Kết quả 51 đến 60 của 148
Chủ đề: Võ thuật
Hybrid View
-
15-09-2011, 12:05 AM #1
Cám ơn bạn HungVi đã gửi thông tin.Tuy nhiên Kymoc tôi xin khẳng định rằng: Ngoài các Tôn sư sau:
Vũ Bá Quý
Ngô Sỹ Quý
Trần Văn Phùng
Trần Thúc Triển
Cam Túc Cường
Hồ Hải Long....
Thì hiện tại lứa còn sống đến bây giờ không còn ai.
Nếu vị sư phụ tu tại Yên tử vẫn chắc một điều rằng được đích thân đại sư Nguyễn Tế Công chỉ dạy thì VX ngoài Bắc xin được lên hầu cụ.
Hungvi làm ơn chuyển hộ lời này lên vị sư thầy.
Bởi theo Kymoc được biết thì tất cả các học trò của đại sư Nguyễn Tế Công đến hiện tại là người trẻ nhất là Cụ Quý cũng đã viên tịch lâu rồi.
-
14-09-2011, 10:04 AM #2
Về miền đất võ, Thuận Truyền - Vang danh những đường roi
Làng võ Bình Định là một nét độc đáo riêng trong truyền thống văn hóa Bình Định. Trong đó, xã Bình Thuận, huyện Tây Sơn vốn là một vùng quê khoai sắn, ấy vậy mà nơi đây lại vang danh bởi cái tên Thuận Truyền với lời truyền tụng: "Roi Thuận Truyền - quyền An Vinh..."
Phải lò dò vào những ngách nhỏ ngoằn ngoèo, vun đầy cát ở làng Hòa Mỹ, mới tìm được ngôi nhà xưa của võ sư Hồ Nhu (thường gọi là Hồ Ngạnh). Trước nhà, một mái hiên lợp tôn thông thống bốn phía. Võ sư Hồ Sừng, cháu nội võ sư Hồ Nhu, năm nay đã 65 tuổi, cho biết: "Tui mới cất năm ngoái để tập võ vào mùa mưa, còn như mùa hè thì tận dụng luôn cả hai khoảnh ruộng làm sân tập".
Từ huyền thoại làng võ
Roi Thuận Truyền xa nữa không rõ ông tổ là ai, nhưng võ sư Hồ Nhu được xem như một sư tổ. Ông sinh năm 1891, cha từng là một võ quan triều Nguyễn, mẹ người Huế, cũng là con nhà võ. Chuyện xưa kể, một lần do bị bức hiếp, Hồ Nhu đã đánh trả con trai một ông Hương Kiểm trong làng. Ông Hương Kiểm xách gậy đi tìm, đòi đánh ông. Mẹ ông đã giở ngay cán cuốc đánh ngược lên một thế. Vậy là cái gậy trong tay Hương Kiểm bay vù tận ngõ. Từ đó, Hồ Nhu bắt đầu theo mẹ luyện võ. Nhưng theo võ sư Hồ Sừng, hồi bé, võ sư Hồ Nhu chưa được mẹ dạy võ. Ông phải tìm học ở nhiều ông thầy khác, như học roi của Ba Đề, học nội công của Đội Sẻ, tiếp đến học roi của Hồ Khiêm và theo Quách Tấn - Quách Tạo thì ông còn được một tạo sĩ (đậu tiến sĩ võ) truyền dạy thêm. Khi đường roi đã cứng cáp vì kết hợp tinh hoa của nhiều thầy, thấy được, mẹ ông mới tinh truyền thêm. Đường roi càng trở nên thiên biến vạn hóa, sâu hiểm khôn lường.
Khoảng năm 1932, tiếng tăm ông vang dội khắp bốn tỉnh Nam, Ngãi, Bình, Phú, học trò đến thọ giáo rất đông. Quá 80 tuổi, Hồ Nhu vẫn còn thao diễn roi, đường roi vẫn cứng và đẹp. Con trai mất sớm, ông truyền nghề cho cháu nội, là võ sư Hồ Sừng hiện nay. Võ sư Hồ Sừng kể: "Bao giờ thâu nhận học trò, ông cũng thử trước rồi dạy sau. Học trò ông có Mười Mỹ, Đinh Văn Tuấn, Năm Tạo, Sáu Được... đều đã có danh có tiếng, trong xã thì có Lê Thành Viên, thường gọi Ba Hào, và Lê Bá Cừu, tức Sáu Dật. Mà yêu cầu của ông với học trò, kể cả con cháu trong nhà cũng vậy, cao lắm".
Năm nay đã 90 tuổi, võ sư Lê Thành Phiên (làng Đại Chí, xã Tây An) vẫn minh mẫn. Ký ức ông vẫn vẹn nguyên hình ảnh người thầy vóc người cao to, dạy học trò rất nghiêm: "Thầy dạy ngày ba buổi. Thầy dạy kỹ, nhưng trò phải tập cho tinh. Nhờ vậy nên tui học kể ra thì cũng hổng nhiều, đâu có 18 tháng, nhưng cũng được truyền dạy cơ bản". Lão võ sư có vẻ hơi buồn, chẳng là vài năm gần đây, tuổi cao, nên giỗ tổ chẳng thể lên nhà thầy.
* Đến đường roi bí truyền
Roi là một loại binh khí tiêu biểu của võ Bình Định. Roi làm bằng gỗ dẻo, mây già hoặc tre đặc, to nhỏ tùy theo bàn tay người sử dụng lớn, nhỏ. Nhiều võ đường ở Bình Định rất giỏi về roi như: Lâm Ngọc Phú, Bửu Thắng (An Nhơn); Hà Trọng Sơn, Phi Long Vịnh và phái võ ở chùa Long Phước (Tuy Phước); Phan Thọ (Tây Sơn)…
Người thầy dạy của võ sư Hồ Nhu là Hồ Khiêm với đường roi "lạc côn", cũng là một đường roi tuyệt kỹ. Rồi các đường roi như: "đâm so đũa", "roi đánh nghịch", "đá văng roi", "phá vây", "roi chiến"… đều là những bảo vật bí truyền của võ Bình Định.
ột bài roi gồm hai phần: lời thiệu và động tác. Lời thiệu thường là thể thơ, ca dao dân gian… Động tác là các đòn thế tấn công và phòng thủ theo các phách cơ bản như: bát, bắt, triệt, chận (nặng về thủ để triệt phá các đòn tấn công của đối phương); hoành, khắc, lắc, tém (vừa thủ vừa công). Thủ ở đây không có nghĩa thụ động, mà phải dùng các phách hợp lý để triệt tiêu đòn tấn công đối phương rồi ra đòn tiêu diệt đối phương. Hay có thể giả vờ trá bại, dụ đối phương vào thế. Có lúc phải dùng trừ công để thủ tức là khi đã trừ được các đòn tấn công của đối phương, phải thủ cho kín chặt, không cho đối phương ra đòn tấn công tiếp, rồi phán đoán nhanh xem đối phương phản ứng để có đối sách...
Mỗi môn phái ở Bình Định có các đòn roi bí truyền nhưng đường roi Thuận Truyền vang danh nhất. Cái bí truyền của những đường roi đã đi vào những câu chuyện truyền tụng, thật - hư lẫn lộn...( S/T )Lần sửa cuối bởi tranbinh, ngày 14-09-2011 lúc 10:08 AM.
-
14-09-2011, 10:57 AM #3
Vịnh Xuân Quyền: Kiềm Dương Tấn
Kiềm dương tấn, còn gọi là Kiềm dương mã tự, Nhị tự kiềm dương mã là một thế tấn đặc thù của Vịnh Xuân Quyền, bao gồm hai dạng thức là chính thân kiềm dương và trắc thân kiềm dương.
Trong Vịnh Xuân Quyền, tấn pháp được áp dụng thường xuyên nguyên lý chiều cao của tấn tỷ lệ nghịch với độ vững trãi và tỷ lệ thuận với độ linh hoạt, theo đó tấn pháp càng thấp cơ thể càng vững nhưng tính linh hoạt lại giảm. Kiềm dương mã tự cũng không phải là ngoại lệ, việc tập luyện tấn pháp này không nhấn mạnh sự cố định một cao độ của người luyện tập, mà có thể linh động, kết hợp với những bài tập tấn ở nhiều cao độ khác nhau, cả ở những tư thế rất thấp tới mức cơ thể gần như ngồi trên mặt đất.
.
Tấn pháp kiềm dương, với chữ kiềm (鈐) tương đối dễ hiểu là “kìm”, “kẹp”, “giữ”. Nhưng chữ dương có vài cách hiểu khác nhau: “dương” (羊) với nghĩa là con dê, khi đó tấn sẽ được hiểu là thế “kẹp dê”, “giữ dê”. Theo huyền sử thì Ngũ Mai sư thái đã cho nàng Nghiêm Vịnh Xuân tập chăn dê và tắm cho các con dê bằng cách dùng hai chân kẹp chặt đầu và cổ con vật, từ đó sẽ rèn luyện được nội lực và tấn pháp trước khi bước vào tập võ (bộ phim Vịnh Xuân Quyền do các diễn viên Tạ Đình Phong, Hồng Kim Bảo và Nguyên Bưu đóng, diễn tả ý nghĩa này). Tuy nhiên, theo cách hiểu khác với chữ “dương” (陽) chỉ “mặt trời”, “dương tính”, “dương khí”, “đàn ông”, “bộ phận sinh dục của giống đực”, kiềm dương tấn là thế tấn duy nhất ở chính diện có đủ kín đáo, do đầu gối hơi khép vào trong và có thể nhanh chóng kẹp chặt hai đùi, để thủ thế và bảo vệ vững chắc trước những đòn tấn công vào hạ bộ, ít nhiều linh hoạt và hiệu quả hơn hẳn trung bình tấn. Đi xa hơn trong suy luận, một số người cho rằng kiềm dương ở đây nhằm mục đích luyện khí, mà luyện khí chủ yếu phải kiềm dương (tiết dục).
Chính thân kiềm dương
Chính thân kiềm dương còn được gọi là Chính thân kiềm dương mã tự, Nhị tự kiềm dương mã, tư thế gần giống với tấn chuẩn bị (lập tấn) của các môn sinh Taekwondo, Karatedo với khoảng cách hai gót chân đều vừa mức với chiều cao và bề ngang của người tập, thường bằng vai hoặc hơi lớn hơn một chút, hai bàn chân gần song song hình chữ nhị (二) với mũi chân hơi hướng vào trong. Hạ thấp trọng tâm và hơi bẻ cong chân vào để hai đầu gối có một khoảng cách tương đối nhỏ, bằng khoảng nắm tay của người tập. Cơ thể người tập hơi ngửa ra phía sau để giữ cho gót chân, cột sống và đầu được thẳng.
Do hai mũi bàn chân với ngón cái hơi xoay khép lại thành hình chữ bát (八), thế tấn này còn có thể được gọi là Bát tự kiềm dương (kiềm dương hình chữ bát). Nếu kéo dài chữ “bát” người tập sẽ có một tam giác. Ở đây có những nguyên tắc để xác định góc tạo thành đó là góc nhọn hay góc tù. Đưa chân người tập ra theo trục thẳng trước mặt cho đến khi chân nằm ngang và lấy điểm vuông góc với gót chân là đỉnh của tam giác.
Cần đứng đúng cách để để hai chân hướng vào đỉnh này.
Trong phần lớn các bài tập tại chỗ của Vịnh Xuân thường dùng chính thân kiềm dương, đặc biệt là sáo lộ đầu tiên Tiểu niêm đầu chỉ sử dụng duy nhất một thế tấn này. Tuy nhiên, trong thực tế chiến đấu ít khi môn sinh sử dụng thế tấn này mà nó thường được phản ứng nhanh sang thế tấn trắc thân kiềm dương, với dụng ý dẫn đòn của đối phương vào khoảng không và phản đòn theo nguyên lý “tá lực đả lực” (mượn sức đánh sức )
.
Trắc thân kiềm dương
Với ý nghĩa của chữ Trắc (側) là “mặt bên”, “bên cạnh”, “nghiêng” phản ánh đúng bản chất của thế tấn. Khi đứng ở chính thân kiềm dương, người tập xoay đều hai chân và thân sang một phía sao cho hai mũi chân song song hướng về phía chéo góc khoảng 45 độ, người tập sẽ chuyển sang thế tấn trắc thân kiềm dương. Thế tấn này ít nhiều giống trảo mã tấn của một số môn phái, nhưng không hướng các mũi bàn chân thẳng phía trước và cũng không nhón gót. Hai đầu gối khép vào nhau với khoảng cách giữa chúng vẫn được giữ như ở chính thân kiềm dương. Trọng lượng cơ thể dồn khoảng 70% lên chân sau và khoảng 30% ở chân trước. Khi hạ thấp tấn hơn, người tập cần duỗi chân trước ra phía trước với khoảng cách dài hơn
Môn phái Vịnh Xuân khởi phát từ miền Nam Trung Hoa, nơi mọi người thường dùng thuyền như một phương tiện vận chuyển chính, cho nên, các võ sư sáng tổ của Vịnh Xuân Quyền như Đại Hoa Diện Cẩm và các môn đồ của Hồng thuyền hội quán đã tập võ chủ yếu trên thuyền, nơi yêu cầu giữ thăng bằng trở thành cốt tử. Thế tấn chính thân kiềm dương và trắc thân kiềm dương được coi là phương cách tối ưu để giữ thăng bằng.
Chính thân kiềm dương tấn là thế tấn quan trọng bậc nhất của Vịnh Xuân Quyền, đi kèm với sáo lộ Tiểu niệm đầu như cơ bản công và cơ bản kỹ thuật, nó giúp người tập luyện ngay từ những ngày đầu tiên đến với môn phái đã luyện gân chân, làm lỏng và mạnh các khớp, tạo một chân đế vững chắc như mọc rễ vào đất để phục vụ tối đa cho sự thả lỏng phần trên (từ hông lên trở lên) theo nguyên tắc “thượng hư, hạ thực“. Tuy tấn nhấn mạnh vào yêu cầu trụ vững nên buộc phải giảm sự linh động, ít nhiều có thể cản trở cho sự phát huy lực từ trung tâm phát lực (hông eo), nhưng không cản trở đường vận hành của khí xuống chân, và vì vậy không làm giảm đáng kể lực thông xuống chân khi tập tấn tĩnh. Đầu gối cong vào cũng là một cách tiết kiệm sức lực tối đa khi chân giữ trọng lượng cơ thể của người tập. Bởi vậy, chính thân kiềm dương nếu được tập đúng, sau những khó khăn ban đầu, người tập ngày càng có được sự linh hoạt đặc biệt, có thể đá bất kỳ lúc nào mà không cần chuẩn bị, và cú đá sẽ có toàn bộ sức của thân thể khi tấn công vào trung điểm của địch thủ. Thế tấn này cũng được dùng để thủ một cách hữu hiệu.
Trắc thân kiềm dương là thế tấn linh hoạt hơn Chính thân kiềm dương, rất thuận lợi cho tấn công thần tốc mà vẫn có thể phòng thủ kín đáo, vì vậy, trong Vịnh Xuân Quyền thế tấn này được ứng dụng chủ yếu khi thực chiến
S/T )
Lần sửa cuối bởi tranbinh, ngày 14-09-2011 lúc 11:27 AM.
-
14-09-2011, 11:06 AM #4
-Không biết Vịnh Xuân Quyền có tất cả bao nhiêu bài quyền nhỉ,mình không học võ nhưng vẫn thường xuyên tập luyện môn "ù té quyền " hihihi,trình độ ở mức khá đấy 100m/12,5s
-
14-09-2011, 11:44 AM #5
Học võ gì thì võ riêng cái kế thứ 36 mà không tập thì thà đừng học võ.Nó to hơn mình=> mình chạy, nó gấu hơn mình=> mình chạy, nó khỏe hơn mình=> mình chạy....cho nên theo em Bác Hao nam dong cần gì tập nhiều, nội cái món 100m/12,5s của Bác cũng đủ hạ gục ối cao thủ rồi...Dưng mà em hỏi nhỏ chút đấy là sức chạy của Bác ngày xưa phải không ạ? chứ em nghĩ sức Bác bây giờ tốn nhiều cho chị nhà rồi liệu còn xung như xưa không
-
14-09-2011, 11:59 AM #6
-
14-09-2011, 12:10 PM #7
Trượng Phu Quyền (ST)
La-Phù Sơn nằm giữa Quảng-Châu và Huệ-Châu. Trước thời nhà Ðường, vùng này thuộc đất Giao-Chỉ. Tương truyền tại La-Phù nửa đêm có thể nhìn thấy mặt trời. Núi có hai lầu đá, chùa Diên-Tường ở lầu Nam; động Chu-Minh ở phía sau Xung-Hư quán, được coi là động thứ bảy của cõi Bồng-Lai. Sau quán Xung-Hư có đàn Triều-Ðẩu (đàn ngắm sao) của Chu-Minh Chân-nhân. Vùng này nghe đồn có nhiều đan sa, nên Cát-Hồng tự Bảo-Phác-tử đời Ðông Tấn thích phép Ðạo-dẫn của thần tiên, đã đưa gia đình về đây để luyện tiên đan, trường sinh bất tử. Ngoài ra ngọn núi này cũng là nơi xuất phát của môn phái Hồng-Gia Quyền, Huyền Công La-Phù sơn.
Từ nghìn xưa, Hồng-Gia là một môn phái đứng hàng đầu trong Thập Ðại danh gia của võ lâm Trung
uốc (Hồng, Lưu, Lý, Thái, Mạc, Phật, v.v...). Ðệ tử của giòng phái này được chia làm hai nhánh rõ rệt. Nhánh nội-gia gồm những người đã quyết-tâm rũ bỏ bụi trần, chọn con đường tu hành để tìm nguồn tịnh độ; nhánh tục-gia là hậu-duệ của những anh hùng, hào kiệt được tuyển chọn lên La-Phù, chịu sự rèn luyện, hun đúc để trở nên những bậc anh tài, văn võ kiêm toàn. Môn đệ Hồng-Gia quyền khi hành hiệp thấy việc nghĩa thì không thể không làm, nên thường được thiên hạ quý trọng đặt danh hiệu cho môn phái là "Trượng-Phu-Quyền". Vào những thế kỷ gần đây, khi quân Mãn Thanh xâm chiếm Trung-Hoa lục địa, triệt hạ nhà Minh và đặt ách cai trị khắc nghiệt trên toàn lãnh thổ, khắp nơi quần hùng nổi dậy. Với hoài bão "Phản Thanh, Phục Minh", trong cuộc trường kỳ kháng chiến, chỉ riêng Hồng-Gia đã hy sinh khá nhiều anh tài, nhân kiệt cho lý tưởng cao thượng này. Ðến đời chưởng môn thứ tư, gặp cơn đột biến, chỉ có một số ít đệ tử Hồng-Gia thoát nạn. Trong số này có môn đồ Nguyễn-Mạnh-Ðức, hiệu Nam-Hải Chân-Nhân (1), sau này trở thành chưởng môn đời thứ năm của giòng phái Huyền-Công La-Phù Sơn, và ông cũng chính là Sư-tổ sáng lập môn phái Hồng-Gia Việt-Nam.
Nam-Hải Chân-nhân thuộc giòng dõi của cụ Tam-nguyên Yên-Ðổ, một đại thần triều Nguyễn. Buổi thiếu thời mang trong người nhiều tật bệnh, nhờ cơ duyên được một vị Chân-nhân cứu tử, nhận làm dưỡng tử và đưa lên La-Phù truyền thụ võ công. Sẵn thiên khiếu, không những tinh thông thập bát ban võ nghệ ông còn am tường Dịch-học, và nắm vững toàn khâu của bộ Thái-Ất chân kinh. Khi lãnh địa La-Phù bị tàn phá bởi cơn Hồng-Thủy, để trả nghĩa sư phụ, ông đã xả thân giúp đỡ một số đông huynh đệ đào thoát qua Ðài-Loan, một số khác theo ông xuyên bộ trở về Bắc-Việt trong khi tình thế hết sức nguy kịch, khẩn trương. Ðiều này đã nói lên tinh thần tích cực, lòng đôn hậu, tính trọng nhân nghĩa của ông đối với tha nhân nói chung, và với đồng môn nói riêng, cho dù không cùng chung một huyết thống, giống nòi.Bà kia tuổi sáu mươi rồi
Mà sao vẫn phải sầu ngồi bán khoai
Cụ kia tuổi bẩy mươi hai
Mà sao ong bướm mệt nhoài chán chê…
-
14-09-2011, 12:11 PM #8
Thời gian này, đất nước Việt-Nam hoàn toàn bị thống trị, dầy xéo bởi thực dân Pháp và bè lũ tay sai, tham quan, ô lại. Triều đình thì hủ bại, lây bệnh giáo điều của Tống-Nho, giới trí thức tân học bị ru ngủ bởi bả vinh hoa, phú quý, nên chỉ nghĩ đến việc hưởng thụ quên mất hận vong quốc, khiến tinh thần nhân dân ly tán, sinh lực dân tộc ngày càng kiệt quệ. Thảm hại hơn nữa, chính quyền thực dân còn có cả những chính sách cai trị cực kỳ thâm hiểm. Họ chủ trương đầu độc, làm sa đọa thanh thiếu niên Việt-Nam, đồng thời hủ hóa và bóc lột giới trung lưu, là thành phần có học, tương đối lãnh đạo được nông, công nhân. Tất cả những thủ đoạn trên đây không ngoài mục đích làm suy yếu, hủy diệt tiềm năng tranh đấu, ý chí quật cường, truyền thống cách mạng của dân tộc.
Trong một bối cảnh lịch sử nhiễu nhương, Nam-Hải Chân-nhân, đường đường Chưởng-môn đời thứ năm của một danh phái đã phụng mệnh sư phụ trở về quê mẹ, mang theo những tinh hoa Võ học, Dịch học, Y học của tiền nhân ưu ái trao lại cho người nước Nam. Là bậc võ công cái thế, văn võ song toàn, nhưng chỉ riêng tâm tư đầy ắp tình dân tộc của ông đã đủ là một hấp lực lôi cuốn thanh niên, nam nữ gia nhập Hồng-Gia Việt-Nam trong giai đoạn này. Giai đoạn đất nước qua phân, trật tự xã hội đảo lộn, luân thường, đạo lý trên đà suy thoái. Sự xuất hiện của Hồng-Gia Việt-Nam đã khiến nhiều người kinh ngạc, bàng hoàng và thán phục! Không hẳn vì những chiêu thức "Ma vân thủ" biến ảo khôn lường, chưa phải ở phần nội lực sung mãn của những "Thiết bố sam" hoặc "Kim chung cháo", hay ở bộ pháp linh hoạt, đầy địa sát khí của 108 thế "Ðịa đường tấn". Nhưng chính ở những tâm pháp "Xả kỷ tùng nhân", "Tiên ưu, hậu lạc", "Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín", tuy là những sắc thái đặc thù của Nho học, nhưng khi được ông phát huy theo không gian, thời gian của giòng Việt-nho đã đánh động, chinh phục nhân tâm đang hoài vọng chạy theo những trào lưu Âu, Á. Trong khi đó tại non sông nhà cả một kho tàng văn hóa hiển lộng đã khiến văn học giới Tây phương không khỏi ngỡ ngàng, sửng sốt khi vừa chạm đến.
Khi chuyên cần luyện tập nội công và quyền pháp của Hồng-Gia, chúng ta sẽ nhận ra những nét thuận nghịch của Âm Dương, khám phá được sức vận chuyển âm thầm nhưng tinh tế của ngũ hành. Hoặc đi xa hơn nữa qua Ðạo-Ðức kinh, ta lại bắt gặp ẩn tàng những tuyệt kỹ võ công mà tiền nhân đã có ý gởi gấm, trao lại cho hậu thế. Ngoài những quan niệm khá phổ thông như dùng hình ảnh "nước mềm mà làm mòn đá cứng" để ám chỉ việc lấy nhu nhược thắng cương cường, hoặc "không họa nào lớn hơn bằng khinh địch" nhắc nhở ta luôn cẩn trọng trước đối thủ. Còn có những ẩn dụ tinh diệu như "ba chục căm xe kết lại thành bánh xe, nhưng phải có chỗ hổng ở giữa bánh xe mới quay được" ngụ ý muốn nói cái chỗ không có gì cũng có cái công dụng của nó, tức quan niệm hư vô của Vô-Cực công , hay trong chương 66 "nước từ trăm nguồn đều chảy về biển, vì lẽ biển thấp hơn" hồ như muốn gợi ý cho chúng ta nên có tinh thần khiêm hạ, nhún nhường thì người khác mới tìm đến mình. Chợt đến khi áp dụng vào tấn pháp lại đạt đến trạng thái cực tĩnh để quán thông được nhất cử, nhất động của đối phương. Ðây chính là cái tĩnh của những bậc thánh hiền khi tâm tư đã lắng đọng để giao hòa cùng thiên nhiên, vạn vật.Bà kia tuổi sáu mươi rồi
Mà sao vẫn phải sầu ngồi bán khoai
Cụ kia tuổi bẩy mươi hai
Mà sao ong bướm mệt nhoài chán chê…
-
14-09-2011, 12:37 PM #9
-Bây già rồi,công lực suy giảm không biết riêng môn thứ 36 này mất bao lâu nữa,chắc là dùng vẫn tàm tạm.
-
14-09-2011, 02:06 PM #10
Võ thuật




Trả lời kèm Trích dẫn


Đánh dấu