trang bị chết, hai tiểu hoàng thượng đồng hành cùng ông cũng bỏ đi mất. Bị quan phủ địa phương truy tìm, Huyền Trang phải náu mình trong một nhà trọ, chưa biết phải làm như thế nào. Quan châu ở đó là Lý Xương xem giấy tờ rồi hỏi ông:
- Sư phụ chính là Huyền Trang có phải không?
Huyền Trang còn đang lưỡng lự, chưa trả lời, Lý Xương nói tiếp:
- Sư phụ phải nói thực, đệ tử có thể có cách giúp ngài.
Huyền Trang thấy thái độ của Lý Xương chân thành, nói rõ tên tuổi của mình. Lý Xương tỏ vẻ thán phục rồi nói:
- Sư phụ quyết tâm đi lấy kinh, nghiên cứu Phật pháp, thật là đáng quý, tôi nhất định sẽ hết sức giúp ngài.
Nói xong, Lý Xương xé bỏ giấy tờ đi rồi thúc giục:
- Ngài mau đi ngay, tối đến sẽ không thể qua cửa Ngọc Môn được.
Huyền Trang vừa ngạc nhiên vừa mừng, vội dời nhà trọ đi về Ngọc Môn quan.
Trước khi đi vào sa mạc, một buổi trưa, ông tới phong hỏa đài đầu tiên. Đang chờ ngựa uống nước, bỗng nhiên có một mũi tên bay tới. Lát sau,lại một mũi tên nữa. Huyền Trang hoảng sợ, vội hướng về phía phong hỏa đài, kêu to:
- Tôi là hòa thượng từ Trường An tới, đi Tây Thiên lấy kinh. Xin các ngài đừng bắn.
Quan lính trên phong hỏa đài đã nghe tên Huyền Trang đều rất kính trọng, đưa ông qua phong hỏa đài. Đến phong hỏa đài thứ tư, Phong quan (quan phụ trách phong hỏa đài) còn giữ ông lại một đêm, chuẩn bị thêm cho ông lương khô và nước uống, khi chia tay, còn dặn dò:
- Quan lính ở phong hỏa đài thứ năm rất nghiêm ngặt, tính mệnh khó bảo toàn, sư phụ nên cẩn thận, mong sư phụ gặp may mắn.
Huyền Trang lại tiếp tục lên đường. Giữa sa mạc, trên trời không một cánh chim bay, dưới đất không một vết chân thú, ban ngày trời nóng như đổ lửa, ban đêm, gió rét như cắt da. Có lúc, do sự thay đổi của thời tiết, trước mắt như thấy ảo ảnh, rõ ràng thấy cả đoàn người ngựa từ xa thế mà khi tới gần lại chẳng còn dấu vết, người đi đường như gặp yêu ma quỷ quái. Ven đường là xương người xương ngựa, kiếm gãy dao hoen. Huyền Trang đi hơn một trăm dặm chỉ dừng lại mỗi khi cần uống nước. Có lần, không ngờ, nước đựng trong cái túi da đã chảy hết trên sa mạc. Mênh mang là cát trắng chẳng thấy đâu là bến là bờ, đến đâu mới có thể tìm được nước uống đây? Huyền Trang cố chịu cơn khát tới cực điểm, đi suốt 5 ngày, cuối cùng, ngất đi trên sa mạc. Nửa đêm tỉnh lại, thấy gió thổi hiu hiu. May mắn cho ông,ngay phía trước là một ốc đảo, nước ngọt trong lành, cỏ cây tươi tốt đã giúp ông thoát khỏi cảnh hiểm nguy.
Qua hơn nửa tháng hành trình gian khổ, Huyền Trang cuối cùng đã vượt qua hơn tám trăm dặm trên sa mạc, tới nước Cao Xương (nay thuộc Tân Cương). Vua Cao Xương vốn là người Hán, cũng là một tín đồ của đạo Phật, rất kính trọng Huyền Trang, khẩn khoản mời Huyền Trang ở lại thuyết pháp và hứa sẽ trả cho ông một khoản thù lao lớn. Huyền Trang nói:
- Tôi ra đi là để cầu Phật, bây giờ mà quốc vương lưu lại, đại vương chỉ có thể giữ được phần thân xác của tôi, làm sao có thể lưu giữ được tinh thần?
Vua Cao Xương vẫn chưa chịu để ông lên đường, Huyền Trang bèn nhịn ăn nhịn uống suốt ba ngày đêm. Tới ngày thứ tư, vua Cao Xương thực sự cảm động, thuận để ông ra đi, còn chuẩn bị lương khô, nước uống, người gánh thuê và ba mươi con ngựa. Nhà vua còn viết thư gửi các quốc gia trên đường đi nhờ họ bảo vệ và giúp đỡ Huyền Trang trong chuyến đi xa này.
Sau đó, Huyền Trang lại vượt đỉnh Phiên Sơn, thời gian đi đường đã tới một năm, mùa hạ năm 628 Huyền Trang mới tới được Thiên Trúc. Tới đây, ông mới thấy rất nhiều đà điểu, thấy tượng Phật đá cao năm mươi thước, tượng Phật điêu khắc trên đá dài một ngàn thước và những quần thể tượng. Ông đã mấy lần vượt sông Hằng thăm các di tích cổ của Phật giáo. Ông cũng thăm thành Già Gia (ở bang Bihar, Ấn Độ ngày nay). Ở đó có cây bồ đề cao năm trượng, dưới gốc nó, người sáng tạo ra Phật giáo là Thích Ca Mâu Ni đã tọa thiền, ông đã tới Tây Thiên Linh Sơn, nghe giảng kinh Phật, tham quan nơi Thích Ca Mâu Ni đã thuyết pháp. Những chuyến đi thực tế này đã giúp Huyền Trang lý giải được sâu sắc nhiều điều trong kinh Phật.
Chùa Lan Đà ở Ma Ca Đà quốc (nay ở phía nam bang Bihar, Ấn Độ) là trung tâm Phật giáo lớn nhất Thiên Trúc, đã có lịch sử hơn bảy trăm năm, thường xuyên có hơn một vạn tăng đồ tu tập. Hôm Huyền Trang tới ngôi chùa này, hơn một nghìn hòa thượng mang hương hoa tới đón tiếp vị khách Trung Quốc. Giới Hiền (2), nhà sư trụ trì chùa này là một người có uy tín đã hơn trăm tuổi, từ lâu đã không còn giảng đạo, nhưng để biểu thị tình hữu hảo với Trung Quốc đã nhận Huyền Trang làm đệ tử, trong suốt 15 tháng giảng cho Huyền Trang những điều quan trọng nhất của kinh Phật.
Huyền Trang đêm ngày nghiên cứu kinh Phật, học tập ngôn ngữ Ấn Độ cổ đại đạt được những thành tích khác thường. Ở chùa Lan Đà, có một nghìn người thông hiểu hai mươi bộ kinh Phật, năm trăm người thông hiểu ba mươi bộ kinh, còn thông hiểu năm mươi bộ kinh chỉ có mười người. Huyền Trang là một trong số mười người đó. Nhưng ông thấy vẫn chưa đủ. Trong mười năm ở Thiên Trúc cầu Phật, cuối cùng, cũng như Giới Hiền, ông đã thông hiểu tất cả những ảo diệu của các bộ kinh. Danh tiếng hiểu nhiều biết rộng của Huyền Trang khắp Thiên Trúc chẳng ai không biết.
Năm 641 Huyền Trang lên đường tới Khúc Nữ thành (ở phía bắc bang Kanari, Ấn Độ ngày nay) được Giới Nhật vương đón tiếp. Vừa lúc đó, có người viết một luận văn phản đối phái Na Lan Đà gửi tới Giới Nhật vương, nói chưa có ai có thể bỏ được một chữ. Giới Nhật vương là một tín đồ trung thành của đạo Phật, quyết định tổ chức một cuộc gặp gỡ đông đảo để công khai thảo luận bản luận văn này. Bước vào cuộc tranh luận, Giới Nhật vương mời Huyền Trang làm chủ tọa cuộc hội thảo có quốc vương của 18 nước ở Thiên Trúc cùng hơn 6000 giáo đồ nổi tiếng tham dự. Huyền Trang ngồi trên giường trân bảo thuyết pháp, ông đưa ra những quan điểm bác bỏ luận văn ấy, người nghe không ai không tỏ ra khâm phục. Ông còn đem một trước tác của mình là “Phá ác kiến luận” trình bày và trưng cầu ý kiến mọi người. Cuộc luận bàn kết thúc sau 18 ngày, không một ai có thể đưa ra ý kiến phản đối. Khi bế mạc, quốc vương các nước mang tiền, vàng tặng cho Huyền Trang. Nhưng ông đều từ chối, tất cả đem cho dân chúng nghèo khổ.
Giới Nhật vương thành tâm muốn lưu Huyền Trang lại Ấn Độ. Có vị quốc vương thậm chí còn muốn xây dựng một ngôi chùa lớn trăm gian để giữ Huyền Trang ở lại nước mình,. Nhưng Huyền Trang nhớ đất nước sau hơn mười năm xa cách quyết tâm trở về. Trước khi lên đường, Giới Nhật vương đã cùng với các bè bạn Ấn Độ rơi nước mắt đưa tiễn Huyền Trang hơn chục dặm đường.
Đầu năm Đường Thái Tông Trinh Quán thứ 19 (645), Huyền Trang mang theo hơn sáu trăm năm mươi bộ kinh Phật từ Tây thành trở về đến kinh đô Trường An, Trung Quốc. Kể từ khi ông dời Trường An đến khi đó đã là 18 năm. Khi ra đi, Huyền Trang đã vi phạm lệnh cấm của triều đình, giờ đây, Đường Thái Tông biết tất cả hoàn cảnh ra đi của ông rất khâm phục bản lĩnh ngoan cường của Huyền Trang, đã cử Phòng Huyền Linh tới Trường An đón tiếp ông. Ngày 24 tháng Giêng, dân chúng khắp thành Trường An đứng hai bên đường, bày hương án và hoa tươi, chiêng trống rộn ràng chào đón ông. Hơn một vạn tăng ni ở Trường An xếp thành hàng dài nghênh đón những bộ kinh Phật do ông mang về tại chùa Hoằng Phúc. Huyền Trang tới Lạc Dương triều kiến Đường Thái Tông, giới thiệu những điều tai nghe mắt thấy trên đường đi cùng với Tây thành, phong tục và đời sống của dân chúng các nước ở Thiên Trúc. Nghe mọi chuyện, Đường Thái Tông cảm thấy rất thú vị. Nhà vua khuyên Huyền Trang hoàn tục, giúp vua cai trị đất nước. Nhưng Huyền Trang cảm ơn và từ chối. Không lâu sau, Huyền Trang bắt tay vào công việc phiên dịch các bộ kinh Phật. Mỗi ngày năm canh, canh ba ông mới dừng công việc. Trong 19 năm, ông đã dịch được 74 bộ kinh Phật, 1.335 quyển, hơn 1.300 vạn chữ. Văn dịch của ông lưu loát đẹp đẽ, trung thành với nguyên tác. Có một số danh từ được ông sử dụng như “Ấn Độ”, “Sát na”, còn được lưu giữ cho tới nay.
Công việc phiên dịch trường kỳ gian khổ đã làm tinh lực của Huyền Trang suy kiệt. Tháng 2 năm 664 nhà lữ hành vĩ đại, nhà phiên dịch kiệt xuất đã viên tịch tại Ngọc Hoa tự ở ngoại ô Trường An. Cùng với việc dịch thuật kinh Phật, Huyền Trang còn là đồng tác giả của cuốn “Đại Đường Tây vực ký” (3). Hiện nay, cuốn sách này đã được phiên dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới, trở thành bộ sách nổi tiếng. Tiểu thuyết “Tây du ký” quen biết với đông đảo người hâm mộ đã lấy nhiều chuyện từ cuốn sách này.
Chú thích:
(1) Tam tạng: dịch nghĩa chữ Phạn TriPitaka, gọi chung kinh điển Phật giáo.
(2) Trụ trì: chức tăng Phật giáo, ý nói bảo vệ Phật pháp, được sử dụng từ thời Nam Bắc triều.
(3) “Đại Đường tây vực ký”: ghi chép lại nhiều chuyện của hơn một trăm các nước và khu vực từ Tân Cương tới Ap-ga-ni-xtan, Pa-ki-xtan, Ấn Độ, Băng-la-đét, Nê-pan, Xri Lan-ca,…. Một tài liệu quan trọng để nghiên cứu lịch sử và địa lý khu vực này.
-
Post Thanks / Like - 22 Thích, 0 Không thích
doccocuukiem, leutrong, Tontu, thanghong, ppt, nhachoaloiviet,
tom, cuonghanh, vuminh999999, dinhhoang_208, 6789, roamingwind, ChienKhuD, Kiem_Nhat, PhiHuong, jayjay, kysoai, tamthaplucke, huyenmapu, 123456, Aty, dangtrang90 đã thích bài viết này -
22-10-2014, 06:57 PM #988
Ngài Đường Tăng can đảm, mộ đạo, coi nhẹ hiểm nguy mà làm nên công lớn trong việc hoằng dương Phật pháp. Có lẽ những kinh phật bằng Hán văn ngày nay phần lớn cũng từ đó mà ra.
-
Post Thanks / Like - 9 Thích, 0 Không thích
-
22-10-2014, 11:12 PM #989
Quên thế nào được tình yêu củ nhỉ ?
Nhưng chỉ nhớ thôi. Nhiều hơn thì không.
Cầm lên được tất bỏ xuống đươc.
-
Post Thanks / Like - 10 Thích, 0 Không thích
Tontu, vuminh999999, ChienKhuD, Xuanvu2012,
tom, cuonghanh, huyenmapu, PhiHuong, Thợ Điện, Kiem_Nhat đã thích bài viết này -
22-10-2014, 11:50 PM #990
Ông D thân mến
Tôi có người bạn Columbia .ông đã già hơn tôi vài tuổi là một người chơi guitar tài tử hay nhất mà tôi từng gặp .Tôi nể ông ở ngón đàn tài hoa ,sự cảm thụ âm nhạc sâu xa và cách viết tiếng Anh ,ngôn từ trong sáng ý tưởng phong phú hồn nhiên
Tụi tôi thân nhau .Những ngày ông đến Mỹ là cả một hội hè với tôi ,đi ăn đi chơi chung ,thích thú với những nhận định sâu sắc của ông .Tôi đến Columbia thì nhà ông là nhà tôi ,hoàn toàn tự do thoải mái
Sáng nay nhớ ông giở chồng thư cũ đọc lại . Về những cái chết của danh cầm .Ông diễn tả thật cảm động ,ông nghe họ chơi nhạc hàng ngày .Họ chẳng có vẻ gì là bệnh tật .Thế rồi chợt một ngày họ đi xa ...vĩnh viễn
Hi Lam Thanks for the good wishes. My wish is equivalent for you. Now, in reference to Raphael Rabello, there had been three guitar players, whom have die lately: Baden Powell, Raphael Rabello and Paco de Lucía. These are people, I listen to every day thru my computer. So, when I heard about their death, I went into a state of shock for the simple fact that they didn't look sick to me at all. And of a sudden they were just gone for ever.
Nhớ khi ông gửi cho tôi CD Concert của Rabello với sự tiên cảm
When I saw Rabello's video playing "Luiza", I noticed certain abnormality within his voice that either he was drunk or tired. I'm not so sure, but I think he die afterwards.
Nghe nhạc đến độ cảm nhận được sự bất thường trong tiếng đàn và tiên cảm được sự chết chóc .Ông quả là bậc thầy
Hoặc khi ông nhận định kỹ thuật mới của một danh cầm trẻ tuổi khi dùng ngón cái bàn tay trái để tạo ra những hợp âm lạ .Cầm thủ có ngón đàn se sắt đến rơi lệ
There's a new kid on the block named: Marco Tardelli, outstanding guitarist, with a soul full of sensitivity, that making shed tears while playing; whom has invented a new style on how to play guitar by using his thumb, as an extra limb to create difficult cords and passages that otherwise wouldn't be possible.
Mời ông nghe Rabello chơi một bản nhạc reo dây bình thường nhưng với ngẫu hứng khác lạ .Khác các danh cầm .Trông Rabello buồn quá chơi Concert này là lần cuỗi .Ông qua đời rất trẻ chỉ hơn 30 .Nguyên nhân là khi ông bị đụng xe nhẹ lúc truyền máu thì không biết rằng máu đó có nhiễm HIV .Kể từ khi đó ông buồn uống rượu suốt ngày .Chưa chết vì AIDS ông đã chết vì nhồi máu cơ tim do uống quá độ
Ông để ý ngón tay trái bàn tay trái của Tardelli .Rất độc đáo
Và Baden Powell
Lần sửa cuối bởi Thợ Điện, ngày 22-10-2014 lúc 11:54 PM.
-
Post Thanks / Like - 19 Thích, 0 Không thích
leutrong, cobra, Tontu, thanghong, vuminh999999, SNAJDAN (L) #narliza, tamthaplucke, nhachoaloiviet, ChienKhuD, Xuanvu2012,
tom, cuonghanh, huyenmapu, PhiHuong, Kiem_Nhat, dinhhoang_208, Aty, trung_cadan, kiem_go đã thích bài viết này
Cà Phê Đen III
Đánh dấu