Kết quả 21 đến 30 của 72
Chủ đề: Kim Dung giữa đời tôi
-
28-09-2011, 09:47 AM #21
@ Congaco.
Trong các truyện hiện đại có mỗi "Đô Rê Mon" là truyện tranh thiếu nhi mà thằng bạn cùng lớp học hồi sinh viên với em mê tít. Ngày đó hôm nào đến lớp cũng thấy nó mang một cuốn.... Nó bảo đọc hay lắm..
Còn lại các truyện dài hiện đại thì em chẳng thấy ai trong lứa bạn em đọc cả."Không có phụ nữ xấu, chỉ có người không biết rằng mình rất xấu mà thôi!"
-
28-09-2011, 10:10 AM #22
Tru Tiên mấy tập đầu cũng khá hấp dẫn. Nội dung của nó đề cao tư tưởng Lão Tử, toàn bộ truyện xoay quanh câu : "Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật chi sô cẩu". Tác giả có ý đồ quá rộng lớn thông qua ý tưởng muốn thống nhất "Phật, Đạo, Ma", nhưng bế tắc. Thành ra câu truyện mở ra rộng nhưng không thắt nút được, nhất là đoạn kết. Tội nghiệp Tiêu Đỉnh
-
28-09-2011, 10:14 AM #23
Rũ áo phong sương trên gác trọ.
Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang.
-
28-09-2011, 10:15 AM #24
Các bác đã đọc qua tác phẩm của Huỳnh Dị chưa?
Rũ áo phong sương trên gác trọ.
Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang.
-
28-09-2011, 10:51 AM #25
Chắc bạn đang nói đến "Đại Đường Song Long", hay "Tầm Tần Ký" hả
. Cũng có luyện qua, cũng khá hay, nhưng nói chung, những truyện này lên phim hay hơn truyện. (tôi chỉ thích những bộ truyện nào mà xem phim rồi vẫn còn thích đọc truyện, hoặc đọc một lần rồi mà đọc lần thứ 2 vẫn còn thích
).
@ Bác Congaco_H1R5 : Hình như bác là giáo viên Toán ? - Nếu có lúc nào đó bác tự hỏi Toán học có liên quan gì với võ công không ?, thì em xin giới thiệu Bác bộ Côn Luân của Phượng Ca. Tư tưởng "Toán học - Dịch số - Trận Pháp", hoặc "Toán học - Dịch số - khinh công" đã có thấy nói đên trong Kim Dung (Hoàng Dược Sư, hay Anh Cô...), nhưng nâng tầm lên từ "Toán học - Toàn bộ võ công" thì em biết mỗi bộ này. Nói chung là lạ, "ngon, dở" còn do miệng người nếm,
-
28-09-2011, 11:17 AM #26
Em đọc Tru Tiên rồi, mê nhất Lục Tuyết Kỳ
, còn chẳng ấn tượng gì với nội dung
Điềm tĩnh trước gái xinh và không giật mình trước gái xấu
-
28-09-2011, 04:10 PM #27
PHẦN 5 : HOA TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG
Văn chương tiểu thuyết, kể cả văn chương tiểu thuyết võ hiệp, luôn có những đoạn tả cảnh. Cảnh quan thiên nhiên hiện ra trong văn chương đã trở thành một thứ quy luật tất yếu, không thể thiếu được. Vả chăng, người Trung Hoa đã quan niệm “Vạn vật đồng nhất thể” mà con người cũng là một vật trong vạn vật cho nên con người không thể tự tách mình ra khỏi thiên nhiên, ra khỏi cảnh quan và môi trường sống. Văn chương tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung cũng vậy. Con người trong tiểu thuyết của ông luôn luôn gắn liền với thiên nhiên, sống giữa thiên nhiên và hoạt động với thiên nhiên.
Nhưng vượt lên trên tất cả cung cách mô tả thiên nhiên, Kim Dung đã dành cho hoa nhiều cảm tình nhất. Hoa xuất hiện trongg 12 bộ tiểu thuyết võ hiệp của ông như là biểu tượng cho bốn mùa. Hoa tiêu biểu cho chiều sâu trí tuệ và tâm hồn của người trồng hoa và chơi hoa. Hoa là sản phẩm đặc trưng của từng vùng đất mà đất Trung Hoa vô cùng rộng lớn nên hoa cũng cực kỳ phong phú về chủng loại, đặc sắc về ngoại hình. Ở một chừng mực nào đó, ta có thể thấy Kim Dung đã thể hiện kiến thức của một nhà hoa học trong những bộ tiểu thuyết của mình.
Trong Thiên Long bát bộ, theo gót chân lãng du của vương tử Đại Lý Đoàn Dự, tác giả đưa chúng ta đi về vùng Giang Nam nước Tống. Mùa xuân về trên Thái Hồ, Giang Nam, ta bắt gặp hoa sen và hoa hồng lăng khoe sắc thắm, thoang thoảng hường đưa trong gió. Rồi tác giả đưa chúng ta về Mạn Đàn sơn trang của Vương phu nhân, thưởng thức hoa trà. Đoạn lý luận về hoa trà của Đoàn Dự có thể coi là một chương hoa học kỳ thú trong Thiên Long bát bộ.
Hoa trà - tiếng Phạn là Mạn đà la – là một loài hoa nổi tiếng được trồng phổ biến khắp vùng Vân Nam. Lúc bấy giờ, Vân Nam thuộc nước Đại Lý. Hoa trà trở thành quốc hoa của Đại Lý. Vân Nam có khí hậu ấm, mứa nhiều quanh năm, dân dã bình thường cũng biết trồng hoa trà để thưởng ngoạn. Thế nhưng,Vương phu nhân là đem hoa trà từ Vân Nam (Đại Lý) về trồng ở Giang Nam (Tống) mà lại thiếu kinh nghiệm chăm sóc khiến các gọi là Mạn đà sơn trang của phu nhân dưới mắt Đàon Dự chẳng đáng một xu. Vốn ghét tính cách tàn bạo, ngang ngược của Vương phu nhân, Đoàn Dự thẳng thừng phê phán sự dốt nát của bà khi trồng trà: “Tỷ như khóm trà hoa này chắc phu nhân cho là quý lắm? Cái lan can bên cạnh mới thực là đẹp.”. Khen như vậy khác nào khen quyển sách in đẹp mà nội dung rỗng tuếch. Những kiến thức về hoa trà của Đoàn Dự khiến Vương phu nhân vừa kinh hãi, vửa thẹn thùng. Chậu hoa mà phu nhân gọi là “Ngũ sắc trà hoa” (hoa tra năm màu) thì Đoàn Dự gọi là “Lạc đệ tú tài” (tú tài thi hỏng). Đoàn Dự cho biết loại hoa trá quý nhất là “Thập bát học sĩ” (18 vị học sĩ) gồm 18 bông, màu sắc không bông nào giống bông nào (toàn hồng, toàn trắng, toàn tía...không hỗn tạp), cùng nở một lúc và cùng tàn một giờ. Sau “Thập bát học sĩ” là “Bát tiên quá hải” (8 vị tiên qua biển) chỉ có một gốc, nở ra cùng lúc 8 bông với 8 màu khác nhau. Sau “Bát tiên quá hải” là “Thất tiên nữ” (7 tiên nữ) chỉ có một gốc nở ra 7 bông. Sau “Thất tiên nữ” là “Phong trần tam hiệp” (3 hiệp khách phong trần) chỉ có 1 gốc nở ra đúng 3 bông. Rồi “Nhị Kiều” (hai nàng họ Kiều), rồi chia hạng chánh, phó... đủ kiểu chơi.
Vương phu nhân còn khen ngợi loại trà “Mãn nguyệt” (trăng tròn). Đoàn Dự bác ngay vàlý luận đó phải là loại “Ỷ lan Kiều’ (nàng Kiều e thẹn dựa vào lan can). Trồng “Ỷ lan Kiều” phải chọn nơi nửa kín nửa hở để xứng với câu thơ:
E thẹn ôm đàn che nửa mặt
Ai kêu ai gọi cũng làm thinh.
Viết đến đâu, Kim Dung trích dẫn thơ ca đến đó:
Xuân câu thuỷ động trà hoa bạch
Hạ cốc vân sinh lệ tử hồng
(Dòng xuân nước gợn hoa trà trắng
Non hạ mây vương trái vải hồng)
Hoặc:
Thanh quần ngọc diện như tương thức
Cửu nguyệt trà hoa mãn độ khai
(Quần xanh vóc ngọc như từng gặp
Tháng chín, hoa trà rợp lối đi)
Thật sự, Trung Quốc đã từng có tác phẩm Điền trung trà hoa ký nghiên cứu về hoa trà trong đó có đoạn: “Đại Lý trà hoa tối giáp hải nội, chủng loại thất thập nhị, đại ư mẫu đơn. Nhất vọng nhược hỏa tề vân cẩm, thước nhật chưng hà.” (Hoa trà Đại Lý đứng đầu thiên hạ, gồm 72 loại khác nhau, có loại lớn hơn cả hoa mẫu đơn, khiến ta đứng xa vẫn trông đỏ rõ một góc trời như mây gấm hoà vào cho màu trắng ban mai thêm rực rỡ). Thật ít có nhà văn nào đạt được kiến thức hoa học và vận dụng kiến thức ấy - vốn thuộc phạm vi sinh học – vào văn chương một cách nhuần nhuyễn như Kim Dung.
Đúng là Kim Dung đã đưa hoa vào tác phẩm văn chương võ hiệp của mình, dùng hình ảnh tươi đẹp của hoa để chế ngự bớt tính chất căng thẳng và đôi khi tàn nhẫn của thế giới võ hiệp. Hoa là biểu tượng cho một dạng công lực thượng thừa, Kẻ luyện nội công đến mức cao siêu nhất được gọi là “Tam hoa tụ đỉnh”. Hoa được dùng để đặt tên cho các pho võ công: Niêm hoa chường, Niêm hoa chỉ của phái Thiếu Lâm; Thiên Sơn thiết mai thủ của phái Tiêu Dao; Lạc anh chưởng pháp của Đào hoa đảo. Hoa trở thành mệnh lệnh tấn công như khi bang chúng Cái bang hát bài Liên hoa lạc (cánh sen rơi) thì có nghĩa là họ kết Đã cẩu trận để chống lại kẻ địch, bao vây kẻ địch.
Hoa trở thành đòn thức, chiêu thế của người sử dụng võ công, và khi sử dụng, giới võ lâm phải thể hiện cho được yếu tính của đòn thức, chiêu thế mang tên hoa đó. Nhà sư Thổ Phồn Cưu Ma Trí khi đánh chiêu Niêm hoa vi tiếu trong Niêm hoa chỉ vẫn giữ được khuôn mặt tươi cười, tư thế ung dung của khái niệm niêm hoa (cánh hoa chưa nở). Nhà sư Hư Trúc sử dụng Thiên Sơn chiết mai thủ với phong cách nhẹ nhàng, khuôn mặt trầm tĩnh đúng như người đang bẻ cành mai trên núi Thiên Sơn mà kình lực có thể làm tan bia, vỡ đá. Phái Thiếu Lâm có chiêu Hoa khai kiến Phật (Hoa nở thấy Phật) bó buột đệ tử Thiếu Lâm chấp hai tay lên trước ngực, vừa hàm ý chào kính kẻ địch, vừa thể hiện đức từ bi của nhà Phật: đấu tranh là phải đấu chứ không muốn giết hại lẫn nhau. Ta bắt gặp trong tiểu thuyết Kim Dung những tên gọi Lạc hoa lưu thủy (hoa rụng nước trôi), Mãn thiên hoa vũ (mưa hoa đầy trời), Liên hoa phất huyệt thủ (đánh huyệt như phất hoa sen), Hồ điệp xuyên hoa (bướm len giữa khóm hoa), Thiên nữ tán hoa (tiên nữ rắc hoa)...
Hoa muôn đời là biểu tượng của người phụ nữ đẹp, là biểu tượng của cô gái trong trắng thơ ngây. Kinh Thi có câu: “Xước ước như xử nữ” (mềm mại như gái trinh) và từ “xước ước” cũng đồng thời là từ diễn tả dáng thanh lịch của ngàn hoa. Những nhân vật nữ của Kim Dung như Nhậm Doanh Doanh, Nhạc Linh San, Nghi Lâm, Lam Phượng Hoàng (Tiếu ngạo giang hồ), Hoàng Dung, Quách Tương, Tiều Long Nữ (Thần điêu hiệp lữ), Hân Tố Tố, Triệu Minh, Chu Chỉ Nhược, Tiểu Siêu (Ỷ thiên Đồ long ký)... đều có “khuôn mặt đẹp như hoa nở, nụ cười tươi như hoa nở”. Những cô gái trinh bạch, xinh đêp ấy được gọi là Hoàng hoa khuê nữ (cô gái trong phòng khuê dịu dáng như hoa cúc) nhưng lĩnh vực hoạt động của họ không phải là phòng khuê nữa mà là giới giang hồ.
Họ là hào khách võ lâm biết yêu hoa: Vương phu nhân yêu hoa trà, Mộc Uyển Thanh yêu hoa mai côi (hoa hồng) và con người cô cũng toát ra mùi hương tự nhiên của mai côi đến nỗi cô có ngoại hiệu là Hương Dược Xoa (Thiên Long bát bộ), Lăng Sương Hoa, con gái tri phủ Giang Lăng thành Lăng Thoái Tư yêu hoa cúc (Liên thành quyết).
Kẻ nào manh tâm chiếm đoạt trinh tiết người phụ nữ bị Kim Dung gọi là tên Thái hoa dâm tặc (tên dâm tặc chuyên hái hoa). Trong Tiếu ngạo giang hồ, có gã Giang dương đại đạo thái hoa dâm tặc vạn lý độc hành khoái đao Điền Bá Quang. Hắn gớm ghiếc đến nỗi phụ nữ nhà lành cũng bị cha mẹ cấm không được gọi đến tên. Nhà sư Bất Giới đã trừng trị tội dâm dật của hắn bằng cách điểm trọng huyệt, xuyên một cặp tụ tiễn (mũi tên nhỏ) vào bộ phận sinh dục để hắn không thể “hái hoa” được nữa. Ngoại hiệu của nhà sư là Bất Giới (không cấm cản chi hết) nhưng nhà sư buộc Điền Bá Quang phải cạo đầu làm sư, đặt lại ngoại hiệu cho hắn là Bất Khả Bất Giới (không thể không cấm). Cách trừng trị kinh khủng như vậy là nhằm bảo vệ những đời hoa!
Hoa là biểu tượng của tình yêu lứa đôi, và đặc biệt trong võ hiệp tiểu thuyết của Kim Dung, là biểu tượng của tình yêu chung thuỷ. Thời đôi mươi, Vương phu nhân say mê Đoàn Chính Thuần, thất thân với y và sinh ra Vương Ngọc Yến. Đoàn Chính Thuần là hoàng thái đệ của Đoàn Chính Minh, vua Đại Lý; không thể cưới được Vương phu nhân. Tương tư tình lang, Vương phu nhân đem trà Đại Lý về trồng tại Giang Nam, lập nên cái gọi là Mạng đà sơn trang (Thiên Long bát bộ). Còn trong Liên thành quyết, Kim Dung đã thực sự tạo cho hoa cúc một tâm hồn riêng khi ông xây dựng mối tình Đinh Điển – Lăng Sương Hoa.
Đinh Điển luyện thành thần công Thần chiếu kinh, chỉ cần vươn tay ra chộp một cái là kẻ thù phải chết. Anh yêu tiểu thư Lăng Sương Hoa, con gái tri phủ Lăng Thoái Tư thành Giang Lăng, nên ẩn thân vào nhà tù thành Giang Lăng để ngày ngày được ngắm màu hoa cúc vàng trên cửa sổ do chính Lăng Sương Hoa chăm sóc. Lăng Sương Hoa ra sức chăm bón hoa, giữ cho hoa tươi mãi để tạ lòng người yêu. Tình yêu lặng lẽ giữa người tù và cô tiểu thư diễn ra thật nên thơ những cũng rất mạnh mẽ. Tri phủ Lăng Thoái Tư biết được điều đó; lão cố tìm mọi cách để giết Đinh Điển để chiếm đoạt bộ Liên thành quyết - một bí lục mô tả đường đi nước bước của mộ kho báu trị giá liên thành. Lão bức tử con gái, đặt cô vào quan tài rồi tẩm thuốc độc lên vỏ quan tài, chờ Đinh Điển sa bẫy. Quản nhiên một hôm Đinh Điển nhận ra rằng chậu hoa cúc trên cửa sổ của người tình đã héo úa. biết rằng Lăng Sương Hoa đã gặp điều gì đó chẳng lành, Đinh Điển vượt ngụ, thâm nhập vào tư dinh Lăng Thoái Tu. Thấy tấm bài vị đề “Lăng Sương Hoa ái nữ chi linh vị” trên nắp quan tài, anh đau xót ông lấy quan tài khóc rống lên và lập tức bị trúng độc. Đinh Điển chết, dặn dò lại nghĩa đệ là Địch Vân phải hợp táng xương cốt của anh và Lăng Sương Hoa chung một nơi.
Lăng Sương Hoa được chôn trong nghĩa địa phía tây thành Giang Lăng còn Đinh Điển thì chết ở vùng Quan ngoại. Cuối truyện, chàng Địch Vân mang bọc xương cốt của nghĩa huynh Đinh Điển từ ngàn dặm trở lại Giang Lăng, đào mả Lăng Sương Hoa và hợp táng hai người. Anh còn mua hoa cúc, cuốc đất chung quanh mộ rồi trồng cho hai người mấy cụm với ước mong hương hồn họ nhìn thấy bóng hoa và được sống lại với tình yêu cũ. Liên thành quyết có cái buồn và chất thơ lãng mạn xuyên suốt toát ra từ bóng hoa cúc vàng - mối tình của Đinh Điển và Lăng Sương Hoa.
Người yêu hoa thì rất quý hoa, xem hoa như là bạn; còn kẻ ghét hoa thì rất giận hoa, xem hoa là thù địch. Đó là trường hợp của Vi Tiểu bào, một tiểu lưu manh bất học vô thuật, may mắn trở thành quan lớn triều Khang Hy (Lộc Đỉnh ký). Vua Khang Hy ra lệnh cho Vi Tiểu Bảo làm khâm sai đại thần, trở về quê quán thành Dương Châu xây dựng toà Trung liệt từ. Nghe đồn Vi Tiểu Bảo là một thiếu niên, tưởng gã là người có tài văn học, các quan ở Dương Châu bèn mời gã vào uống rượu ngâm thơ trong chùa Thiền Trí. Mùa ấy, hoa thược dược đang nở mà thược dược ở Dương Châu và chùa Thiền Trí là thứ hoa tươi đẹp nhất thiên hạ. Nhìn thấy thược dược tươi hơn hớn, Vi Tiểu Bảo tức muốn sôi gan. Nguyên lai, lúc mới lên chín mười tuổi, gã đã từng cùng bọn tiểu lưu manh thành Dương Châu đột nhập chùa Thiền Trí hái trộm hoa thược dược. Một nhà sư nào đó đã rượt cả bọn chạy, Vi Tiểu bảo nhỏ con, chạy chậm bị nhà sư nắm áo éo lại, tát cho một cái. “Mối thù” ấy âm ỉ mãi trong lòng gã nên khi quay về Dương Châu, thấy lại thược dược đại đóa nở phô hồng khoe tía trong chùa Thiền Trí là gã nổi nóng.
Gã đặt chuyện nói rằng vua Khang Hy đang nuôi bầy ngựa chiến và ra lệnh cho gã chặt hết thược dược trong thiên hạ để làm thức ăn cho ngựa. Nghe câu nói đó, bá quan văn võ Dương Châu và các nhà sư chùa Thiền Trí đều vỡ mật kinh tâm. Mây mắn là viên tuần phủ Dương Châu học rộng biết nhiều. Viên tuần phủ phải nịnh Vi Tiểu Bảo rằng thược duợc là tượng trưng cho người đàn ông thành đạt, công danh hiển hách; rằng Vi Tiểu Bảo về Dương Châu đúng mùa thược dược mãi khai là điều tốt lành, ngày sau ắt thăng quan tiến chức cao sang không biết bao nhiêu mà lường. Cho nên việc chặt hoa thược dược cho ngựa ăn là chuyện rất uổng. Viên tuần phủ còn ngắt một đóa hoa thược dược kình cẩn gài lên mũ của Khâm sai đại thần và chúc phúc. Quả nhiên lời nói khôn khéo đó của viên tuần phủ đã làm nguôi cơn giận của Vi Tiểu Bảo, cứu được ngàn hoa của chùan Thiền Trí và thành Dương Châu.
Kiến thức về hoa của Kim Dung thật phong phú. Loại hoa gì, tính năng ra sao, nở mùa nào, có nhiều ở địa phường nào đều được lý giải một cách cặn kẽ. Mỗi mùa hoa, mang hteo một loại chướng khí. Chướng khí là hậu quả của cây lá rụng xuống ao chằm, rồi bốc lên, tạo thành những dịch bệnh cho con người. Tháng ba âm lịch có Đào hoa chướng, tháng năm chó Lựu hoa chướng, tháng tám có Phù dung chướng. Kim Dung cho biết người Vân Nam vốn yêu hoa trà, coi hoa trà là một loài hoa quý cho nên không lấy tên hoa trà để gọi chướng khí.
Hoa làm đẹp thêm cho tác phẩm võ hiệp của Kim Dung, tạo nên chiều sâu cho tác phẩm. Hoa là nới gửi gắm tâm tình con người. Chất thơ tự có trong hoa biến thành chất thơ cho tác phẩm. Đoc Kim Dung càng nhiều lần, ta càng khám phá ra thêm nhiều vẻ đạp, cáng nhận ra làn u hương thuần nhã của hoa.
Giòng xuân nước gợn hoa trà trắng
Non hạ mây vương trái vải hồng.
Có người nói bóng hoa trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung là hình ảnh của Hạ Mộng, người tình của ông. Hạ Mộng đã xa ông như lạc hoa lưu thủy. Và tiểu thuyết của ông giàu bóng hoa, hương hoa bởi Hạ Mộng vẫn sống trong trái tim ông.
--------------------------------------------------------------------------------
Hết Hoa . Mời bạn xem tiếp Y học :
Y HỌC TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG
-
28-09-2011, 09:35 PM #28
"Kim Dung giữa đời tôi" thì em cũng đã đọc. Nhưng đọc Kim Dung vẫn thích vì ông ấy đưa được những sự kiện và nhân vật lịch sử vào tiểu thuyết kiếm hiệp của ông ấy một cách rất tự nhiên (Sau này có Huỳnh Dị cũng làm được vậy, thậm chí có phần xuất sắc hơn nhưng Huỳnh Dị viết hơi tham nên các tác phẩm của Huỳnh Dị khó đọc đi đọc lại nhiều lần như Kim Dung được. Hy vọng em sẽ có bài riêng về Huỳnh Dị vào một thời gian thích hợp). Nhưng em chưa thấy tác giả "Kim Dung giữa đời tôi" nói kỹ về những sự kiện và nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết Kim Dung. Vậy xin mạo muội chen ngang bác Sông Hương một chút.
Bài một: Họ Đoàn và đất nước Đại Lý
Những ai đọc bộ tam khúc Xạ điêu anh hùng truyện chắc chắn không thể quên nhân vật Nam Đế (sau này là Nam Tăng) Đoàn Trí Hưng, một trong Võ lâm ngũ bá. Đây chỉ là một nhân vật phụ nhưng chắc chắn để lại cho người đọc rất nhiều cảm tình vì ông là một người võ công cao siêu nhưng lại có tấm lòng nhân đức như đức Phật sống. Ông nổi tiếng với tuyệt kỹ Nhất dương chỉ, sau này trao đổi võ công với Vương Trùng Dương ông học thêm được Tiên Thiên Công có thể đả thông được kỳ kinh bát mạch. Nhưng nói về nước Đại Lý nhiều nhất là Thiên Long Bát Bộ với một loạt nhân vật Đoàn Chính Minh,
Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái và đặc biệt là anh chàng Đoàn Dự.
Trong chính sử, nước Đại Lý và các nhân vật trên đều có thật. Nước Đại Lý là vương triều kế tiếp của quốc gia Nam Chiếu, đã từng xâm chiếm nước Việt Nam ta (khi đó đang bị nhà Đường đô hộ) và bị Cao Biền đánh bại. Vương quốc Đại Lý bắt đầu từ năm 937 và kéo dài 316 năm, trải qua 22 đời vua trong đó có 10 vị vua bỏ đi tu như Bảo Định Đế Đoàn Chính Minh, Trung Tông Đoàn Chính Thuần, Cảnh Tông Đoàn Chính Hưng v.v. Vương triều Đại Lý gián đoạn một thời gian ngắn khoảng 2 năm, khi quyền thần Cao Thăng Thái (trong TLBB thì đây là vị trung thần của Đoàn Chính Minh và Đoàn Chính Thuần) cướp ngôi và lập ra Vương triều Đại Trung, phân chia thành 2 giai đoạn Tiền và Hậu Đại Lý.
Đoàn Chính Minh:
Năm 1081, cha con quyền thần Cao Trí Thăng và Cao Thăng Thái bức bách Thượng Minh đế Đoàn Thọ Huy thoái vị xuất gia, sau đó ủng lập Đoàn Chính Minh lên kế vị. Tuy nhiên, 13 năm sau, năm 1094, quyền thần Cao Thăng Thái bức ép Đoàn Chính Minh thoái vị nhường ngôi, tự lập làm vua Đại Lý.
Trong TLBB thì Đoàn Chính Minh khi xuất gia định nhường ngôi cho em trai mình là Đoàn Chính Thuần, nhưng Đoàn Chính Thuần bị chết trong tay Doàn Diên Khánh nên ngôi báu được trao cho Đoàn Dự.
Cao Thăng Thái:
Cao Thăng Thái là vị hoàng đế duy nhất của vương triều Đại Trung, một vương triều tồn tại chỉ 2 năm.
Năm 1080, Dương Nghĩa Trinh, một hậu duệ của hoàng tộc Vương quốc Nam Chiếu trước kia, đã nổi loạn, giết chết hoàng đế Đại Lý Đoàn Liêm Nghĩa (Đệ nhất ác nhân Đoàn Diên Khánh là con trai của Đoàn Liêm Nghĩa chăng?), cướp lại ngôi vị. Thiện Xiển hầu bấy giờ là Cao Trí Thăng cùng con trai là Cao Thăng Thái thống lãnh binh mã của 37 bộ lạc ở Điền Đông xuất binh tiêu diệt Dương Nghĩa Trinh, tôn lập Đoàn Thọ Huy lên ngôi. Tuy nhiên, chỉ 1 năm sau, năm 1081, cha con Cao Trí Thăng và Cao Thăng Thái bức ép Thượng Minh đế Đoàn Thọ Huy thoái vị xuất gia, tôn lập Đoàn Chính Minh kế thừa ngôi vị.
Do công tôn lập, Cao Trí Thăng được phong Tướng quốc, Cao Thăng Thái kế thừa tước vị Thiện Xiển hầu của cha. Tuy nhiên, chỉ 13 năm sau, năm 1094, Cao Thăng Thái lại ép Đoàn Chính Minh thoái vị xuất gia, nhường ngôi lại cho mình. Cao Thăng Thái lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Thượng Trị, cải quốc hiệu là Đại Trung.
Nhưng chỉ sau 2 năm, Cao Thăng Thái lâm bệnh nặng. Nhân cơ hội này, các bộ tộc từng ủng hộ gia tộc họ Cao trong việc dẹp loạn và phế lập lại nổi loạn. Cao Thăng Thái trước khi chết đã dặn con là Cao Thái Minh hoàn trả ngôi vị lại cho họ Đoàn. Tuân theo sách lược này, Cao Thái Minh tôn lập em của Đoàn Chính Minh là Đoàn Chính Thuần lên ngôi vua Đại Lý, nhờ đó liên kết lại thế lực dẹp loạn 37 bộ tộc, được giữ lại ngôi vị Tướng quốc. Do việc hoàn vị này, khi Đoàn Chính Thuần lên ngôi, đã tôn gọi Cao Thăng Thái là Cao Quốc chủ, truy thụy hiệu là Phú Hữu Thánh Đức Biểu Chính Hoàng đế.
Đoàn Chính Thuần:
Đoàn Chính Thuần trị vì từ năm 1096 đến năm 1107 thì nhường ngôi cho con là Đoàn Dự, xuất làm sư theo Phật giáo Mật Tông. Sau khi qua đời, ông được tôn thụy hiệu là Văn An Đế.
Đoàn Dự:
Đoàn Dự còn có tên là Đoàn Chính Nghiêm, trị vì vương quốc Đại Lý từ năm 1108 đến 1147.
Theo truyền thống dòng họ, phụ vương ông là Đoàn Chính Thuần thoái vị nhường ngôi cho ông và xuất gia làm sư năm 1108. Đoàn Dự kế vị ngôi vua Đại Lý và tại vị trong 39 năm, là vị hoàng đế Đại Lý tại vị lâu nhất.
Bấy giờ, người kế thừa tước vị Thiện Xiển hầu là Cao Minh Thanh, con trai thứ 4 của Tướng quốc Cao Thái Minh. Cao Thái Minh sinh được 8 người con trai, trong đó có Cao Trí Xương vì phạm tội nên bị lưu đày mà chết. Bộ hạ của Cao Trí Xương dự định mưu sát Đoàn Dự lúc tế lễ để báo thù. Tuy nhiên, âm mưu bại lộ, Đoàn Dự vì nể gia tộc họ Cao từng trả ngôi lại cho họ Đoàn, nên xá miễn tội cho.
Trong thời gian ông tại vị có nổ ra cuộc bạo loạn của 37 bộ tộc thiểu số ở Điền Đông (nay thuộc Côn Minh). Nguyên thủy các bộ tộc này dưới quyền thống lãnh của gia tộc họ Cao, giao cho Cao Minh Thanh trấn thủ. Cuộc bạo loạn tuy được dập tắt nhanh chóng, nhưng Thiện Xiển hầu Cao Minh Thanh cũng bị tử trận. Triều đình Đại Lý bèn tôn lập cháu của Cao Thăng Thái là Cao Lương Thành, một người có tiếng là hiền đức, làm Tể tướng, hiệu Trung Quốc công.
Năm 1117, Đoàn Dự được Tống Huy Tông phong tước Kim tử Quang lộc Đại phu, Kiểm hiệu Tư không, Vân Nam Tiết độ sứ, Thượng trụ quốc, được kế thừa ngôi vị Đại Lý Quốc vương của thân phụ.
Năm 1147, Đoàn Dự thoái vị và xuất gia làm sư. Con trai ông là Đoàn Chính Hưng kế vị ngôi vua Đại Lý. Sau khi ông mất, được truy phong miếu hiệu là Hiến Tông, thụy hiệu Tuyên Nhân Đế.
Trong TLBB, Đoàn Dự có 3 người vợ gồm: Vương Ngữ Yên, Chung Linh và Mộc Uyển Thanh. Cháu nội Đoàn Dự là Đoàn Trí Hưng cũng được Kim Dung tiểu thuyết hoá, trở thành một nhân vật trong Xạ điêu tam bộ khúc, xếp vào "Thiên hạ ngũ tuyệt" với ngoại hiệu là Nam đế. Theo nguyên tác ban đầu thì Vương Ngữ Yên được lập làm hoàng hậu nhưng trong lần sửa đổi mới nhất của Kim Dung vào năm 2008, cuối tác phẩm có nói tới việc chàng đã tiết lộ cho một số ít người thân cận như Mộc Uyển Thanh, Ba Thiên Thạch, Chung Linh, Chu Đan Thần cha thật sự của anh là ai, đồng thời Đoàn Dự nhận ra Mộc Uyển Thanh là người con gái mình yêu nhất nên đã quyết định kết hôn với nàng và lập làm hoàng hậu, lập Chung Linh làm phi tần, sống một cuộc đời ung dung tự tại. Còn với Vương Ngữ Yên được tác giả đổi là Vương Ngọc Yến và chàng nhận ra mình và Vương Ngọc Yến không thật sự là tình yêu mà thực ra chàng chỉ yêu bức tượng ngọc bích (Thần tiên tỉ tỉ) còn nàng thì vẫn còn tình cảm với Mộ Dung Phục nên đã để cô trở về chăm sóc Mộ Dung công tử lúc này đang bị điên.
Đoàn Trí Hưng
Nam Đế Đoàn Trí Hưng, một trong Võ Lâm ngũ bá là cháu nội của Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh, tại vị từ năm 1172 - 1200.
Cũng như nhiều vị vua khác của Đại Lý, Đoàn Trí Hưng tôn sùng đạo Phật. Trong thời gian trị vì, ông ít quan tâm đến quốc sự, chỉ lo đại tu chùa chiền, xây dựng mới 60 tự viện, đối với một tiểu quốc như Đại Lý, đã làm hao tổn quốc lực không ít. Năm 1200 ông thoái vị và nhường ngôi cho con mình là Đoàn Trí Liêm. Khác với hình tượng trong tiểu thuyết, ông không trở thành một nhà sư mà chỉ là một cư sĩ tại gia.
-
29-09-2011, 10:04 AM #29
-
29-09-2011, 04:22 PM #30
Bích Dao nằm bất động suốt từ đầu đến cuối nên không thấy thích xíu nào
, so sánh tên của 2 cô này đã thấy Lục Tuyết Kỳ đẹp hơn rồi. Có cái hay là vẻ đẹp của Lục Tuyết Kỳ không thấy giống 1 nhân vật nữ nào trong truyện Kim Dung (mình bị ảnh hưởng hình tượng rất nhiều nhân vật nữ theo Kim Dung miêu tả, xem phim). Lục Tuyết Kỳ có vẻ hơi giống nét của Tiểu Long Nữ và Mộc Uyển Thanh...
Điềm tĩnh trước gái xinh và không giật mình trước gái xấu
Kim Dung giữa đời tôi
Đánh dấu