Văn hoá Pháp về ăn chơi là nhất ông Gió nhưng tính cách sâu xa phải nói là tụi Anh .Ông thấy các quốc gia thuộc địa của Pháp khi độc lập rồi có được thừa hưởng gì từ nền văn minh đâu ,toàn ăn chơi là giỏi .Ngược lại thuộc địa của Anh đều có một nền pháp trị tân tiến như Hong Kong ,Ân Độ xem ra tính nhân bản họ cao hơn nhiều .Văn hoá Pháp có một thời rực rỡ nhưng bây giờ ông coi ,phim ai thèm xem ,truyện ai thèm đọc ,nhạc ai nghe .Chê Mỹ bần cố nông nhưng cả 100 năm nữa cũng chưa chắc theo kịp về mọi mặt .Qua Paris tôi thấy sức sống rất yếu ớt như anh nhà giầu ngồi bán đồ đi xài dần .Ham chơi quá đàn ông mới 55 tuổi là hưu rồi .Ham chơi vậy nhưng dễ gì sinh ra một giọng hát như thế này .Chúc các ông cuối tuần vui vẻ


Amy Winehouse, một ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác tài danh của Anh quốc, gốc do thái. Không những chất giọng, ngay cả thể loại âm nhạc, cách biểu diễn và vóc dáng của cô rất khác lạ. Đúng hơn, rất lập dị. Loại nhạc được cô trình bày là một tấu khúc tập hợp những khuynh hướng âm nhạc với nhiều giai điệu da đen (soul music), một chút jazz phá cách, một chút hip-hop tươi tắn, một chút âm hưởng Jamaica sống động (reggae music) và một chút Rock trẻ trung. Khi trình diễn trên sân khấu, Amy Winehouse tô mắt đen đậm như một phụ nữ Ai cập cổ và đánh tóc rối tổ ong, beehive hairstyle, kiểu tóc đặc thù Amy Winehouse, tay và ngực lộ trần vài hình sâm, trông rất phóng túng. Cách biểu diễn của cô đôi khi ngập ngừng, loạng choạng, gây cảm tưởng như cô vừa nhắp môi quá đà, hoặc vừa lơ mơ xong một liều ma tuý.

Nhưng vừa khi nhạc trổi lên, Amy Winehouse như kẻ lên đồng, nhún nhảy nhập lấy âm thanh. Cô xuất thần, cất giọng khàn nhựa, lẳng lơ ôm siết giai điệu. Âm giọng của cô nghe trúc trắc, cách phát âm như không chuẩn, như người say men nhạc. Vì vậy, thính giả dễ dàng nhận ra một bản-sắc-rất-amy-winehouse, không lầm lẫn với ai khác. Âm nhạc của Amy Winehouse là những nhịp điệu nổi loạn. Tiếng hát Amy Winehouse là những lời thách đố, những bản tuyên ngôn cách mạng âm thanh, cưỡng lại khuôn sáo của giai điệu kinh điển. Thế giới âm nhạc của cô là những mảng tiếng động trừu tượng, say nghiện, phá phách, xô ra một không gian gai góc, đầy bất trắc. Ngôn ngữ trong những ca khúc của Winehouse là một quyển bách khoa hip-hop, nhiều tiếng lóng và ý nghĩa biểu tượng.

Kiểu trang phục, trang điểm và phong cách biểu diễn của Amy Winehouse có thể được giải thích như sau: một, để được nổi bật giữa vô số tài năng mới; hai, để sáng tạo một khuynh hướng âm nhạc lạ; ba, để khiêu khích những đầu óc bảo thủ. Dẫu gì đi nữa, cô đã gây được tiếng vang lớn trong thị trường âm nhạc phổ thông quốc tế và chinh phục được một số thính giả ái mộ không ít.


Ca từ trong Rehab (viết tắt từ Rehabilitation), một trong số những ca khúc thành công của Amy Winehouse, nghe như những lời báo hiệu thiếu hạnh phúc:

«They tried to make me go to rehab
But I said no, no, no.
Yes, I’ve been black but when I come back.
You’ll know, know, know.
I ain’t got the time
And if my daddy thinks I’m fine.
Just try to make me go to rehab
But I won’t go, go, go.» [5]

Năm 2011 ban tổ chức thông báo chương trình đại lưu diễn tái ngộ thính giả ái mộ, khởi đầu vào mùa xuân xuyên qua nhiều thành phố Ba tây. Tiếp theo là chuyến lưu diễn Âu châu vào mùa hè 2011, mở màn tại Belgrade, thủ đô Serbia (thuộc Nam tư cũ). Amy Winehouse bước ra sân khấu trễ nửa tiếng, lè nhè giọng rượu. Sau đó ban tổ chức cáo lỗi, chương trình lưu diễn bị dời lại vô hạn định. Dự tính ra mắt dĩa lớn thứ ba cũng bị huỷ bỏ.

Ngày 23 tháng bảy năm 2011, thân nhân tìm thấy xác cô tại nhà riêng. Kết quả giảo nghiệm: Amy Winehouse qua đời vì ngộ độc rượu, hưởng dương 27 tuổi.

Sự nghiệp âm nhạc của Amy Winehouse vỏn vẹn hai dĩa lớn, bán được hơn 25 triệu bản. Sau khi cô qua đời, nhà sản xuất cho phát hành Lioness: Hidden Treasures (2011) gồm những ca khúc đã thâu âm, nhưng chưa được tung ra thị trường. Trong tám năm ca nhạc, Amy Winehouse nhận được 4 dĩa bạc, 30 dĩa vàng, 113 dĩa bạch kim và 2 dĩa kim cương [6] cùng nhiều giải thưởng ca nhạc khác