Kết quả 1 đến 10 của 72
Chủ đề: Kim Dung giữa đời tôi
Threaded View
-
28-09-2011, 09:35 PM #11
"Kim Dung giữa đời tôi" thì em cũng đã đọc. Nhưng đọc Kim Dung vẫn thích vì ông ấy đưa được những sự kiện và nhân vật lịch sử vào tiểu thuyết kiếm hiệp của ông ấy một cách rất tự nhiên (Sau này có Huỳnh Dị cũng làm được vậy, thậm chí có phần xuất sắc hơn nhưng Huỳnh Dị viết hơi tham nên các tác phẩm của Huỳnh Dị khó đọc đi đọc lại nhiều lần như Kim Dung được. Hy vọng em sẽ có bài riêng về Huỳnh Dị vào một thời gian thích hợp). Nhưng em chưa thấy tác giả "Kim Dung giữa đời tôi" nói kỹ về những sự kiện và nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết Kim Dung. Vậy xin mạo muội chen ngang bác Sông Hương một chút.
Bài một: Họ Đoàn và đất nước Đại Lý
Những ai đọc bộ tam khúc Xạ điêu anh hùng truyện chắc chắn không thể quên nhân vật Nam Đế (sau này là Nam Tăng) Đoàn Trí Hưng, một trong Võ lâm ngũ bá. Đây chỉ là một nhân vật phụ nhưng chắc chắn để lại cho người đọc rất nhiều cảm tình vì ông là một người võ công cao siêu nhưng lại có tấm lòng nhân đức như đức Phật sống. Ông nổi tiếng với tuyệt kỹ Nhất dương chỉ, sau này trao đổi võ công với Vương Trùng Dương ông học thêm được Tiên Thiên Công có thể đả thông được kỳ kinh bát mạch. Nhưng nói về nước Đại Lý nhiều nhất là Thiên Long Bát Bộ với một loạt nhân vật Đoàn Chính Minh,
Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái và đặc biệt là anh chàng Đoàn Dự.
Trong chính sử, nước Đại Lý và các nhân vật trên đều có thật. Nước Đại Lý là vương triều kế tiếp của quốc gia Nam Chiếu, đã từng xâm chiếm nước Việt Nam ta (khi đó đang bị nhà Đường đô hộ) và bị Cao Biền đánh bại. Vương quốc Đại Lý bắt đầu từ năm 937 và kéo dài 316 năm, trải qua 22 đời vua trong đó có 10 vị vua bỏ đi tu như Bảo Định Đế Đoàn Chính Minh, Trung Tông Đoàn Chính Thuần, Cảnh Tông Đoàn Chính Hưng v.v. Vương triều Đại Lý gián đoạn một thời gian ngắn khoảng 2 năm, khi quyền thần Cao Thăng Thái (trong TLBB thì đây là vị trung thần của Đoàn Chính Minh và Đoàn Chính Thuần) cướp ngôi và lập ra Vương triều Đại Trung, phân chia thành 2 giai đoạn Tiền và Hậu Đại Lý.
Đoàn Chính Minh:
Năm 1081, cha con quyền thần Cao Trí Thăng và Cao Thăng Thái bức bách Thượng Minh đế Đoàn Thọ Huy thoái vị xuất gia, sau đó ủng lập Đoàn Chính Minh lên kế vị. Tuy nhiên, 13 năm sau, năm 1094, quyền thần Cao Thăng Thái bức ép Đoàn Chính Minh thoái vị nhường ngôi, tự lập làm vua Đại Lý.
Trong TLBB thì Đoàn Chính Minh khi xuất gia định nhường ngôi cho em trai mình là Đoàn Chính Thuần, nhưng Đoàn Chính Thuần bị chết trong tay Doàn Diên Khánh nên ngôi báu được trao cho Đoàn Dự.
Cao Thăng Thái:
Cao Thăng Thái là vị hoàng đế duy nhất của vương triều Đại Trung, một vương triều tồn tại chỉ 2 năm.
Năm 1080, Dương Nghĩa Trinh, một hậu duệ của hoàng tộc Vương quốc Nam Chiếu trước kia, đã nổi loạn, giết chết hoàng đế Đại Lý Đoàn Liêm Nghĩa (Đệ nhất ác nhân Đoàn Diên Khánh là con trai của Đoàn Liêm Nghĩa chăng?), cướp lại ngôi vị. Thiện Xiển hầu bấy giờ là Cao Trí Thăng cùng con trai là Cao Thăng Thái thống lãnh binh mã của 37 bộ lạc ở Điền Đông xuất binh tiêu diệt Dương Nghĩa Trinh, tôn lập Đoàn Thọ Huy lên ngôi. Tuy nhiên, chỉ 1 năm sau, năm 1081, cha con Cao Trí Thăng và Cao Thăng Thái bức ép Thượng Minh đế Đoàn Thọ Huy thoái vị xuất gia, tôn lập Đoàn Chính Minh kế thừa ngôi vị.
Do công tôn lập, Cao Trí Thăng được phong Tướng quốc, Cao Thăng Thái kế thừa tước vị Thiện Xiển hầu của cha. Tuy nhiên, chỉ 13 năm sau, năm 1094, Cao Thăng Thái lại ép Đoàn Chính Minh thoái vị xuất gia, nhường ngôi lại cho mình. Cao Thăng Thái lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Thượng Trị, cải quốc hiệu là Đại Trung.
Nhưng chỉ sau 2 năm, Cao Thăng Thái lâm bệnh nặng. Nhân cơ hội này, các bộ tộc từng ủng hộ gia tộc họ Cao trong việc dẹp loạn và phế lập lại nổi loạn. Cao Thăng Thái trước khi chết đã dặn con là Cao Thái Minh hoàn trả ngôi vị lại cho họ Đoàn. Tuân theo sách lược này, Cao Thái Minh tôn lập em của Đoàn Chính Minh là Đoàn Chính Thuần lên ngôi vua Đại Lý, nhờ đó liên kết lại thế lực dẹp loạn 37 bộ tộc, được giữ lại ngôi vị Tướng quốc. Do việc hoàn vị này, khi Đoàn Chính Thuần lên ngôi, đã tôn gọi Cao Thăng Thái là Cao Quốc chủ, truy thụy hiệu là Phú Hữu Thánh Đức Biểu Chính Hoàng đế.
Đoàn Chính Thuần:
Đoàn Chính Thuần trị vì từ năm 1096 đến năm 1107 thì nhường ngôi cho con là Đoàn Dự, xuất làm sư theo Phật giáo Mật Tông. Sau khi qua đời, ông được tôn thụy hiệu là Văn An Đế.
Đoàn Dự:
Đoàn Dự còn có tên là Đoàn Chính Nghiêm, trị vì vương quốc Đại Lý từ năm 1108 đến 1147.
Theo truyền thống dòng họ, phụ vương ông là Đoàn Chính Thuần thoái vị nhường ngôi cho ông và xuất gia làm sư năm 1108. Đoàn Dự kế vị ngôi vua Đại Lý và tại vị trong 39 năm, là vị hoàng đế Đại Lý tại vị lâu nhất.
Bấy giờ, người kế thừa tước vị Thiện Xiển hầu là Cao Minh Thanh, con trai thứ 4 của Tướng quốc Cao Thái Minh. Cao Thái Minh sinh được 8 người con trai, trong đó có Cao Trí Xương vì phạm tội nên bị lưu đày mà chết. Bộ hạ của Cao Trí Xương dự định mưu sát Đoàn Dự lúc tế lễ để báo thù. Tuy nhiên, âm mưu bại lộ, Đoàn Dự vì nể gia tộc họ Cao từng trả ngôi lại cho họ Đoàn, nên xá miễn tội cho.
Trong thời gian ông tại vị có nổ ra cuộc bạo loạn của 37 bộ tộc thiểu số ở Điền Đông (nay thuộc Côn Minh). Nguyên thủy các bộ tộc này dưới quyền thống lãnh của gia tộc họ Cao, giao cho Cao Minh Thanh trấn thủ. Cuộc bạo loạn tuy được dập tắt nhanh chóng, nhưng Thiện Xiển hầu Cao Minh Thanh cũng bị tử trận. Triều đình Đại Lý bèn tôn lập cháu của Cao Thăng Thái là Cao Lương Thành, một người có tiếng là hiền đức, làm Tể tướng, hiệu Trung Quốc công.
Năm 1117, Đoàn Dự được Tống Huy Tông phong tước Kim tử Quang lộc Đại phu, Kiểm hiệu Tư không, Vân Nam Tiết độ sứ, Thượng trụ quốc, được kế thừa ngôi vị Đại Lý Quốc vương của thân phụ.
Năm 1147, Đoàn Dự thoái vị và xuất gia làm sư. Con trai ông là Đoàn Chính Hưng kế vị ngôi vua Đại Lý. Sau khi ông mất, được truy phong miếu hiệu là Hiến Tông, thụy hiệu Tuyên Nhân Đế.
Trong TLBB, Đoàn Dự có 3 người vợ gồm: Vương Ngữ Yên, Chung Linh và Mộc Uyển Thanh. Cháu nội Đoàn Dự là Đoàn Trí Hưng cũng được Kim Dung tiểu thuyết hoá, trở thành một nhân vật trong Xạ điêu tam bộ khúc, xếp vào "Thiên hạ ngũ tuyệt" với ngoại hiệu là Nam đế. Theo nguyên tác ban đầu thì Vương Ngữ Yên được lập làm hoàng hậu nhưng trong lần sửa đổi mới nhất của Kim Dung vào năm 2008, cuối tác phẩm có nói tới việc chàng đã tiết lộ cho một số ít người thân cận như Mộc Uyển Thanh, Ba Thiên Thạch, Chung Linh, Chu Đan Thần cha thật sự của anh là ai, đồng thời Đoàn Dự nhận ra Mộc Uyển Thanh là người con gái mình yêu nhất nên đã quyết định kết hôn với nàng và lập làm hoàng hậu, lập Chung Linh làm phi tần, sống một cuộc đời ung dung tự tại. Còn với Vương Ngữ Yên được tác giả đổi là Vương Ngọc Yến và chàng nhận ra mình và Vương Ngọc Yến không thật sự là tình yêu mà thực ra chàng chỉ yêu bức tượng ngọc bích (Thần tiên tỉ tỉ) còn nàng thì vẫn còn tình cảm với Mộ Dung Phục nên đã để cô trở về chăm sóc Mộ Dung công tử lúc này đang bị điên.
Đoàn Trí Hưng
Nam Đế Đoàn Trí Hưng, một trong Võ Lâm ngũ bá là cháu nội của Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh, tại vị từ năm 1172 - 1200.
Cũng như nhiều vị vua khác của Đại Lý, Đoàn Trí Hưng tôn sùng đạo Phật. Trong thời gian trị vì, ông ít quan tâm đến quốc sự, chỉ lo đại tu chùa chiền, xây dựng mới 60 tự viện, đối với một tiểu quốc như Đại Lý, đã làm hao tổn quốc lực không ít. Năm 1200 ông thoái vị và nhường ngôi cho con mình là Đoàn Trí Liêm. Khác với hình tượng trong tiểu thuyết, ông không trở thành một nhà sư mà chỉ là một cư sĩ tại gia.
Kim Dung giữa đời tôi
Đánh dấu