Kết quả 1 đến 10 của 148
Chủ đề: Võ thuật
Threaded View
-
13-09-2011, 08:20 AM #11
VÔ CỰC LUẬN
Chưởng Môn
Lý Hồng Thái
Tặng bác kymoc ,người lầu thông tám quẻ
Kinh Dịch gồm 64 quẻ hay 64 mô thức tiêu biểu diễn tả tất cả hiện tượng, trạng thái tinh thần lẫn vật chất của mọi sự vật trên thế gian trong tiến trình sinh hóa của chúng. Từ những vật thật nhỏ như cấu trúc các hạt nguyên tử, 64 (DNA-), cho đến các vũ trụ, thái dương hệ, hố đen (black hole), cũng như những giai đoạn thăng trầm hưng thịnh của một đời người, một tổ chức, một quốc gia, 64 quẻ Dịch còn là 64 Ðạo hướng dẫn cách thức tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, trên đủ mọi lãnh vực: kinh tế, văn hóa, khoa học, chính trị, quân sự, y học,...
Nói một cách vắn tắt, 64 quẻ Dịch bao hàm tất cả các định luật của vũ trụ chi phối vạn vật. Như vậy thì 64 quẻ Dịch từ đâu mà ra? Ta truy về gốc của nó qua những câu vấn đáp sau:
-64 quẻ Dịch gốc ở đâu?... 64 quẻ Dịch gốc ở Bát Quái.
-Bát Quái gốc ở đâu?... Bát Quái gốc ở Tứ Tượng/Ngũ Hành.
-Tứ Tượng/Ngũ Hành gốc ở đâu?... Tứ Tượng/Ngũ Hành gốc ở Lưỡng Nghi (Âm,Dương).
-Lưỡng Nghi gốc ở đâu?... Lưỡng Nghi gốc ở Thái Cực.
-Thái Cực gốc ở đâu?... Thái Cực gốc ở Vô Cực.
"Cực" nghĩa là tận cùng, "Vô" nghĩa là không, "Vô Cực" nghĩa đen là không có sự giới hạn, tận cùng. Ðã nói Vô Cực là không có sự giới hạn thì không thể định nghĩa nó được. Tuy vậy, theo Tiên gia, ta có thể miễn cưỡng miêu tả Vô Cực như sau: Vô Cực chính là Ðạo, nó hằng có, vô thuỷ vô chung, trống rỗng, tịch lặng, không hình không tướng, một khối mờ mịt, hỗn độn, đặc biệt là nó đơn giản vô cùng, vượt ra ngoài cả sự nghĩ bàn của lý trí. Và mọi vật, tuy thiên hình vạn trạng, cũng đều cũng đều từ gốc Vô Cực mà ra.
Bể võ học mênh mông, môn phái như rừng, bài bản vô số; hành giả có khổ luyện hay góp nhặt đến mãn đời cũng không thể học hết, trong khi tâm trạng vẫn thấy thiếu thốn không đủ. Mang tiếng là võ sĩ, khi lâm trận vẫn không tránh được tình trạng phân tâm loạn trí, bao nhiêu bài bản chiêu thức không sữ dụng được, rốt cuộc lại xông vào đánh đấm túi bụi như những kẻ mới tập võ, không giải quyết được trận đấu. Bậc trí giả không thể không suy tư về vấn đề này.
Khi ở ngọn cành lá với muôn hình dạng phức tạp dễ làm ta hoang mang rối trí. Nhưng ở gốc thì chỉ có một, mọi thứ trở nên đơn giản, đồng thời nắm được gốc tức là nắm được ngọn, nắm được vạn vật. Bởi vậy môn Vô Cực Công đề xướng một giải pháp là đi lùi về gốc, về Vô Cực. Trở về gốc hay quy nguyên, tức tìm về căn nguyên cội nguồn của ta cũng như của vũ trụ, hầu nắm lấy nguyên lý của bản thể, để dù có ở đâu chăng nữa cũng sẽ không bị bối rối lung lạc. Chẳng những vậy, khi cầm chìa khóa Vô Cực trong tay, ta sẽ khai mở được nét đặc thù của bất cứ môn phái nào.
Các môn võ học ở cấp 'trung học' giảng dạy cho ta một kiến thức tổng quát về Bát Quái, Tứ Tượng, Ngũ Hành, để chuẩn bị cho ta vào 'đại học'. Bát Quái (Càn, Ðoài, Ly, Chấn, Tốn, Khãm, Cấn, Khôn) là tám lực căn bản trong vũ trụ, còn gọi là tám hướng, hay tám cửa. Ta sẽ có khái niệm về sự động biến của đối phương từ quẻ nào sang quẻ nào, cũng như ta nên động qua quẻ nào,...về các cửa để biết mình đang ở đâu, cửa nào đang mở cho mình đi, dồn đối phương vào các cửa nào,...vv...Tứ Tượng (Thái Dương, Thiếu Âm, Thái Âm,Thiếu Dương) giúp ta hiểu thế nào là cương nhu lưỡng hợp - trong Dương có Âm, trong Âm có Dương. Thí dụ ta trụ tấn thao diển chiêu thức, từ eo trở xuống thì tịnh (Thái Âm) nhưng lại xiết cứng (Thiếu Dương), trong khi phần trên lại động (Thái Dương) nhưng lõng mềm (Thiếu Âm). Ngũ Hành (Long/Kim, Xà/Thủy, Hổ/Thổ, Báo/Mộc, Hạc/Hỏa) phân tích sở trường của mỗi hành, sự sinh khắc biến hóa của chúng ta ra sao, hành nào đang vượng, trị nó ra sao, v.v...
Lớp Thái Cực ở trình độ 'đại học' nhấn mạnh đến nguyên lý Âm Dương, cùng với nguyên tắc "xả kỹ tùng nhân" (bỏ mình theo người) mà hòa nhập với đối phương. Thí dụ địch tiến thì ta lùi, địch lùi thì ta tiến; nghe nặng bên phải thì ta nhả bên phải, nghe nặng bên trái thì ta nhả bên trái...Ta học thêm các yếu quyết về cách thức xử dụng châu thân, sự động tịnh, tâm thân khí kình thần,v.v...
Thái Cực và Âm Dương (Lưỡng Nghi) dễ bị lẫn lộn với nhau. Thái Cực không phải là Âm Dương, mà nó là mẹ của Âm Dương. Nhưng môn Thái Cực chú trọng ở Âm Dương với mục đích trang bị cho ta sự hiểu biết rốt ráo về cõi nhị nguyên. Và Âm Dương ở mức cùng tột của nó chính là Thái Cực, điểm giao tiếp với Vô Cực. Trên lý thuyết, Thái Cực và Vô Cực cách nhau chỉ khoãng đường tơ kẽ tóc.
Hành giả cần hội đủ Cương Nhu Dũng Trí Tịnh trên đường hành võ đạo. Song ít ai có thể tận dụng toàn bộ cả năm đức trên. Thông thường ta bị vướng mắc trong Cương và nhất là Trí. Mặc dù lý trí là người bạn đắc lực dẫn ta đi một quảng đường dài đến Thái Cực, nhưng rồi chính nó lại là chướng ngại vật cản trở bước tiến của ta ở giai đoạn cuối cùng.
Hai lực Âm Dương luôn luôn trồi xụt hoán chuyển gây sự đối đãi ảnh hưởng đến lý trí nên tâm ta sinh phân biệt. Vì tâm sinh phân biệt nên ta chấp vào ngã (cái tôi), trụ vào pháp. Có cái tôi xen vào nên tâm sinh vọng động. Do tâm vọng động nên sự vật ta cảm nhận đều bị bóp méo, cũng như mặt hồ gợn sóng làm ta không thể thấy rõ đáy hồ, cho nên mọi quyết định dựa trên lý trí sẽ dễ bị sai lạc. Hiểu rõ nhược điểm này, một cách mà đối phương có thể khai thác là lừa cho lý trí ta tính toán, khóa vào một mục tiêu nào đó, gây ra các điểm mù để hắn đánh vào. Một khuyết điểm nữa là sự tính toán chậm chạp của trí não. Trong lúc giao thủ, chỉ trong khoảnh khắc là bao biến chuyển đã có thể xảy ra mà nó không thể tính toán kịp, lúc đó bài bản chiêu thức có hay, có nhiều cũng vô ích.
Tâm động nên ta cảm thấy bất an, vì vậy lý trí góp nhặt cả vật chất lẫn kiến thức để cảm thấy được an ổn. Nhưng không khác gì trường hợp các học giả, số kiến thức họ tích lũy để dựa vào sẽ là cái khuôn giam cứng họ lại. Vả lại tâm đã bất an mà lại đi ôm đồm nhiều thêm, ta sẽ càng bị hoang mang rối loạn. Lão Tử đã vạch rõ lổi lầm này qua câu "càng học càng đi xa Ðạo"[một]. Vậy muốn cho tâm phẳng lặng không vọng động ta phải vượt lên trên Âm Dương, gạt bỏ lý trí ra ngoài, và dẹp luôn cả mớ kiến thức đã thâu lượm bấy lâu nay.
Lớp Thái Cực chỉ nhấn mạnh đến Âm Dương mà không đả động gì đến Bát Quái, Ngũ Hành. Như vậy môn Thái Cực đã lược giãn nhiều thứ rườm rà và bắt đầu hướng chúng ta về gốc, về Vô Cực. Lên đến lớp Vô Cực này là trình độ 'Tiến Sĩ', những gì ta đã học qua đều phải quên bỏ. Quên bỏ hết để trở về gốc tức là đơn giản dần cho tới khi trống rỗng, tịch lặng, không còn gì vướng bận, không còn trụ vào đâu nữa, "giãm thiểu rồi lại giãm thiểu cho đến chổ vô vi". Trở về với Vô Cực Ðạo là đi ngược với lẽ thông thường, thay vì tích trử, ta xã bỏ.Bà kia tuổi sáu mươi rồi
Mà sao vẫn phải sầu ngồi bán khoai
Cụ kia tuổi bẩy mươi hai
Mà sao ong bướm mệt nhoài chán chê…
Võ thuật



Trả lời kèm Trích dẫn


Đánh dấu