Kết quả 41 đến 50 của 148
Chủ đề: Võ thuật
Hybrid View
-
14-09-2011, 10:13 AM #1
-
14-09-2011, 11:50 AM #2
-
13-09-2011, 09:23 PM #3
Tiếp theo phần 1 vô cực luận
Ðộng tác buông thả của các chiêu thức Thập Nhị Huyền Công cũng như Tam Phong Quyền đều dựa theo các thế rơi của chiếc lá, cành hoa, hay viên gạch. Sự rơi rớt xuống đất của chúng cho ta thấy Vô Cực Công đặt nặng ở hành Thổ - mẹ của các hành khác. Quyền cước (nói chung. tứ chi là Kim Mộc Thuỷ Hỏa) sẽ không có sức mạnh và sự vi diệu của chúng cũng không thể phát huy đúng mức nếu không có thân mình (hành Thổ) yễm trợ đằng sau; ra lệnh cho mọi người mà không có thực quyền thì không khác gì lời nói suông, sẽ không ai nể sợ cả. " Thận là gốc của Tiên Thiên, Tỳ (lá lách) là gốc của Hậu Thiên ". Tỳ ở trung cung (giữa cơ thể thuộc hành Thổ). Hành Thổ tượng trưng cho quả Ðất , là người Mẹ nuôi dưỡng dung chở vạn vật. Như vậy Vô Cực Công ám chỉ không gì khác hơn là quay về với Mẹ Vô Cực.
Vô Cực Công chủ trương 'bất dụng lực'. Vì lực tự nhiên do ở thao tác rợp ràng của cơ thể tạo ra. Khi ỷ lại vào tài hay giỏi dễ đưa đến sự chống trả gây ra sự cố ý vận sức (vướng mắc ở đức Cương). Tưởng rằng đối phương sẽ kiêng nể cái hay giỏi của ta, nhưng cao thủ Vô Cực, vào và ra được toàn khâu, sẽ không ngần ngại bước vào ngàm để triệt hạ ta. Ðương sự đũ bản lãnh áp dụng một phương cách không mấy xa lạ, 'vào hang hùm để bắt hổ con'. Do đó, ỷ dựa vào sở trường của mình là tự đào hố chôn mình vậy; trái với lẽ thường, ta học võ để gây sự tự tín, tin tưởng vào khả năng của chính mình để sẳn sàng đương đầu với đối phương, nghịch cảnh. Câu tục ngữ 'sinh ngề tử nghiệp' cũng như câu 'kẻ nào xử dụng gươm giáo sẽ chết vì giáo gươm' rất hữu lý trong trường hợp này. Và một thí dụ tiêu biểu là Tôn Hành Giả trong truyện Tây Du Ký, cậy ở 72 phép thần thông biến hóa lên quấy phá Thiên Ðình, để rồi bị kềm tỏa ở chân núi Ngũ Hành.
Bởi vậy, yếu tố then chốt và cũng là bước đầu của Vô Cực Công khi thao diễn Thập Nhị Huyền Công ta phải thật lỏng mềm, phải bỏ quên cái hay của mình, và luôn nhớ rằng ta là kẻ yếu dở nhất ) ," Phúc thay cho kẻ có lòng khiêm tốn, vì nước Trời là của họ"). Ðồng thời ta tập thêm pháp Tỳ Bà Công để phát triển sự mềm dẽo tự nhiên - khác với sự mềm dẽo do lý trí sai bảo - bổ túc cho Thập Nhị Huyền Công. Và cũng nhờ sự buông lõng không vận sức, khí lực luân lưu không bị ngăn ngại sẽ dễ khai mở kinh mạch, tăng cường thể lực,v.v...
Có hai thứ khí lực trong cơ thể, Tiên Thiên và Hậu Thiên. Khi mới sinh ra ta được thừa hưởng Tiên Thiên khí là khí lực truyền từ cha mẹ. Hậu Thiên Khí là khí lực do ta tự gây tạo nên. Theo lẽ thường, con người đến 50-60 tuổi thì Tiên Thiên Khí suy kiệt. Tuy nhiên Thập Nhị Huyền Công còn là phương pháp giúp ta phát triển Hậu Thiên Khí để bổ túc cho Tiên Thiên Khí. Tập một giờ thì ta gặt hái được một giờ công lực; tập 20 năm hay 40 năm thì ta được 20 năm hay 40 năm công lực.Thế nên không có gì lạ khi có những cụ già 70, 80 tuổi vẫn có thể hạ được những thanh niên 19, 20 tuổi. Nên nhớ rằng một cây con bé nhỏ ốm yếu phải trải qua bao nhiêu năm gió bão trui luyện nó mới trở thành cây cổ thụ cao to, cuồn cuộn gân guốc sau này.
Tại sao lớp Vô Cực Công vẫn còn phải học bài bản ? Lý do là không thể bất chợt nhảy luôn vào Vô Cực, lớp vỏ hay cái giỏi của sự hiễu biết trước đây đã đóng dày đặc, cũng như một thói quen lâu năm không thể một sớm một chiều mà dứt bỏ được. Ta nắm lấy cái thanh cao để buông dần cái thô trược, rồi sau đó mới thoát hẳn ra ngoài mọi khuôn phép hình thức.
Chúng ta đã công nhận quan điểm con người vốn động. Dựa vào khả năng lanh lẹ, hay thu thập bài bản cho nhiều cũng chỉ gây thêm nhiều sự giao động mà thôi. Vô Cực Công cho rằng bí quyết là ở chổ tâm bình thản. Muốn vậy, không khác Hồng Gia Quyền ở bước đầu, ta cần trụ tấn trong lúc thao diễn Thập Nhị Huyền Công.
Trước hết, trụ tấn để định được tâm, nhờ đó ý có thể quán khắp châu thân. Song song với việc trụ tấn, sự buông thả rơi rớt trong lúc thao diễn giúp tâm trí dễ trầm xuống, đưa đến sự tĩnh lặng. Ðồng thời những thao tác thượng trung hạ liên kết chặc chẻ sẽ dẫn đến trạng thái 'thân thủ bộ pháp tích cực liên hoán'. Lâu ngày toàn thân sẽ như có mắt, nơi nào bị công thì tự nó sẽ tránh và phản đòn, ta không cần phải bận tâm lo phòng thủ.
Ngoài ra trụ tấn còn mục đích nuôi tấn (gốc). Tấn sinh Thần, Thần nhiếp Khí. Bởi vậy đứng tấn để nuôi Thần. Không cần phải tìm Tinh Khí Thần đâu xa, tấn vững chắc sẽ đưa đến "Tinh Khí Thần hợp nhất". Nó sẽ trợ lực cho quyền pháp (lực tại căn), giúp cho Thần khỏi bị động, cũng như thân pháp khỏi bị loạn. Và sau này, Thập Nhị Huyền Công qua giai đoạn động, tuy không còn trụ tấn nữa, nhưng khi ta di chuyễn đến đâu thì tấn theo đến chổ đó, không khác gì cái gốc di động.
Tuy rằng tấn Vô Cực lơ lửng, không Âm, không Dương, không trụ vào đâu cả. Nhưng ta cần nương vào cái đã có trước. Bởi vậy tấn Vô Cực lúc đầu phải dấu Thái Dương. Cần phải bám vào Dương, vì Dương là chính, là mặt Trời, là có, và Âm là mặt Trăng là không.
Tuy Thái Cực chú trọng đến cái Một, ta và địch là một. Nhưng đây là Một - 2, vì vẫn phải có 2 người, phải có ta bỏ mình theo người, địch tiến ta lùi,v.v...Lên đến Vô Cực lúc đó không còn vướng mắc Âm Dương, không còn người không còn ta, ta và địch là Một. Một này là Một -0, khác với Một -2 của Thái Cực.
Bộ xương người là một đối tượng tuyệt hảo để nghiệm xét. Nó đã chết rồi, không còn ý tưởng dấy khởi. Nó không cầu sinh, không cầu tử. Ðối với nó ta không mà nó cũng không.Ta tập với bộ xương người, nếu đấm nó phía bên phải, bên trái nó bật đánh lại ta, nếu đấm nó phía bên trên thì phía dưới nó bật đá lại ta. Ta đánh nó chậm thì nó phản đòn lại chậm, đánh nó nhanh nó phản đòn nhanh,v.v...Ðánh nó nhanh như thế nào ta vẫn bị đòn đánh trả lại. Thật ra nó không lo tự vệ cũng như có ý định đánh lại ta, trái lại nó nương ở ta, nhờ ta động mà nó sống. Sự phản đòn của nó do sự phản xạ tự nhiên, hoàn toàn không có tính toán, không chiêu thức.
Hoặc như giải Ngân Hà, tự nó đã đầy đũ toàn vẹn, an nhiên tự tại. Nhưng khi đối phương chợt động, tức là Thái Cực phát khởi, lập tức Âm Dương, Tứ Tượng, Ngũ Hành, Bát Quái nối tiếp nhau sinh biến, chuyễn xoay luôn cả giải Ngân Hà. Ðối phương dấy động gây ra sự thái quá (dư thừa) hoặc bất cập (thiếu hụt) làm xáo trộn trạng thái quân bình hiện tại. Mà bản tính tự nhiên của giải Ngân Hà là đi đũ một chu kỳ sinh tử mộ tuyệt, rồi trở lại tình trạng quân bình tịch tĩnh Vô Cực của nó. Trên đường đi trở về Vô Cực, những gì thiếu hụt nó sẽ bù vào, dư thừa nó sẽ thãi ra ngoài. Vậy nếu đối phương không bị cuốn ra khỏi quỹ đạo, thì cũng bị Thiên La Ðịa Võng bao phủ và nghiền nát trong giải Ngân Hà. Sao Thiên La (lưới trời) nằm ở cung Thìn, sao Ðịa võng (võng đất) ở cung Tuất. Trên lá số tử vi, nói một cách khái quát thì Mệnh ở cung Ngọ, Phối (phu thê) ở cung Thìn, và Quan (công danh) ở cung Tuất. Vậy sao Thiên La đi với cung Phối, và sao Ðịa Võng đi với cung Quan. Phối và Quan là hai nguyên do chính gây ra dục vọng tham ái khiến tâm ta động. Và khi tâm bị khuấy động, thiên la địa võng sẽ phong tỏa xiết trói và nghiền nát ta tương tự như nạn nhân kể trên.
Khi trụ bám vào một sự hay vật gì, là khó thấy được sự vật khác chung quanh nó. Còn như bộ xương người, không trụ không cầu nên không bị giới hạn trong một phạm vi nào. Thí dụ khi phát quyền vào ngực đối phương, thay vì theo dỏi địch thủ, ta không cần để ý, không cần biết trúng hay trật. Trường hợp đối phương đở hay tránh được, thông thường ta thu quyền về rồi biến thế khác, trái lại ta đi tiếp. Nếu đối phương đở lên, đường quyền tiếp tục lên mặt hắn, nếu hắn gạt xuống, đường quyền đi xuống bụng hắn. Hoặc đối phương chụp lấy ta, thay vì ta giải gở, nhưng kế tiếp là khuỷu tay, vai sẽ tự động phát đòn. Một khi phóng quyền cước ra thì nó sống ngay lúc đó, nhưng nó chết liền khi bị đối phương đở hay chụp. Vậy nếu không cầu mong ở quyền cước hay tự trói buộc vào mục tiêu nào thì mọi thứ sẽ tự kiếm đường sống cho nó cũng như mục tiêu khác sẽ tự nảy sinh. Thế nên càng buông bỏ nhanh ta càng được tự do, càng linh hoạt biến hóa. Ỳ niệm này hoàn toàn phù hợp với câu "kẽ nào coi trọng mạng sống mình sẽ mất nó".Bà kia tuổi sáu mươi rồi
Mà sao vẫn phải sầu ngồi bán khoai
Cụ kia tuổi bẩy mươi hai
Mà sao ong bướm mệt nhoài chán chê…
-
13-09-2011, 09:24 PM #4
Hành trình trở về Vô Cực rất đơn giản, khi đã có, tức là xử dụng được Bát Quát, Ngũ Hành, Thái Cực, ta bắt đầu lìa bỏ cho đến khi không còn gì để học cái Không.
Thường ta chỉ chú ý tới cái Có mà không chú trọng tới cái Không. Một căn nhà sẽ chẳng phải là căn nhà nếu nó không có khoãng trống bên trong, cũng như cái cửa sổ sẽ chẳng thành hình nếu không có khoảng trống trên tường. Thử nghĩ nếu không ăn hay không thở thì ta sẽ không thể sống được. Hoặc một bản nhạc chỉ toàn là nốt từ đầu đến cuối mà không có những lúc yên lặng, nó cũng sẽ không phải là bản nhạc.
Mức quan trọng của cái Không chẳng kém gì cái Có, thật ra nó đã bám sát cái có trong vũ trụ từ nguyên thủy. Một căn nhà đầy chật đồ đạc làm ta nghĩ là nó không có khoãng trống, nhưng thật ra sự hiện diện của nó đã ở đó tự bao giờ. Chỉ cần bỏ đồ đạc ra là khoãng trống tự xuất hiện, ta không cần phải bê nó vào. Vậy Có (sắc) và Không đi đôi với nhau như hình với bóng, vì chúng chính là cặp Âm Dương. Ta được biết Âm là Dương ở trạng thái tĩnh, Dương là Âm ở trạng thái động, ngày nay khoa học cũng tuyên bố không khác, năng lượng (energy) là vật chất (matter), và vật chất là năng lượng. Do đó, cặp Có Không tuy có cùng một bản chất nhưng ở hai trạng thái khác nhau.
Phật gia cũng đồng một quan điểm khi nói "sắc sắc không không". Sau khi thấu triệt về sắc (có/ thí dụ như tứ đại: đất, nước, lửa, gió), họ quay qua học cái Không. Khi đã thấu đáo ý nghĩa của Sắc và Không, và chẳng còn bị chúng chi phối, tức là lúc trí tuệ (bát nhã) đã khai mỡ, họ mới có thẩm quyền để nói "sắc tức thị không, không tức thị sắc" (sắc là không, không là sắc).
Ta đã biết khi lùi về Vô Cực tức trở về cái gốc sinh ra vạn vật; hay nói một cách khác ta trở về chổ Không để Có. Cái Có này không phải cầu mong mà được, nó là cái Có tự nhiên, khác với cái Có (đối với cái không) của Âm Dương, của lý trí. Ðể có khái niệm về cái Không sinh ra vạn vật, ta nhận xét một cây cổ thụ to lớn từ một hạt nhân bé nhỏ, mà khi bổ hột ra thì bên trong nó trống rỗng, không có gì.
Những gì đã học, thấy, nghe qua đều in trong tiềm thức, bởi vậy khi nói buông bỏ không có nghĩa là sẽ xóa hết sạch. Khi về đến Vô Cực (Không), theo lối nhìn đã đề cập ở trên, ta sẽ trở lại trạng thái thơ ngây như xưa. Như xưa nhưng vẫn khác xưa. Chẳng hạn như có một thanh niên để lòng yêu mến một thiếu nữ. Một lần trong mộng anh đã gặp gở và chuyện trò vui vẽ cùng cô. Sáng hôm sau dĩ nhiên là không có gì từng xảy ra cả, con người anh tối hôm qua và con người anh hôm nay là một. Tuy là một, không có gì thay đổi, nhưng vẫn có sự khác biệt.
Tiếp tục các câu vấn đáp truy về gốc: Vô Cực gốc ở đâu?
-Vô Cực không có gốc.
Ta đã từng thấy tấn Thiếu Lâm, Hồng Gia, vv...đều bị hất đổ, ngược lại tấn Vô Cực lại không hề hấn gì. Vì nó không dấu Thái Dương hay Thái Âm mà chỉ lơ lửng không bám trụ vào đâu cả (hư linh đỉnh kình), có thể ví như không có gốc. Vì không có gốc nên không có chuyện bật gốc, không bật gốc thì không đổ. Vấn đề này được kinh Dịch làm sáng tỏ qua hai quẻ Ký-Tế (số 63, hoàn tất) và quẻ Vị-Tế (số 64, chưa xong). Các tấn khác đứng thật vững chắc theo tượng quẻ Ký-Tế, nghĩa là mọi thứ đều ở đúng vị của nó, không có gì sai lệch. Nhưng vì tất cả đâu đã vào đấy, như cái cân đang ở trạng thái quân bình hoàn hảo thì chỉ cần thêm bớt nhẹ cũng đũ khiến nó nghiêng lệch mất thăng bằng. Trong khi tấn Vô Cực bấp bênh mỏng manh theo tượng quẻ Vị-Tế - việc còn dở dang chưa xong. Chưa xong có nghĩa là sẽ xong chứ không phải không xong. Bởi vậy va chạm nó hóa ra lại thêm vào cho nó được đầy đũ giúp nó tạo thế quân bình dễ dàng.
Không có ý chống trả của Vô Cực khác với sự tiến lùi theo đối phương như còn ở cấp độ Thái Cực. Lấy pháp Chủ Tế làm thí dụ. Một ứng dụng của nó là nghe nặng ở đâu rót sức nặng về chổ đó, nên thấy có vẻ như giằng co vận sức. Khi bị kéo, thay vì bước tới trước nhượng theo theo lực đối phương, nó lại bật người ra sau theo tư thế Chủ. Và nó đổ người tới trước, Tế, thay vì lùi lại khi bị đẩy.
Pháp Chủ Tế cùng với vài đặc điểm sau đây biễu hiện những khía cạnh nghịch với thế thường của Vô Cực.
Ngoài 'trọng quyền khinh tấn', một lỗi lầm nữa là quyền cước, ta chỉ lo phát ra mà không chú ý đến sự thu về. Căn cứ theo luật quân bằng của Âm Dương, đi và về bắt buộc phãi quan trọng ngang nhau. Tuy nhiên, cao thủ Vô Cực, không còn trong vòng ảnh hưởng của Âm Dương, nhiều khi có đi mà không cần về - nếu không hiễu, sẽ cho rằng họ vi phạm qui tắc sơ đẳng này. Ðối với họ, một khi quyền cước đang ở địa phận đối phương, không có lý do gì phải thu về nếu chưa giãi quyết xong. Họ không cần khoãng cách để tạo ra lực. Họ dư sức chấn thương đối phương qua những động tác nhỏ tinh diệu, với sự di động tối thiểu.
Sự hỗn độn của cao thủ Vô Cực khi lâm trận cũng là một đặc điểm. Tay chân họ lúng túng vụng về, đi đứng nghiêng ngã loạng choạng, không chiêu nào ra chiêu nào (điển hình là môn Túy Lúy Quyền). Trông họ như kẻ nữa điên nữa say, còn kém hơn cả các môn sinh mới nhập học chưa biết gì về thân thủ bộ pháp. Ðúng ra họ không còn trụ vào chiêu thức nữa, nên gọi là vô chiêu. Vô chiêu không phải là không có chiêu thức. Mọi động tác của họ đều nằm trong các dạng Ngũ Hành, Bát Quái,vv..., chỉ vì chúng nhuộm màu Vô Cực, quá sức vi tế nên khó nhận ra hình tướng chúng. Ở trình độ của họ, đi đứng nằm ngồi, tay chân dù ở tư thế nào cũng là võ cả. Nghệ thuật của họ được mô tả là "sự khéo léo quá mức dường như vụng về".
Nghe một bản nhạc cổ điển hiện đại (modern classical) nhiều khi thính giả không biết đầu đuôi nó ra sao, bắt đầu ở đâu, hết lúc nào. Cả bài giống như một đống nốt lộn xộn, âm giai chói tai, nhịp điệu hỗn loạn...Cứ tưởng bản nhạc được viết trong lúc đầu óc người nhạc sĩ không được bình thường, nhưng nếu ta vạch bõ lớp cành lá có vẽ vô trật tự ở trên, thì thấy nó vẫn không ra ngoài khuôn khổ âm luật.
Hoặc một y sĩ châm cứu siêu đẳng sẽ làm mọi người lạnh xương sống, vì những mũi kim bậy bạ, không theo đúng bộ vị huyệt đạo của vị y sĩ này. Ðiều ta không ngờ được là, khi nắm được nguyên lý của tiểu và đại vũ trụ, cắm kim ở đâu thì chổ đó là huyệt.
Bậc hiền nhân quân tử và kẻ nham hiểm đại ác thường có những thái độ giống nhau. Chữ viết thão của nho sĩ thấy không khác nét nguệch ngoạc của kẻ mù chữ.
Qua những nhận xét kể trên, ta thấy bất cứ nghành học nào, cấp bậc sơ đẳng và mức độ thượng thừa - ở đầu hai cực - sẽ có những nét tương tự như nhau. Sự kiện này cũng khiến ta liên tưởng đến câu phương châm "zen" rất quen thuộc, "ban đầu núi là núi, sau đó núi chẳng phải núi, và cuối cùng núi là núi".
Trước câu hỏi về Vô Cực, cư sĩ Duy-Ma-Cật trả lời bằng sự lặng thinh. Khi mở miệng nói đến Vô Cực tức là đã tự mâu thuẩn rồi vậy. Sự mâu thuẩn phát sinh ngay khi chúng ta mới bắt đầu trên con đường về Vô Cực. Ta phải từ bõ thay vì góp nhặt, phải nghĩ mình yếu, dở, thay vì nghĩ mình mạnh, hay,v.v...Việc khó khăn hơn nữa là không cầu mong ngay cả sự thành đạt Vô Cực, như Phật gia có câu "vô sở cầu vô sở đắc". Vì khi cầu mong tức là ta nhắm vào một mục tiêu nào đó để đạt đến, và như vậy trong trường hợp này ta đã đặt mức giới hạn Vô Cực lại rồi. Vậy Vô Cực cũng chỉ là một ý niệm cần phải buông bõ như tất cả những ý niệm khác. Vạn pháp đều huyễn[Ỵ]. Ta nắm lấy một pháp để loại trừ tất cả các pháp khác, để rồi cuối cùng chính nó cũng phải bị vứt bõ. Ðã đến ngưỡng cửa mà chỉ đứng đó trầm trồ thì sẽ chẳng bao giờ biết được bên trong ra sao. Vì cánh cửa mở đấy mà cũng đóng đấy.
Ta hãy nghiền ngẫm câu chuyện sau đây do sư tổ truyền kể lại :
Có người học nghề đồ gốm đã lâu mà vẫn chưa nặn được một cái bát, cái bình nào cho tròn (còn bị vướng bận trong Âm Dương). Mãi đến một hôm, vì không chú tâm cố ý trong việc làm, bất ngờ anh ta hoàn thành được một cái bát tròn hoàn hão (không có ý thêm bớt nên thoát khỏi Âm Dương, đạt đến Vô Cực). Mừng rỡ, anh vội mang cái bát đi khoe sư phụ. Hốt nhiên vị thầy rút búa đập vở tan cái bát. Anh học trò ngẫn người ngạc nhiên, rồi sau đó khuôn mặt anh bừng sáng với nụ cười thức tỉnh.
Xin tổng kết sự mâu thuẫn, đơn giãn của Vô Cực như sau. Ta xông tới tấn công với những chiêu thức dũng mãnh, đường quyền vũ bão, nhưng Vô Cực chẳng buồn né tránh hay đở gạt, nó thãn nhiên đưa tay chộp cổ ta và cười khà khà .
Ngày nhập môn Vô Cực Công, theo thông lệ, sẽ có cuộc đối thoại giữa sư phụ với từng môn sinh. Qua các câu hỏi, thầy sẽ quậy khởi các thứ tình cảm trong con người anh học trò. Mục đích là hướng môn sinh nhìn vào trong để giúp anh mường tượng - việc mà bình thường ít ai thắc mắc để ý - cái Tôi đó là gì. Ðây là bài học thứ nhất của Vô Cực Công.
Vô cực vốn không phân , Thái Cực sinh Lưỡng Nghi , Ma Vân Thủ sao có thể ? Vô chiêu có thế , vô thế cho chiêu ? Hóa chiêu thành thế là đạo ắt thắng . Hóa chiêu đổi thế là đạo quyết thắng .
Và một ngày kia, ta sẽ chẳng còn bận tâm đến chấp xã hay thành đạtBà kia tuổi sáu mươi rồi
Mà sao vẫn phải sầu ngồi bán khoai
Cụ kia tuổi bẩy mươi hai
Mà sao ong bướm mệt nhoài chán chê…
-
14-09-2011, 09:11 AM #5
Thập Nhị Huyền Công gồm 12 thức là bài quyền trọng yếu của Vô Cực Công có tên gọi là Bạch Thố Hí Nguyệt (Thỏ Trắng Giởn Dưới Trăng). Các chiêu thức trong bài giải thích tiến trình sinh hóa của vạn hữu, giúp ta có khái niệm vế sự ứng hiện của Vô Cực.
Bạch Thố Hí Nguyệt
1. Vô Cực Sinh Tắc Biến - từ lúc vô thủy, vũ trụ được hình thành là một khối, sau khi big bang những phân tử được phân tán ra bốn phương, dần dần rơi xuống.
2. Thiên La Ðịa Võng - khi đã đũ sức nặng thì Thổ thành hình, tức là lúc bắt đầu có hình tướng. Ðó là lúc lưới trời võng đất hợp lại và sinh Âm Dương.
3. Song yến Ðồng Phi.
4. Mỹ Nhân Chiếu Kính.
5. Tiên Nữ Tán Hoa .
6. Âm Kình Chưởng . Chánh Diện Chưởng - Tứ Tượng, Ngũ Hành, Bát Quái.
7. Thần Long Bái Vĩ .
8. Dương Kình Chưởng.
9. Lôi Hoành Chưởng.
10. Hồ Ðiệp Chưởng.
11. Bạch Sư Hòa Thượng Trút Áo Cà Sa.
12. Thiên La Ðịa Võng - lùi về Âm Dương.
-
14-09-2011, 09:15 AM #6
Phả hệ nhân vật Vịnh Xuân quyền trên thế giới
• Ngũ Mai Sư thái (五 枚 師 太, Wumei Shitai, Ng Mui Si Tai) hay Ngũ Mai Đại Sư ( 五 梅 大 師, Wǔ Méi Dà Shī, Ng Mui Dai Si), tương truyền theo Diệp Chuẩn (con trưởng Diệp Vấn) đây là nhân vật không có thật
• Nghiêm Nhị (嚴 二, Yim Yee): cha của Nghiêm Vịnh Xuân, tương truyền theo Diệp Chuẩn (con trưởng Diệp Vấn) đây là nhân vật không có thật
Đời thứ I
Nghiêm Vịnh Xuân (嚴 詠 春, Yim Wing Chun): học trò của Ngũ Mai Sư thái, tương truyền theo Diệp Chuẩn (con trưởng Diệp Vấn) đây là nhân vật không có thật.
Đời thứ II
• Lương Bác Trù hay Lương Bác Thau ( 梁 博 儔 - Leung Bok Chau, Leung Bok Sui): tương truyền là học trò của Hồng Hy Quan (Hung Hei Gun), và cũng là chồng của Nghiêm Vịnh Xuân, truyền nhân đời thứ hai của Vịnh Xuân quyền
Đời thứ III
• Lương Lan Quế (梁 兰 桂, Leung Lan Kwai): truyền nhân đời thứ ba Vịnh Xuân, học trò đầu tiên của Lương Bác Trù.
• Than Thủ Ngũ - Trương Ngũ (摊 手五 - 张 五, Tan Sau Ng)
Đời thứ IV
• Lương Nhị Đệ (梁 二 娣, Leung Yee Tei): , bạn của Hoàng Hoa Bảo, truyền nhân đời thứ tư của Vịnh Xuân quyền
• Hoàng Hoa Bảo, (黄 华 宝, Wong Wah Bo): học trò của Lương Lan Quế (Leung Lan Kwai), truyền nhân đời thứ tư của Vịnh Xuân quyền
• Lục Cẩm hay Đại Hoa Diện Cẩm (陸 锦, 大 华 面 锦, Dai Fa Min Kam):
• Lục Lan Quan - 陸 兰官, San Kam ( Đại Hoa Diện Tân Cẩm - 大 华面 新 锦 ), đồng môn với Lục Cẩm
Đời thứ V
• Lương Tán (梁 赞, Leung Jan): học trò của Lương Nhị Đệ và Hoàng Hoa Bảo, truyền nhân đời thứ 5 của Vịnh Xuân quyền
• Phùng Thiếu Thanh (冯 少 青, Fung Siu Ching): , sư phụ của Nguyễn Tế Vân
• Hắc Bảo Toàn (霍 保 全, Fok Bo Chuen) hay Quách Bảo Toàn ( 郭 宝 全 )
Đời thứ VI
• Lương Bích (梁 壁, Leung Bik): con của Lương Tán, truyền nhân đời thứ 6 của Vịnh Xuân quyền, thầy của Nguyễn Tế Vân
• Trần Hoa Thuận hay Trảo Tiền Hoa (Chan Wah Shan, Chan Wah Shun - 陳 華 順 / 陈 顺 华 / 找 钱 华): học trò của Lương Tán, truyền nhân đời thứ 6 Vịnh Xuân quyền, thầy của Diệp Vấn
Đời thứ VII
• luong phien (梁翻, Leung faan): Con Lương Bích.Truyền nhân đời thứ 7.
• Nguyễn Tế Vân hay Nguyễn Tế Công (阮 济 云, Yuen Chai Wan): học trò của Phùng Thiếu Thanh và Lương Bích, truyền nhân đời thứ 7 Vịnh Xuân quyền, sư tổ của Vịnh Xuân quyền Việt Nam
• Nguyễn Kỳ Sơn (阮 其 山, Yuen Kay Shan): em ruột Nguyễn Tế Vân, sư tổ Vịnh Xuân quyền Quảng Châu
• Diệp Vấn (叶 问, Yip Man): học trò của Trần Hoa Thuận, truyền nhân đời thứ 7 Vịnh Xuân quyền, thầy của Lý Tiểu Long
• Ngô Tiểu Lỗ (吳 小 魯, Ng Siu Lo), học trò của Trần Hoa Thuận
• Ngô Trọng Tố (吳 仲 素, Ng Chung Sok): học trò của Trần Hoa Thuận, Nhị Sư huynh và cũng là người đã dạy Vịnh Xuân quyền cho của Diệp Vấn từ năm 13 tuổi tại Phật Sơn, Quảng Đông
• Trần Nhữ Miên (Chan Yu Min, Chan Yu-Gum - 陳 汝 錦): con trai của Trần Hoa Thuận
• Lôi Nhữ Tế (Lui Yu Jai, Lui Yu-Chai - 雷汝濟): học trò của Trần Hoa Thuận
Đời thứ VIII
• tran Thông (1984 - ) Học trò truyền nhân của Lương Khôi. Hiện đang mở võ đường Trần Thông ở Bình Thạnh và Tân Phú.
• Lương Đỉnh (梁 挺, Leung Ting, 1947 - ): học trò của Diệp Vấn
• Diệp Chuẩn (Yip Chun, Ip Chun - 葉 準, 1924 - ), con trai của Diệp Vấn
Đời thứ IX
Bành Nam (彭 南, Pang Nam, Pan Nam, 1909 – 1995) học trò đời thứ hai của Lôi Nhữ Tế và Trần Nhữ Miên
-
14-09-2011, 09:18 AM #7
Phả hệ nhân vật Vịnh Xuân quyền Việt Nam
Đời thứ I
Nguyễn Tế Vân hay Nguyễn Tế Công, (阮 济 云, Yuen Chai Wan): học trò của Phùng Thiếu Thanh và Lương Bích, truyền nhân đời thứ 7 Vịnh Xuân quyền, sư tổ của Vịnh Xuân quyền Việt Nam
Đời thứ II
• Ngô Sĩ Quý (1922-1997)
• Trần Thúc Tiển (1912-1980)
• Vũ Bá Quý (1912-1995)
• Trần Văn Phùng (1902 -1987)
• Hồ Hải Long (1917-1988)
-
14-09-2011, 10:30 AM #8Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..
-
14-09-2011, 11:55 AM #9
-
14-09-2011, 04:23 PM #10
Cảm ơn Lão Huynh đã quá khen đệ,thật tình cờ trong chuyến du hành Yên Tử,đệ cùng mấy anh em đã có duyên được gặp( Thích Đạt Ma Trí Thông) khi Ngài đang tĩnh tu ở Ngọa Vân Am,trong đoàn đệ có hai người nghiên kứu về Phật Học, dòng Phái Trúc Lâm Yên Tử..Khi gặp được Ngài những câu hỏi về Phật Pháp và đối nhân sử thế.Ngài đều trả lời rất uyên thâm, lý lẽ sắc sảo...Về vấn đề tại sao biết Ngài là Cao Đồ phái Vĩnh Xuân...Buổi sáng sớm trên Ngọa Vân Am thật yên tĩnh,không khí rất trong lành,đệ dậy sớm và thấy hai đệ tử của Ngài đang luyện võ, và hỏi họ đang luyện môn gì.Được họ cho biết là Vĩnh Xuân Quyền, sau đó đệ lên tham vấn Thiền Sư và được biết,Ngài chính là môn đồ của Sư Tổ Nguyễn Tế Công,Ngài kể rất nhiều về cơ duyên được Sư Tổ truyền dạy.Cùng những tên tuổi đệ tử mà "kỳmoc" đã post lên diễn đàn..
Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..
Võ thuật
Đánh dấu