Kết quả 11 đến 20 của 23
Chủ đề: Dạo Bước Đèo Ngang..
-
07-10-2011, 02:41 PM #11
Kỳ Lạ Giếng Tiên Ở Bảy Núi_An Giang
Vùng Bảy Núi ở An Giang có hàng chục “giếng tiên”. Điều kỳ lạ là các giếng này đều nằm trên những đỉnh núi cao chót vót, ăn sâu vào lòng đá nhưng quanh năm luôn đầy ắp nước.
< Toàn cảnh Bảy Núi.
Cũng nước lớn, nước ròng
Ông Võ Văn Oanh ở ấp Tha Lót, xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, An Giang trồng một rẫy rau xanh lớn trên vồ Đá Bạc, núi Dài Lớn, huyện Tri Tôn. “Nhờ giếng tiên trên vồ mà cư dân núi ở Chót Ông Còn mới sống nổi. Ăn uống, tắm giặt, tưới cây... đều từ nước giếng đó”, ông Oanh cho biết.
Ông Nguyễn Văn Đa, ở xã Văn Giáo, huyện Tịnh Biên, khoe, ông vừa mua được 30 công đất (3 ha) rừng trên vồ Đá Bạc để trồng rau xanh và một vườn xoài. “Nghĩ cũng lạ thật, nước ở đâu không biết, nhưng hễ múc cạn thì một lúc sau lại tự dâng đầy trở lại.
Lâu ngày để ý, tôi thấy mực nước trong giếng thay đổi lên xuống theo hai thời điểm sáng - chiều trong ngày. Người dân làm rẫy xem đây là cách báo hiệu thời gian để xuống núi”, ông Đa giải thích. Từ đó, ông theo dõi và nhận thấy “giếng tiên” ở vồ Đá Bạc cũng có nước lớn, nước ròng xoay theo con trăng hằng tháng.
Giếng không cạn
Núi Ba Thê ở thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, An Giang là một trong những nơi có nhiều “giếng tiên” nhất xứ Thất Sơn. Hàng chục năm trước, đây còn là vùng hoang sơ, quanh chân núi đã có nhiều nhà dân sinh sống. Trong một lần lên núi, ông Mai Đức phát hiện trên sườn phía Đông có một giếng đầy ắp nước, mát lạnh và trong vắt.
Mỗi đêm trăng sáng, dưới đáy giếng này lung linh những hạt cát vàng óng ánh nên người dân địa phương đặt tên là giếng Vàng. Trên đỉnh núi Ba Thê, cạnh một phiến đá cheo leo bên phải chùa Chân Tiên cũng có một giếng hình tam giác, quanh năm không bao giờ cạn. Không ai biết giếng này bắt nguồn từ đâu nên người ta gọi theo tên của chùa Chân Tiên.
Không ai thống kê được vùng Bảy Núi có bao nhiêu “giếng tiên” nhưng hầu như trên mỗi ngọn núi đều có một vài cái mà người dân vô tình phát hiện được. Đỉnh núi Két ở thị trấn Nhà Bàn, huyện Tịnh Biên (An Giang) cũng có một “giếng tiên” trên phiến đá cao nhất. “Thấy giếng nằm trên một phiến đá cheo leo mà lại có nước ngọt và nhiều người tới viếng, tôi đã làm hàng rào bảo vệ an toàn cho khách”, ông Nguyễn Văn Sơn, sống trên đỉnh núi Két, nói. Cũng theo ông Két, giếng này chỉ rộng khoảng 0,5 m, ăn sâu vào lòng đá. Càng ăn sâu, lòng giếng càng nhỏ lại nhưng không biết nước từ đâu cứ dâng lên khi vừa vơi bớt.
Những người thường xuyên đến thăm vùng Thất Sơn không ai có thể bỏ qua núi Dài Năm Giếng (còn gọi là Ngũ Hồ Sơn) ở thị trấn Nhà Bàn, đối diện núi Két. Trên 5 đỉnh của núi này, ở độ cao hàng trăm mét có 5 giếng nước. Còn ở núi Cấm tại xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, khó có thể đếm hết số “giếng tiên”. Trong đó, dồi dào nước nhất, được người dân nhắc đến nhiều nhất là giếng ở vồ Đá Vàng - mạch nước lớn nhất vùng. Từ trong lòng đá, nước cứ dâng đầy. Thấy nguồn nước xanh mát, quanh năm không bao giờ cạn, những người sống trên núi đã xây dựng vách ngăn như một bể chứa để không chảy tràn lãng phí.
Nguồn sống cho hàng nghìn hộ dân
Không chỉ cung cấp nước sinh hoạt cho hàng nghìn hộ dân trên các ngọn núi cao, những “giếng tiên” này còn là nguồn nước tưới tiêu cho cây trồng và là nơi giải khát của thú rừng. Anh Trần Văn Thảo ở ấp Vồ Bà, xã An Hảo, trồng hơn 5 ha quýt hồng trên núi Cấm. Nhờ nguồn nước ở giếng Đá Vàng mà vườn nhà anh luôn xanh tốt. Lúc gia đình anh mới đem giống quýt hồng về trồng trên núi, điều trăn trở nhất là nguồn nước tưới, giờ thì anh hoàn toàn yên tâm về vấn đề này.
Trong một lần đi bẫy thú rừng trên vồ Đá Vàng, anh Thảo lội theo dấu chân lợn rừng, tìm đến một mạch nước lớn ở đây. Mệt lả người, anh đưa tay hớt một bụm nước uống cho đỡ khát thì thấy nước ngọt lịm. Anh về bàn với cha tìm cách đưa nước về tưới cây trồng ở vườn nhà. Cha con anh Thảo vận động một số hộ dân trên núi đem vật liệu lên xây vách ngăn như một miệng giếng để trữ nước. Bà Hai Mính, trồng 2 ha bưởi da xanh phía trên vườn quýt của anh Thảo, cũng học cách dẫn nước từ giếng Đá Vàng về tưới xanh vườn bưởi.
(Theo báo An Giang)Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..
-
07-10-2011, 02:53 PM #12
Sa Mạc Núi Chúa..
Cách thị xã Phan Rang 20km về phía bắc và giáp ranh với vịnh Cam Ranh, vườn quốc gia Núi Chúa với độ chênh gần 1.000 mét từ mặt biển đến đỉnh núi cao nhất, các hệ sinh thái ở đây được phân bổ thành sáu kiểu rừng tương ứng với sáu tầng bậc độ cao, tạo ra nhiều tập đoàn sinh vật quần tụ phong phú, đa dạng đầy kỳ thú.
Nếu Ninh Thuận lâu nay được cho là vùng khô hạn nhất nước thì vườn quốc gia Núi Chúa được xem như là vùng khô hạn nhất của Ninh Thuận. Một số nhà khoa học đã nghiên cứu và cho rằng những vùng rừng khô của Núi Chúa khô hạn không kém gì nhiều vùng của châu Phi. Khí hậu và môi trường hệt những vùng bán hoang mạc thường gặp ở Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha hay Algeria.
Bạn đã sẵn sàng cho một chuyến du lịch tới sa mạc của Việt Nam trong mùa hè này chưa?
< Cây bụi bám rễ cheo leo trên sườn núi khô hạn.
Từ thị xã Phan Rang đi theo con đường tỉnh lộ 702 của Ninh Thuận chừng 42km là đến rừng quốc gia Núi Chúa. Với địa hình, phong phú, khí hậu có một không hai và tính đa dạng sinh học cao, Núi Chúa đang là điểm đến cuốn hút của nhiều du khách.
Vườn quốc gia Núi Chúa là nơi có hệ sinh thái rừng khô hạn đặc trưng hiếm thấy ở nước ta. Giống như một sa mạc khô hạn, khí hậu ở đây chẳng kém gì những vùng bán hoang mạc tại Châu Phi.
< Bao la rừng quốc gia Núi Chúa.
Du khách sẽ thích thú khi được ngắm những trảng xương rồng chạy dài ven tỉnh lộ, những cây bụi lúp xúp sau cồn cát bỏng nắng.
Tuy mưa ở đây rất hiếm, song lại có rừng nguyên sinh với hệ thực vật rất phong phú. Theo khảo sát ban đầu của các nhà khoa học, nơi đây có tới 664 loài thực vật và 201 loài động vật, đặc biệt có nhiều loài động thực vật quí hiếm.
< Dòng thác Lồ Ô tuôn chảy giữa rừng.
Vườn quốc gia Núi Chúa có nhiều dãy núi cao, một Núi Chúa anh và ba Núi Chúa em. Với độ cao hơn 1.000m, quần thể Núi Chúa anh và ba Núi Chúa em tạo nên một vùng ôn đới ngay giữa “sa mạc”
< Hồ trên lưng chừng núi.
Để đến được đỉnh Núi Chúa anh, bạn sẽ được tận mắt thấy sáu kiểu rừng: từ rừng khô hạn cho đến rừng kiểu á nhiệt đới.
Càng lên cao, cây cối lại càng xanh tười hơn, chủ yếu là cây bụi gai mọc liên kết nhau thành từng mảng. Ở độ cao 800m đã xuất hiện cây gỗ lá kim như kim giao, hoàng đàn giả, thông tre, thanh tùng...
Đặc biệt, trên núi còn có một hồ treo, quanh năm đầy nước. Ven hồ có nhiều vỉa đá nổi nhấp nhô, trông như một hòn non bô. Trên núi còn có nhiều suối và thác nước cao tạo nên cảnh quan rất nên thơ, kì thú và làm cho khí hậu dịu mát. Dưới chân núi, ngay cạnh hoang mạc bỏng nắng là bờ biển lấp lánh trong xanh với những bãi tắm lí tưởng ở vịnh Vĩnh Hy.
Vịnh Vĩnh Hy là một thắng cảnh tuyệt vời ở vườn quốc gia Núi Chúa. Một vùng vịnh xanh thẳm được ôm ấp trong lòng núi bình lặng. Từ trên núi cao, dòng suối Lồ Ô chảy xuống, uốn lượn như một dải lụa trắng mềm mại, ẩn hiện dưới tầng xanh của cây rừng rồi đổ xuống vịnh. Đến Vĩnh Hy, du khách không những được thoả sức vẫy vùng trong làn nước mát mà còn được tham gia lặn biển để ngắm thảm san hô nổi tiếng dưới vịnh.
Sa mạc cát, rừng thẳm, biển xanh... vườn quốc gia Núi Chúa là sự lựa chọn hoàn hảo cho chuyến nghỉ mát đầy thú vị và mới lạ trong mùa hè này của bạn.
(Tổng Hợp VezoneNLĐ)Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..
-
07-10-2011, 03:04 PM #13
Chùa Vô Vi Trên Núi Vô Vi..
Dãy núi Tử Trầm nằm cách trung tâm Hà Nội hơn 20km. Núi thuộc xã Phụng Châu - huyện Chương Mỹ, Hà Nội.
< Một góc núi Tử Trầm nhìn từ chùa Vô Vi.
Chân núi có một ngôi chùa nổi tiếng - chùa Trầm. Nhưng nằm trong quần thể núi đồi, di tích nơi đây còn có một ngôi chùa độc đáo khác có cái tên nghe rất lạ: Vô Vi.
Chùa nằm cách Hà Nội không xa, cứ thẳng đường 6 đi, qua khỏi Hà Đông chừng 7km, bên trái là thị trấn Chúc Sơn, chếch bên phải là có thể nhìn thấy núi Ninh Sơn - tục gọi là núi con phượng. Có 2 đường để bạn có thể tìm đến chùa một cách dễ dàng:
Một là đi xuyên làng Ninh Sơn, hai là có thể lượn xe vòng phía sau núi..
< Những bậc thang đá lên chùa.
Đỉnh Vô Vi là một núi đá nhỏ, tách khỏi dãy Tử Trầm - còn gọi là núi con rồng mà Vô Vi được ví như viên ngọc, nằm chênh vênh giữa trời đất.
Men theo chân núi nhấp nhô đá, từ chùa Trầm sang núi Vô Vi chỉ vài trăm bước. Tương truyền, vào thế kỷ thứ X, một trong những thủ lĩnh của 12 sứ quân đến đây mai danh ẩn tích rồi dựng lên ngôi chùa.
< Cổng chùa Vô Vi.
Thời Tiền Lê, chùa xây dựng ở chân núi có tên gọi là Phúc Trù tự. Thời Trần chùa được xây dựng ở lưng núi gọi là Trai Tinh tự. Thời Hậu Lê, niên hiệu Hồng Thuận 6 (1514) chùa dời lên gần đỉnh núi như ngày nay, đổi lại tên như thời Đinh là Vô Vi tự.
Vì nằm trên đỉnh núi nên chùa không rộng, chỉ chừng hơn 10m2, tượng Phật cũng không có nhiều nhưng kiến trúc chùa còn gần như nguyên vẹn. Trên vách núi còn treo một quả chuông đúc năm 1814.
Bước qua hơn 100 bậc thang đá quanh co là lầu Nghênh Phong (đón gió) trên đỉnh núi. Đứng trên lầu Nghênh Phong, phóng tầm mắt là có thể ngắm dòng sông uốn khúc, ruộng đồng phì nhiêu, khung cảnh thanh bình, bao nhiêu mệt mỏi, bụi bặm bon chen nơi phố xá náo nhiệt, bỗng chốc tan biến…Theo đạo Phật, từ vô vi nghĩa là không phụ thuộc.
Không bị ảnh hưởng, không vì nhân duyên mà sinh ra. Trong Phật giáo nguyên thủy, thì chỉ có Niết bàn được xếp vào hạng vô vi. Tất cả các pháp còn lại là hữu vi.
< Chuông chùa treo trên chòm đá...
Sự tĩnh lặng của ngôi chùa cùng khung cảnh yên tĩnh sẽ khiến những muộn phiền hàng ngày trong bạn biến mất. Trước mắt bạn là ánh nắng mặt trời lấp lánh phản chiếu trên dòng sông, những cây hoa đại nở từng bông trắng rụng trước sân chùa... Cảm giác ấy khiến ai đã đến một lần còn mãi nhớ…
(Theo ANTĐ)Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..
-
07-10-2011, 03:15 PM #14
Rú Gám_Điểm Nhấn Du Lịch Yên Thành,Nghệ An..
Bắt nguồn từ chân dãy Trường Sơn đổ về phía đồng bằng, rú Gám - một danh sơn nổi tiếng từ xa xưa và trở thành biểu tượng của quê hương Yên Thành: "Ngái ngôi chi cũng mơ về rú Gám/Bến bờ nào cũng dội sóng sông Dinh, Sông Dinh một thuở đôi bờ nhớ/Rú Gám ba tầng mấy dặm thương"...
Thời Bắc thuộc, các quan cai trị Châu Diễn đã chọn Quỳ Lăng làm lỵ sở, nơi có địa thế hiểm yếu, tiện cho việc phòng thủ, tựa lưng vào núi, mặt ngoảnh ra cánh đồng. Thời nhà Đường, năm Trinh Quán thứ 1 (năm 627), vùng đất này đã là trung tâm của Châu Diễn. Và Cao Vương (Cao Biền-vị quan cai trị, nhà phong thuỷ tài ba, người đã chọn địa điểm xây thành Đại La thời Bắc thuộc) trong những lần tuần thú miền đất biên viễn phía nam Diễn Châu đã trèo lên đỉnh rú Gám và để lại dấu vết ở đây (trên đỉnh rú Gám có hồ nước trong suốt, rất sâu, tục truyền là nơi Cao Biền yểm huyệt).
Đến thời Tiền Lê, khi vùng đất này được khai phá, cư dân quần tụ đông đúc, Lê Long Ngân, con thứ 8 của vua Lê Đại Hành đã chọn vùng đất phía Tây Rú Gám để thành lập lỵ sở Đông Thành. Như vậy, cách ngày nay khoảng 1.000 năm, vùng đất này đã được chọn để xây dựng đế đô..
Trên Rú Gám, bên cạnh đền thờ Bạch Thạch đại vương thần (thần đá trắng), còn có miếu thờ Lý Thiên Cương. Lý Thiên Cương là con của Lý Thái Bảo, một vị nhân thần có công chiêu dân lập ấp khai khẩn vùng Kẻ Gám, về sau lên núi tu tiên, dân lập đền thờ. Rú Gám còn có tên Thứu Lĩnh. Thứu là con chim Thứu, còn gọi là chim Phượng vì núi có hình chim Phượng. Lại có tên là Long Sơn, núi Rồng, vì trên rú Gám có dãy núi đá ẩn hiện lưng chừng núi như là thân Rồng.
Từ thượng tuần tháng 8 đến trung tuần tháng 9 âm lịch hàng năm, nhìn về Rú Gám ta thường thấy một dải mây chạy ngang hông núi rất đẹp. Dựa vào hiện tượng thiên nhiên này, người dân các vùng lân cận đã rút ra kinh nghiệm: Mây Rú Gám không dám đi cày/ Mù rú Gám không giám ra khơi... Sách "Đông Thành phong thổ ký" của nhà sử học Ngô Trí Hợp viết vào thời Tự Đức (1848-1883) xem mây mùa xuân trên đỉnh Rú Gám là một trong 8 danh thắng của huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu cũ.
Rú Gám hiện có gần 150 ha thuộc rừng nguyên sinh đang được bảo tồn ở xã Xuân Thành (Yên Thành), có thảm thực vật đa dạng chung sống phân tầng rõ nét. Họ dương xỉ phủ kín mặt đất, nhóm cây leo như mây, song, vầu.... loài cây thân gỗ quý hiếm như: lim, trắc, gụ, dẻ... động vật cũng khá phong phú: sóc, chồn, cáo, gà rừng, vẹt núi, chim sáo..
Trong không gian hùng vĩ, thơ mộng với sông Dinh chạy quanh co bên những ngọn đồi, chùa Gám (làng Kẻ Gám) hiện ra với kiến trúc cổ kính, điêu khắc Chùa Gám hết sức tinh xảo. Các mảng điêu khắc hình cây cỏ, hoa lá, linh vật, những bức tượng phật... được kết nối lại làm cho con người gần gũi, hoà quyện vào thiên nhiên.
Theo truyền thuyết của làng Kẻ Gám nói rằng Rú Gám từ xa xưa gọi là núi Phượng Sơn , vì đứng từ xa trông giống như con chim phượng đang tư thế vỗ cánh, ở trên đỉnh núi có gò đất giống đầu chim Phượng, dân làng gọi là Hòn Nhơn hay Nhôn Sơn.
Tên làng buổi đầu mới thành lập gọilà Chân Cảm. Chân là chân thật, vững chải, trường tồn, Cảm là đông vui, trù phú . Cách nay hơn 1.400 năm có ông Lý Thiên Cương, con cháu nhà tiền Lý: Lý Nam Đế (541-602) về chân núi Phượng Sơn chiêu dân, khai đất lập điền trang, đặt tên trang ấp là Trang Cảm, sau đổi tên là Chân Cảm , vì thuộc quận Cửu Chân.
Nhờ long mạch tốt, có sông suối, thế núi long chầu hổ phục, đồng ruộng bình địa, nhờ thiên địa nhân hòa mà dân làng làm ăn no đủ; vì vậy dân các nơi khác tụ tập về đây làm ăn ngày một đông vui trở thành làng lớn nhất Châu Diễn xưa. Nhưng điều kiện canh tác hồi đó còn lạc hậu, phụ thuộc vào thiên nhiên. Nhiều năm hạn hán lớn nhân dân vào núi Phượng Sơn đào củ hoài sơn ( củ khoai mài), hái quả rừng để ăn. Trong núi có cây thân leo gọi là cây Gắm. Quả hình chùm, hình dạng giống quả nhót chứa nhiều tinh bột ăn thay ngô, khoai, sắn để qua lúc bần hàn. Những năm mưa thuận gió hòa cây gắm cho nhiều quả nhân dân thu hái về phơi khô làm lương thực dự trử như khoai sắn
Để nhớ ơn làng, ơn núi cho cây có quả cứu người lúc đói kém giáp hạt, người dân trong vùng đã đặt tên núi và tên làng là Gắm. Cũng có ý kiến cho rằng để tránh tên húy cây thiêng nên từ Gắm đổi sang Gám. Ngày nay dân không dùng quả Gắm thay lương thực nữa nhưng đến mùa hoa cây Gắm nở trắng rừng, tỏa hương thơm dịu ngọt như để nhắc nhở thế hệ sau nhớ đến cội nguồn, ông cha xưa một thời lam lũ, vật lộn với thiên nhiên, thú dữ, với thủy hỏa đạo tặc để xây đắp nên kẻ, nên làng phồn thịnh như ngày nay.
Để khai thác một cách hợp lý các giá trị văn hoá, lịch sử, tâm linh và du lịch của quần thể này, UBND huyện Yên Thành đã cho lập quy hoạch chi tiết bảo tồn tôn tạo khu du lịch tâm linh Rú Gám có quy mô khoảng 250 ha. Khu vực lập quy hoạch thuộc xã Xuân Thành (trên tỉnh lộ 538, kết nối từ quốc lộ 7 với quốc lộ 1A), với điểm nhấn trung tâm là chùa Gám, từ đó phát triển không gian du lịch tâm linh, sinh thái với các địa danh khác nằm trong không gian du lịch của Nghệ An và Bắc Trung bộ.
Việc cho lập dự án quy hoạch khu du lịch sinh thái và tâm linh Rú Gám là một quyết định có tính đột phá để tìm ra hướng đi cho phát triển du lịch của huyện Yên Thành. Làm cho Rú Gám sống dậy, lớn lên ngang tầm với vóc dáng của một danh sơn, nơi hội tụ anh linh của một vùng đất; đây cũng sẽ là điểm nhấn và là động lực phát triển du lịch của vùng quê lúa Yên Thành
(Theo báo Nghệ An)Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..
-
07-10-2011, 03:29 PM #15
Ngủ Đêm Núi Tượng..
Vùng Thất Sơn của An Giang luôn gắn liền với nhiều điều kỳ bí. Leo núi ban ngày là chuyện bình thường, thế còn khám phá một ngọn núi Thất Sơn vào ban đêm thì sao? Thú vị, mới lạ hay mạo hiểm đầy rủi ro?
< Quán bánh Canh lò Rèn
Nhóm chúng tôi quyết định thực hiện một chuyến “phượt” đêm lên Núi Tượng - một trong Thất Sơn, để trải nghiệm một cảm giác hoàn toàn khác.
Chương trình được vạch ra bởi nhóm bạn phượt của tôi tại Cần Thơ. Tôi chỉ là người ham hố đi theo vì lời rủ rê thân tình và ngọt ngào không thể cưỡng lại của người chị gái xứ “gạo trắng nước trong”. Từ Sài Gòn, tôi và hai vợ chồng anh bạn đi bằng xe máy xuống huyện Tri Tôn, An Giang để nhập đoàn của chị từ Cần Thơ chạy qua. Chúng tôi gặp nhau khoảng 4 giờ chiều tại quán bánh canh lò rèn gần chùa Xà Tón
< Đường vào Ba Chúc - Ban đêm không có đèn đường.
Con đường từ quốc lộ 91 vào thị trấn Ba Chúc dài khoảng 25km, đường khá tốt. Hai bên đường là xóm làng, vườn tược, những cánh đồng lúa rộng bát ngát với những dãy núi xa xa. Càng về chiều, trời bắt đầu nhá nhem tối.
Không có đèn đường cho đến khi vào đến thị trấn. Cây xăng cũng ít nên bạn cần đảm bảo xăng phải đủ cho ít nhất một lượt vào và ra, hoặc đổ xăng ngay cây xăng đầu tiên bạn gặp trên đường. Vào buổi tối, cây xăng gần thị trấn nhất không bán xăng bơm trực tiếp từ trụ mà chỉ bán lẻ với giá 20.000 đồng cho một can xăng chưa đến 1 lít.
Sáu giờ tối, chợ Ba Chúc vẫn còn nhộn nhịp người mua kẻ bán. Để vào đến núi Tượng, bạn phải vượt qua cửa ngõ là con đường có cây dầu hàng trăm năm tuổi đứng trấn ngay giữa đường, tạo thành hai lối ra - vào rõ rệt.
< Cây Dầu trăm tuổi tại thị trấn Ba Chúc.
Cây dầu này cũng có nhiều chuyện lạ kỳ gắn với việc làm đường của thị trấn. Bà con ở đây kể mọi cố gắng chặt bỏ cây dầu đều không có kết quả. Cây dầu này tạo thành điểm nhấn đặc biệt cho thị trấn Ba Chúc, không ai đi qua đây mà có thể quên được hình ảnh này. Qua cây dầu, vào đến bùng binh nhỏ, bạn quẹo tay trái để đến với núi Tượng, và nhà mồ Ba Chúc sâu bên trong nữa.
Chúng tôi dừng chân tại nơi mà bà con gọi là chùa: Tú Dương Miếu - Vạn Ban Miếu, nơi mà phía trên có hình “mặt ông Tượng”. Ông từ coi sóc ngôi miếu đã nhờ người hỗ trợ chúng tôi dẫn đoàn lên núi đêm nay. Đó là chú Út. Chú Út trạc bốn mấy năm mươi, không cao lắm, người gầy lại càng lỏng khỏng hơn trong bộ bà ba đen đang mặc. Nét mặt khắc khổ cộng thêm nước da ngăm đen khiến chú trông già hơn tuổi
Chỉ mang theo những đồ đạc cần thiết cho việc ngủ đêm trên núi như lều, túi ngủ, đồ ăn, nước uống, đèn pin, chúng tôi theo chân chú Út bắt đầu hành trình chinh phục núi Tượng. Núi Tượng thấp nhỏ, chỉ cao 145 m, nên ai cũng nghĩ sẽ lên đỉnh nhanh lắm. Nhưng khi đi rồi mới biết không hề dễ dàng chút nào.
< Chú Út.
Đường lên núi quanh co nhiều đoạn rẽ, có những hang hốc nhỏ hẹp, có cả đoạn dốc cao và cả vực sâu. Số lượng đèn pin, đèn đeo trán không đủ nên mọi người không ai bảo ai đều bám nhau rất sát và thường xuyên nhắc nhau địa hình mình vừa đi qua. “Cẩn thận, đá trơn!”, “Dây leo dưới đất”, “Gốc tre nhọn nha!” “Dốc trơn bên phải”,… là những câu nói thường xuyên được phát ra từ những người đi phía trước. Tôi yêu đội leo núi của mình quá. Tinh thần tập thể được phát huy cao độ trong đêm nay.
< Bên phải tảng đá này là vực sâu.
Chúng tôi tạm nghỉ 5 phút sau chặng leo đầu tiên. Chỗ ngồi nghỉ là một phiến đá to, hơi dốc xuống dưới. Đêm nay trời không nhiều sao, chú Út hỏi thăm chúng tôi có mệt không, cần nghỉ thêm chút nữa không? Cả đám đồng loạt “Dạ không mệt, Đi tiếp chú ơi!”. Địa hình núi non thật phức tạp, bạn cứ nghĩ đi đường thẳng, hướng lên trên hoài là sẽ tới đỉnh ư? Nhầm to bạn ơi. Có những đoạn bạn đi lên rồi lại phải đi xuống để chuyển qua một con đường khác đi tiếp lên trên. Có đoạn bạn phải men theo vách đá trơn nhẵn với một bên là vực sâu.
Không có người dẫn đường thì chắc chắn sẽ bị lạc. Tiếng chim kêu đêm, tiếng khỉ ngân dài, tiếng lá cây xào xạc, tiếng gió vi vu xen qua kẽ lá… Âm thanh trên núi trong màn đêm tĩnh mịch khiến chúng tôi có nhiều cảm giác khác nhau. Chú Út chỉ cho chúng tôi xem những hang đá rộng, hẹp khác nhau. Có thể đây là những hang đá đã giúp che giấu những người dân vô tội thoát khỏi nạn diệt chủng Pôn Pốt năm xưa.
< Khe đá hẹp, phải nghiêng người mới lách qua được.
Chặng nghỉ tiếp theo của chúng tôi là một đỉnh nhỏ, theo lời chú Út là ngắm cảnh đêm rất đẹp. Để đến được nơi này, chúng tôi vượt qua một khe nhỏ và dốc. Khe được tạo thành bởi hai phiến đá to gần sát nhau, phải nghiêng người mới chui qua được. Người nhỏ con như tôi thì không sao, còn anh trưởng đoàn của bọn tôi cao khoảng 1m8, thân hình cũng bệ vệ khiến chúng tôi hồi hộp. Liệu anh ấy có bị kẹt ngang đường không nhỉ? Lỡ kẹt thì làm sao kéo ra?
Trong khe đá có dòng nước nhỏ chảy từ trên xuống, làm cho nó trở nên ẩm ướt, là môi trường thích hợp cho loài rong rêu và dây leo phát triển. Có chiếc rễ cây tựa như rễ cây trầu bà, nhưng to và dài buông từ trên đỉnh khe đá xuống, cộng với sự nhơn nhớt của rêu bám trên tảng đá khiến cho mấy chị em đi trước hốt hoảng, tưởng mình đụng trúng con rắn đang bò. Về phần anh trưởng đoàn, sau một hồi xoay xở hóp bụng đủ kiểu và được chúng tôi hò hét cổ vũ nhiệt tình, anh cũng đã có mặt cùng chúng tôi ngắm nhìn cảnh ruộng đồng làng mạc Ba Chúc về đêm từ trên cao.
< Đoàn "phượt" núi đêm.
Trong ánh trăng huyền ảo, chú Út hướng ánh mắt chúng tôi về kênh Vĩnh Tế xa xa, về cánh đồng Tà Pạ. Những ánh đèn tắt dần, một vùng Thất Sơn rộng lớn đang chìm vào giấc ngủ êm đềm sau một ngày dài lao động miệt mài. Chúng tôi ngồi ngắm trời đất, nhìn nhau, nói cười vui vẻ. Niềm vui đôi khi chỉ đến từ những điều nho nhỏ và chúng tôi hạnh phúc với điều đó.
Tiếp tục trở xuống khe đá và đi theo một con đường mới để lên đỉnh núi, đích đã gần kề, tưởng chừng chỉ ít phút nữa chúng tôi sẽ nhảy cẫng lên vì sung sướng khi chinh phục được đỉnh núi Tượng. Nhưng “người tính không bằng trời tính”, chúng tôi được yêu cầu “hạ sơn”. Chỗ này chỉ còn cách đỉnh cao nhất của núi Tượng một chút nữa thôi. Chúng tôi hội ý nhanh và thống nhất sẽ “hạ sơn” mặc dù lòng đầy luyến tiếc.
< Buổi sáng với Mì xào Bắp Cải.
Khoảng 10 giờ tối, chúng tôi có mặt tại miếu Tú Dương. Đêm về khuya, mấy anh chị em ngồi quây quần trên chiếc phản, chuyền tay nhau từng ly rượu chùm ruột và kể về những chuyến đi đã qua và những dự định sắp tới. Chú Út đã chuẩn bị giúp bọn tôi hai “giường” ngủ tập thể rất tươm tất. Một “giường” được trải chiếu ở dưới đất, “giường” còn lại là chiếc phản làm bằng bê tông có lát gạch bông đặt cạnh tường bên ngoài miếu. Một số người thì chọn ngủ bằng túi ngủ mang theo hoặc đung đưa trên võng. Ai mệt thì đi nghỉ trước. Anh trưởng đoàn, hai chị bạn tôi và tôi là những người ngủ sau cùng. Tắt đèn, trả lại màn đêm sự yên lặng, chúng tôi chìm vào giấc ngủ trong tiếng mưa rả rích và ếch nhái kêu đâu đây.
Sau một đêm leo núi mệt nhoài, ai cũng ngủ ngon, buổi sáng thức dậy thấy người khoan khoái hơn những ngày thường ở nhà. Xong bữa sáng, nhóm Sài Gòn chúng tôi thu xếp về trước vì đường xa và cũng muốn lượn lờ một vài điểm đến khác. Chúng tôi chạy xe thẳng vào trong ghé thăm nhà trưng bày chứng tích tội ác của bọn Pôn Pốt, nhà mồ Ba Chúc.
Khi quay ra thì chạy lên đồi Tà Pạ ngắm nhìn toàn cảnh cánh đồng Tà Pạ đang xanh lúa bên dưới, tắm hồ Tà Pạ nước trong xanh quanh năm. Có lẽ tôi sẽ để dành phần thăm thú này cho một bài cảm nhận khác.
Chào An Giang! Tôi đã đến đây và sẽ còn quay lại
(Theo Ng laodong)Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..
-
07-10-2011, 03:43 PM #16
Cột Mốc APa Chải..
300 năm trước, người Hà Nhì mới đến đất Việt Nam này, cộng đồng của họ còn đông đảo lắm ở bên Trung Hoa, vì thế bà con dùng tiếng Quan Hoả và thích Hán tự lắm.
Già Pờ Sỹ Tài - một trí thức thuộc dòng dõi "quý tộc" của khu vực này - bảo: "Hữu bằng tự viễn phương lai/ bất diệc lạc hồ" (Bạn từ phương xa đến chẳng vui lắm sao). Tiễn các vị leo lên điểm núi thiêng có cột mốc ngã ba biên giới, vừa vui, già Sỹ Tài vừa buồn: "Vì hơn 70 tuổi, từ giờ đến lúc về giời, nếu Nhà nước làm đường ôtô lên cột mốc, thì may ra ta mới đi được, chứ đi bộ 8 tiếng, thì người trẻ mới đi được thôi mà!"
Thêm nhiều lần "choáng váng" giữa rừng
Ngày xưa ta còn khoẻ, thì cột mốc chưa xây, chỗ đỉnh núi một tiếng gà ba nước cùng nghe kia, chỉ là một đống đá, có cái trụ đá ba cạnh hướng mặt sang ba nước đã bị cụt. Năm 2005, người Hà Nhì gùi từng túi ximăng, từng viên gạch viên đá vào xây, nghe nói mốc to đẹp lắm.
Chỗ ấy, bên ta gọi là núi Khoang Lao San, theo tiếng Quan Hoả tức là vùng rừng lạnh, vùng mây mù vây bủa quanh năm, cao khoảng 1.864m so với mực nước biển; phía Trung Quốc gọi là khu "Thập Tầng Đại Sơn" - 10 đỉnh núi lớn; phía Lào gọi là gì thì ta không tường tận lắm. Hồi ta còn đi săn hổ, săn gấu... rừng ở khu vực cột mốc ngã ba biên giới vẫn như bây giờ.
Bởi bà con không dám đẵn gỗ ở đó, bước chân người di cư tự do đến tận bây giờ cũng chưa vào được đến đấy. Ngoài bản Tá Miếu là cỏ tranh bạt ngàn, những quả đồi cao, đầy mây, ẩm ướt, nhưng chưa bao giờ có rừng già cả, chỉ toàn cỏ tranh. Chỗ giáp ranh ba nước, rừng phía ta dày và nguyên sinh, những cây gỗ lớn phủ toàn rêu xanh trông như con thú lông mượt đang đứng đợi khách ven lối mòn, đẹp lắm lắm" - già Sỹ Tài nói với tôi, rồi tiếc rẻ nhìn lên đỉnh trời có cột mốc ba cạnh, "ta đã già rồi, không còn đủ sức để lên đó cùng con được".
Khi tôi còn dầu dãi ăn rừng ngủ thác với Sín Thầu lắc lơ, thì cột mốc chưa xây. Lúc có mốc rồi, thì lại bận rộn, thật khó để dọn mình cho mấy ngày leo núi (từ Hà Nội, ít nhất 5 ngày vừa đi xe, vừa đi bộ). Giờ mang cả kho thiết bị và êkíp hùng hậu lên để làm phim tài liệu, thì trời lại đổ mưa, khi lắc rắc khi hạt nặng như có ai đứng trên giời ném ngô vào mặt lá.
Giá rét căm căm, đúng là phải cắn răng liều một chuyến, thì chúng tôi mới dám đặt cơm nắm và thịt gà rang, muối vừng làm lương thảo phục vụ cho hành trình cầm chắc là vô cùng vất vả đó. Khuất Văn Dũng - Trạm trưởng biên phòng A Pa Chải - xung phong vác AK đi dẫn đường, lại thêm Toán Chu Cà - lính đồn 317 - được chỉ huy cắt cử đi khuân vác máy móc và khoác súng bảo vệ đoàn.
"Chúng ta cần dậy từ 4h sáng, nắm cơm, chuẩn bị hành lý, gậy leo núi, túi bọc máy móc vượt rừng mưa. Phải đi sớm, nếu không muốn ngủ lại trong hốc cây, mái đá giữa rừng, người khỏe đi 8 tiếng, đoàn này... thì nếu xuất phát từ khi trời chưa sáng, may ra về được trước khi trời tối" - Khuất Văn Dũng nói như ra lệnh.
Cũng may là trời mù mịt mây trắng, cây cỏ chỉ ánh lên đen đủi trong tầm nhìn hơn chục mét, nên trạm trưởng biên phòng Dũng thoải mái "phủ dụ" các thành viên trong đoàn là gần lắm, cố mà đi nhé, sắp đến đích rồi. Mây làm người leo núi như những kẻ khiếm thị, thế hoá ra lại hay, chứ biết rõ lộ trình, khối người không đủ dũng khí lê bước khi các kẽ ngón chân đã tứa máu tươi vì dốc núi.
Các đồi cỏ tranh mục nát, cỏ sắc và nhám đến ghê răng, mưa rả rích thê lương, chúng tôi cứ ngã như... đập mẹt. Bù lại, rừng già tuyệt đẹp, những cây cổ thụ khổng lồ, rêu mốc, cây ký sinh bám dày từ gốc lên ngọn, từ thân sang cành nhánh, cứ sống, cứ chết với tuế nguyệt, mà chưa bao giờ chịu một sự "xẻ thịt" nào của con người.
< Phá rừng đang là thảm họa ở khu vực rừng nguyên sinh màu mỡ và rộng lớn bậc nhất Việt Nam - Mường Nhé. Tuy nhiên, thủ phạm giết rừng không phải là những hộ dân có thói quen tích trữ củi, coi củi là tài sản, sự "trù phú" của kho củi là một thước đo đức hạnh người phụ nữ trong gia đình... như thế này. Họ là những kẻ phá rừng hàng loạt, chở gỗ đi bằng ô tô.
Vào đến rừng nguyên sinh vùng ngã ba biên giới này, dẫu leo núi đến bạc mặt, dẫu không dám tin mình còn đủ sức để đi và về đến chỗ cần đến, tôi bỗng dưng thấy đau đớn. Đau đớn vì rằng, hoá ra khu bảo tồn thiên nhiên lớn nhất Việt Nam này từng giàu có quá, mỗi tàng cây là một kho báu sinh thái kỳ thú, nó là tài sản tuyệt vời của con người. Ba trăm nghìn hécta rừng đã được khoanh lại cho dự án bảo tồn, đây là khu rừng đặc dụng lớn nhất của lịch sử giữ rừng Việt Nam; nhưng rồi người ta đã thả sức phá, thả buông cho kẻ khác phá, phá đến mức năm 2008, UBND tỉnh Điện Biên chậm chạp ra một cái quyết định thành lập khu bảo tồn, bấy giờ rừng chỉ còn có 45.000ha (chỉ còn chừng 1/7).
Toàn bộ vùng mênh mông cả trăm cây số tôi đã đi qua, rừng trụi thùi lụi, núi chênh vênh trọc lốc như cái cằm vừa cạo hết râu của người đàn ông nào đó. Sau 9 năm tôi đem ảnh cũ và ảnh mới, ký ức và hiện tại ra so sánh, thì là một trời một vực, rừng bị tận diệt đến... buốt lòng.
Khoang Lao San quyến rũ!
< Trang phục truyền thống của người Hà Nhì vùng ngã ba biên giới.
Hang ổ cuối cùng của rừng già, rừng nguyên sinh chính là khu vực đỉnh núi Khoang Lao San này đây. Rừng lạnh, rừng mây mù và rừng ở cái nơi mà chỉ vài bước nhãng chân là bạn có thể từ quốc gia nọ bước sang hai quốc gia láng giềng kia một cách dễ dàng. Rừng rậm rịt, suối gầm thét, cây cổ thụ đầy dây leo chằng chịt. Rừng Việt, rừng Lào và rừng Trung Quốc nối tiếp nhau. Thoảng lắm mới có vết chân con trâu thả bán hoang dã in trên nền đất, trên thân cây đôi lúc có vệt cào của con gấu hoang, lắm lúc có dấu tích của nai hoẵng ở mái đá nhẵn thín...
Trên đỉnh núi cao nhất, mây bủa kín các gốc cổ thụ, gió rít u u, lạnh thấu tim óc, trên đó là cột mốc ngã ba biên giới đầy huyền thoại. Trạm trưởng Dũng bảo, có nhiều chàng biên phòng, trước khi hết thời hạn đồn trú, dù nhiệm vụ không cần phải cuốc bộ lội núi cật lực 8 tiếng vào cột mốc này, nhưng họ vẫn xin với chỉ huy cho phép được lên điểm cực tây thiêng liêng của tổ quốc một lần, bấm một kiểu ảnh, để tìm nghe xem cái tiếng gà gáy ba nước cùng nghe kia có thật hay không. Cũng như Dũng, Cà, họ tự hào và hạnh phúc lắm, khi được đồn trú ở nơi này. Tôi cũng sững người, sau bao năm gắn bó nơi đây, giờ mới đến được cái vị trí đặc biệt này.
Đặt trang trọng trên bệ vuông lát đá granít rộng tới 36m2, cột mốc ngã ba biên giới A Pa Chải (thường gọi là mốc O) có chiều cao 2m, bằng đá hoa cương, hình lăng trụ, 3 mặt đá, mỗi mặt viết bằng chữ quốc ngữ và có quốc huy của mỗi nước (gồm Việt Nam, Trung Quốc và Lào). Bên ta điệp trùng rừng rậm, bên Trung Quốc từ cột mốc bước xuống là các bậc thang bêtông xây khang trang đi tít hút vào miền rừng khá nhiều cây cổ thụ, phía Lào là bạt ngàn các đồi cỏ tranh
< Dù đồn trú ở chính trạm biên phòng A Pa Chải (thuộc đồn 317), nhưng hai chiến sỹ biên phòng này vẫn ước ao được chụp một tấm ảnh bên cột mốc thiêng, để lưu giữ suốt đời và để... khoe với người thân.
Toạ độ đặt cột mốc được trạm trưởng Dũng ghi chép cẩn thận trong sổ tay, anh đọc và chúng tôi tiến hành dùng máy định vị toàn cầu GPS đo thử một lần nữa. Lễ chào cột mốc được Khuất Văn Dũng và Toán Chu Cà chấn chỉnh trang phục, đội mũ cối sao vàng, khoác súng AK, thực hiện trang nghiêm, kính cẩn. Họ lặng lẽ hô nghiêm, đứng chào, trong khi chúng tôi nín thở im lặng.
Đường về, người ngấm lạnh, các dốc núi hoang vu ngấm mưa trơn, dây thừng mang theo phát huy tác dụng khi buộc vào cây cổ thụ mà thi nhau trườn tụt dốc. Trạm trưởng Dũng gần 10 năm đồn trú A Pa Chải, nhưng hoá ra anh lại là người bị ngã nhiều nhất, bởi cây súng AK là "thủ phạm" làm anh mất thăng bằng trên các chặng luồn rừng, vượt dốc núi quá trơn trượt.
Tôi lặng lẽ bỏ một vài quả mơ ngọt vào miệng khi cảm giác mình đã đứt hơi, hai bắp chân đau như đang bị ai đó lóc thịt ra, để nhớ nhiều hơn những hương vị hoang sơ của núi rừng ngã ba biên giới. Quả mơ ngọt, ăn vào rồi thì uống nước suối bao giờ cũng thấy ngọt. Đó là lý do để người Thái có câu chuyện cổ, về một dân tộc thơ ngây ở Tây Bắc bị mất lãnh thổ của mình chỉ vì một quả mơ. Kẻ ngoại lai ấy đến, bảo họ có một dòng suối nước ngọt lắm, nếu đổi những cánh đồng và các bản làng kia cho họ, thì họ sẽ ban cho dòng suối kỳ lạ đó mà ngon ngọt mãn kiếp
Họ dẫn đi thật xa, rồi làm như tình cờ để những người tìm con suối quý ngồi kia nghỉ dưới gốc cây mơ ngọt và xơi vài quả. Thế là lúc đến một con suối bất kỳ, cả đoàn người thơ ngây vớt nước lên uống thử, nước ngọt lịm, lại có hương vị thơm là lạ. Càng uống càng ngọt. Vậy là cộng đồng người bản địa chất phác kia chấp nhận cắt, đổi lãnh thổ của mình cho kẻ ngoại lai nham hiểm.
Ngẫm thế, tôi chợt nhận ra cái chuyến lên địa đầu xa xôi cực tây tổ quốc này không chỉ là dã ngoại leo núi, không phải là đi để xác lập kỷ lục cho riêng mình hay gì gì đó, mà đích thực là một thứ hành hương với những trải nghiệm kỳ thú và mến thương về văn hoá, tộc người, về đất mẹ - với những con người lặng lẽ cho sự bình yên của xứ sở. Về cái giá của sự hoang sơ!
Các chiến sĩ biên phòng đứng trang nghiêm chào cột mốc số 0, sau nhiều giờ trèo núi liên tục
(Theo laodong)Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..
-
07-10-2011, 03:52 PM #17
Treo Mình Trên Đỉnh Lìm Mông..
Người dân tộc Mông thường xây cất nhà ở những ngọn núi rất cao và nguy hiểm. Nơi ít người có thể biết tới và dám leo lên khám phá.
Từ phía bên lưng của đèo Khau Phạ, con đèo hiểm trở mà ngày nay có rất ít xe cộ qua lại, chúng tôi dừng lại giữa lưng chừng trời để tận hưởng khung cảnh hùng vĩ toàn cảnh thung lũng Tú Lệ phía dưới chân đèo. Khau Phạ hay còn được gọi là Cao Phạ, nghĩa là Sừng Trời
Đứng từ bên đèo, theo tầm mắt thẳng phía trước, thấy một con đường như sợi chỉ mỏng vắt thẳng lên trời. Nơi xa tít tắp ấy có ngôi làng nhỏ mang cái tên Lìm Mông
Con đường càng khó càng thôi thúc cánh chạy bụi chinh phục cho bằng được. Trời sẩm tối, hai chiếc xe đến được chân đường lên trời, rồ ga phóng tới.
Con dốc dài tưởng chừng như được bôi mỡ trơn tuột. Đất đỏ vá đất sét quyện lại, cứng và trơn trượt. Chiếc xe gầm gừ cố lao lên con dốc cho bằng được.
Đường đã dốc lại còn không phẳng, gập ghềnh những khấc cao thấp khiến xe người ngồi xe tưởng như sắp nẩy ra ngoài. Người dân tộc chạy xe Win lao qua, con xe mang thương hiệu Trung Quốc mà máy khỏe, leo dốc khỏe.
Được một hồi thì cánh con gái phải xuống xe đi bộ vì xe không đủ sức cho hai người nữa. Hai đứa con gái leo lũng thững với mấy cô bé của làng Lìm Mông, trên cao này chỉ có duy nhất ngôi làng này nằm ở điểm cao nhất
Theo tập quán, người Thái thường chọn những nơi bằng phẳng, gần nguồn nước để sinh sống, trong khi người Mông lại chọn những đỉnh núi cao, thoáng mát để làm nơi chôn rau cắt rốn của mình. Thói quen làm rẫy du canh du cư vẫn còn dù đã được chính phủ hỗ trợ nhiều.
Người Mông xuất hiện đầu tiên ở Mèo Vạc, phía Hà Giang rồi di cư dần sang núi các tỉnh phía Bắc. Giờ thì số lượng người dân tộc này đã sánh ngang với Mèo Vạc.
Rải rác trên khắp đất Yên Bái, trên những rẻo cao, lưng chừng giữa mây trời, những bản làng vắt vẻo trên cao. Người ta phải leo rất cao mới tới được và những bản nằm tách biệt hẳn với xóm làng phía dưới. Tà Si Láng, Phình Hồ cho đến Chế Cu Nha, La Pán Tẩn rồi Lìm Mông, những cái tên mà khi nghĩ tới đã thấy ở xa lắm.
Chiều buông dần khi chúng tôi đến được với bản. Vài nếp nhà gianh nằm ẩn hiện sau mấy gốc đào, lũ lợn mọi đen trũi ì oạp ăn bữa tối. Trong nếp nhà của anh bạn trưởng bản, ấm áp quanh bếp lửa hồng. Nhà anh cũng như nhiều gia đình khác đều có tục cả nhà cùng sống dưới một nếp nhà. Gia đình anh có tất cả 26 người, là bố mẹ, anh chị em, rồi lập gia đình, con cái đều vui vầy.
Từ Lìm Mông, toàn cảnh thung lũng Tú Lệ hiện mờ ảo trong sương chiều. Ánh trăng bạc khiến khung cảnh thêm huyền ảo. Trong trời đất bao la, thấy con đường nhỏ xuống núi hun hút tấm mắt. Xuống được chân núi, chúng tôi ngồi lại bên cây cầu bắc qua suối, ngắm trăng và hưởng hương thơm của đất và lúa đang vào mùa gieo mạ.
Người Mông giỏi nghề làm ruộng. Những ruộng bậc thang nổi tiếng trên khắp cả nước đều nằm tại xứ Mù Cang Chải. Thung lũng Tú Lệ nổi tiếng với gạo nếp và gà đồi. Ai qua đây cũng ghé lại ăn bát xôi nếp nương và mang dăm ba cân gạo về làm quà.
Đến mùa lúa, người ta sẽ ngẩn ngơ trước một vẻ đẹp không hai của những cánh đồng bậc thang, những thành quả lao động tuyệt vời của bà con dân tộc Mông suốt một năm trời.
(Theo Citilink)Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..
-
07-10-2011, 04:11 PM #18
Trên Đỉnh Lìm Mông..
Tháng 9, Tây Bắc bạt ngàn lúa và lúa, chỗ này còn xanh, chỗ kia đã chín vàng, chỗ khác đã kĩu kịt tay liềm, quang gánh. Tháng 9, khi những cơn gió se đầu tiên mang theo hương hoa bưởi vào phố, tôi lại nhớ những ngày lang thang và giây phút đứng trên đỉnh Lìm Mông, xã Cao Phạ, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái.
Đã bao lần tôi dừng chân trên đèo Khau Phạ, cùng bạn bè chỉ về phía con đường đất đỏ vạch một nét dài quanh co trên lưng núi ở bên kia thung lũng, bảo nhau: nhất định sẽ có ngày mình đi về phía ấy!
Thu Cúc, Văn Chấn, Nghĩa Lộ, Tú Lệ... những địa danh đã thuộc nằm lòng trên quốc lộ 32 qua vô vàn chuyến đi hướng lên Tây Bắc, hôm nay thêm một lần lại được điểm danh trong một hành trình.
1 - Chuyến đi cuối tuần khá vội. Nắng lên lấp lánh trên những đồi chè Thanh Sơn trải dài thơm ngát hai bên đường. Đám trẻ tan học tíu tít đạp xe với chiếc ghế nhựa xanh đỏ lúc lắc sau yên. Những vành nón nhấp nhô giữa biển chè xanh ngút mắt. Chỗ này hái chè bằng tay, chỗ kia ngắt chè bằng máy, ai nấy đều hối hả giữa cái nắng cuối hè còn sót lại.
Thở một hơi thật dài, khoan khoái, những bụi bặm mệt nhoài của thành phố đã ở lại sau lưng, rất xa. Trái tim rộng mở thêm ra để đón những cơn gió trong trẻo mát lành nơi miền trung du Phú Thọ, bất chấp mặt đường đang nóng ran dưới ánh mặt trời
Chúng tôi vượt đèo Khế một cách dễ dàng. Con đường nhọc nhằn năm nào giờ đã trải nhựa đường to đẹp. Vừa ở chân đèo bên Thu Cúc (Phú Thọ) thoắt cái đã đứng trên đất Văn Chấn (Yên Bái). Núi rừng trải ra hùng vĩ, những thung lũng lúa vào mùa ngút ngát dập dờn như cánh sóng. Cảm giác đổ đèo, vào cua thật sảng khoái, tựa những kỵ sĩ đang lang thang bay bổng trên kỵ mã thời xa lắc
Dừng chân trên đèo Khau Phạ ngắm thung lũng Cao Phạ bát ngát trong màu lúa, bốn bề là núi giăng thành, những dãy núi uy nghi và tráng lệ như ý nghĩa của chính cái tên Khau Phạ - “Sừng Trời”.
Chúng tôi từng hội ngộ bạn đồng hành trong chuyến đi, từng tíu tít “súng, ống” (một cách gọi vui máy ảnh) để ghi dấu bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp miền tây Yên Bái, nhâm nhi ly cà phê ấm sực trên đỉnh đèo gió lộng, ngồi miên man trên thành taluy và tay siết chặt tay bạn đồng hành.
Đã có nhiều cảm xúc, những kỷ niệm ở một chốn mà khi căng mắt qua bên kia thung lũng, có một con đường và những mái nhà cứ hút dần, hút dần nơi cuối trời. Phía ấy là Lìm Mông.
2 - Phải vòng đi vòng lại một lúc chúng tôi mới tìm thấy con đường đi về phía thung lũng, nối Lìm Thái với Lìm Mông, cạnh một vách núi có hang đá khá lớn. Lìm Thái là bản của người Thái, nằm gần quốc lộ, ngay bên bờ suối Nậm Có, theo đúng tập tục định cư và sinh sống của người Thái, ở gần nguồn nước.
Những ngôi nhà sàn bản Lìm Thái nằm rải rác bên đường, nhất là đoạn đã bêtông hóa. Nhưng ở bên kia con suối đi lên bản Lìm Mông vẫn là con đường đất đỏ, sống trâu, sống ngựa nhập nhằng.
Cả nhóm vừa chạy xe vừa vẫy tay chào mấy cô gái Thái đang đứng bên nhà sàn hong tóc, chải đầu, phơi sợi nhuộm trên bờ rào ống tre. Suối Nậm Có mùa này khá cạn, đá cuội nằm lổn nhổn vẫn không ngăn được những chiếc xe Win của trai bản phóng ào qua. Chúng tôi rón rén chạy xe qua cây cầu bằng phên tre rộng khoảng 1m vì không muốn băng qua suối. Mấy anh bạn Mông thấy vậy cười “phán” tay lái thanh niên người Kinh “chưa tinh luyện”.
Những chiếc xe như phiêu giữa một biển lúa mênh mang bát ngát, dập dồn. Hương lúa mới dịu ngọt như xua tan cái nắng hanh khô gay gắt. Những cánh lúa dài, trĩu hạt, xanh mướt. Lúa cấy một mùa đang mang trên mình tấm áo của trù phú và ấm no
3 - Lìm Mông là bản của người Mông. Đường lên Lìm Mông dốc ngược, nếu cắm biển báo chắc biển nào cũng trên 10 độ. Con đường đất đỏ, bụi mờ trong nắng khô, vào ngày mưa hẳn sẽ là một thách thức đáng sợ cho các tay lái. Những góc cua vừa gắt vừa dốc đến mức chiếc xe như muốn trôi tuột lại phía chân dốc.
Nhọc nhằn, nhưng đáng giá, khi cứ đi một đoạn lại phải dừng để nhìn ngược về phía Cao Phạ, về biển lúa đã nhìn không biết bao nhiêu lần từ phía quốc lộ 32. Hôm nay, vẫn biển lúa ấy mà từ phía Lìm Mông nhìn về sao thấy lạ, như ai đó vừa nghiêng đi bức tranh và mở ra những góc nhìn mới mẻ đến bất ngờ.
Chúng tôi dừng xe chơi với mấy đứa trẻ bên bờ ruộng được kè đá vững chắc, tranh thủ đi “thăm” lúa. Một người đàn ông Mông cùng gia đình đang hì hục chở gỗ từ dưới Lìm Thái lên bằng chiếc xe Win, từng chuyến, từng chuyến nhọc nhằn. Người Mông có thói quen sống trên núi cao bởi tính kiêu hãnh như chim đại bàng, muốn sống tự do giữa đất trời.
Khi người dưới xuôi càng tiến lên gần, người Mông sẽ dời nhà lên phía đỉnh núi cao hơn nữa. Không biết có phải vì thế mà bản Lìm Mông càng đi càng thấy chênh vênh lơ lửng trên “Sừng Trời”?
Trên đỉnh Lìm Mông. Tấm áo của núi rừng được điểm tô bằng màu xanh chen vàng, màu của sự no đủ. Mênh mông đến choáng ngợp, mộc mạc đến chơi vơi, yên lành đến lặng lẽ. Lặng lẽ như tôi khi ngồi trên vách núi đang xẻ đường dang dở thu vào trong ký ức vẻ đẹp của Tây Bắc, của Cao Phạ từ góc nhìn Lìm Mông.
Vẻ đẹp ấy chắc năm nào cũng đủ đầy và ấm áp, như khoảnh khắc siết tay bạn đồng hành, đã mãi mãi ở lại với Lìm Mông.
(Theo dulich Tuổi Trẻ)Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..
-
08-10-2011, 07:01 PM #19
Mùa lúa Chín Trên Rẻo Cao..
Cứ mỗi độ thu về, các cung đường trên rẻo cao phía bắc lại tấp nập người, xe hơn bình thường. Bởi đó là khi những thung lũng rộng lớn với những thửa ruộng bậc thang kỳ vĩ bỗng rực lên sắc vàng mê mải của lúa chín.
Năm nào cũng vậy, cứ khoảng tháng 9 – 10 dương lịch, khi lúa dần ngả vàng trên những thửa ruộng bậc thang, cũng là lúc dân phượt, dân chơi ảnh... ngược đường lên vùng cao phía bắc, tới những nơi heo hút, tận cùng, như Tú Lệ, Mù Căng Chải, Than Uyên, Sa Pa, Tả Giàng Phình, Ý Tý, Hoàng Su Phì.
Mùa lúa chín cũng là lúc các cán bộ Phòng Nông nghiệp Ý Tý, Mù Căng Chải... bận rộn hơn bình thường. Bởi thỉnh thoảng lại có những cú điện thoại của những người chả hề quen biết dưới xuôi gọi lên, hỏi thăm xem lúa đã chín chưa.
Đây cũng là lúc các diễn đàn du lịch, chụp ảnh... xôn xao với những thông tin về lúa chín, về mùa gặt, chỉ dẫn đường đi, địa điểm ăn nghỉ, tìm bạn đồng hành... theo những cung đường lúa chín
Những điểm hội ngộ quen thuộc của dân “săn” lúa chín nối nhau thành một tuyến nối dài các thửa ruộng bậc thang, các cánh đồng, thung lũng lúa nổi tiếng, từ Tú Lệ, Mù Căng Chải (Yên Bái) vòng qua Than Uyên, Sa Pa, ngược lên Tả Giàng Phình, Ý Tý (Lào Cai) hoặc vượt núi sang Quản Bạ, Hoàng Su Phì (Hà Giang)... Hầu như các tỉnh vùng cao phía bắc và tây bắc đều có ruộng bậc thang.
Lúa trồng mỗi năm chỉ một vụ, lại gieo không đều, nên chín cũng không đều. Lúa ở Sa Pa, Quản Bạ thường chín sớm hơn các vùng khác, rồi tới mùa gặt ở Mù Căng Chải kéo dài cả tháng, muộn nhất là mùa lúa ở Hoàng Su Phì. Thế nên có những kẻ mê lúa chín đến mức cứ cuối tuần là lại lang thang trên những con đèo vắt ngang những dãy núi kỳ vĩ. Tuần này ở Sa Pa – Mù Căng Chải, tuần sau lại Sa Pa – Ý Tý, rồi tuần sau nữa là Hoàng Su Phì..., chỉ để được chiêm ngưỡng bằng hết những thảm lúa vàng trải khắp các triền núi cao ngút ngàn
Tôi cũng vậy, mỗi mùa lúa chín, tôi tốn thêm không ít tiền điện thoại, hỏi han khắp nơi, chỉ để rình cho được lúc lúa chín đẹp nhất. Gần như năm nào cũng đi, cùng một cung đường, cùng một nơi dừng chân, thậm chí cùng một góc chụp ảnh, vậy mà vẫn không thấy chán. Cứ mỗi lần đang băng băng đổ đèo, thoáng thấy hương lúa mới vấn vít trong gió, lại thấy náo nức, rộn ràng, lại hối hả giục nhau chạy xe thật nhanh. Rồi khi con đường đèo đang hun hút giữa hai dãy núi cao sừng sững bỗng rộng mở thênh thang, trải dài một biển lúa vàng dập dờn như cánh sóng, lại thấy vỡ òa sung sướng, tựa như lần đầu tiên được chiêm ngưỡng khung cảnh kỳ vĩ này
Lần nào chúng tôi cũng mê mải ngắm nhìn và tự hỏi nhau, sao trong cùng một thung lũng mà sườn núi bên này lúa vẫn còn xanh, sườn núi bên kia lúa đã chín vàng óng ả. Có những lúc mơ màng nghĩ đến cảnh mình được đứng giữa đồng lúa trải dài như tấm thảm mịn màng giữa thung lũng bao la. Có những lúc cả nhóm bỏ xe lại ven đường, trèo xuống thửa ruộng gần nhất, để cùng gặt lúa, đập lúa trong tiếng nói cười ríu rít hoà cùng niềm vui được mùa của các chàng trai, cô gái người Thái, người Mông
Khi những cung đường đã trở nên quen thuộc, những người tò mò và liều lĩnh nhất lại mở ra những cung đường mới, ở sâu khuất sau những dãy núi cao ngất tận mây trời, tìm đến những cánh đồng, những bậc thang lúa cách trở, hẻo lánh hơn, nhưng cũng đẹp hơn, hoang sơ hơn. Những cái tên xa lạ như Lìm Mông, Chế Tạo (Yên Bái), Mường Chiến (Sơn La), Dền Thàng, Ngải Thầu (Bát Xát, Lào Cai)... là những cung đường thử thách tay lái và là niềm mơ ước của những kẻ mê đắm cảnh mùa vàng miền sơn cước.
Đã bao lần, tôi cùng những người bạn đồng hành dừng chân trên đèo Khau Phạ, vừa nhâm nhi ly càphê thơm mùi... lúa chín mà cả lũ vừa hì hục nổi lửa tự pha giữa đỉnh đèo, vừa mơ màng nhìn xuống thung lũng vàng óng ả giữa bốn bề núi cao sừng sững. Cũng đã bao lần về nhà xem lại những bức ảnh giống hệt nhau, tôi tự bảo mình: Thôi, không đi nữa. Nhưng rồi, mỗi mùa lúa chín, tôi lại muốn được ngắm nhìn mê mải theo những bậc thang vàng bắc lên tận trời xanh, lại được uống ly càphê quyện hương lúa giữa đỉnh đèo lồng lộng gió và nắng. Thế nên năm nay, tôi lại đi, lại lên rẻo cao Tây Bắc mùa lúa chín
(Theo báo lao động)Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..
-
08-10-2011, 07:12 PM #20
Những Kiểu Cầu Hôn Độc Đáo Trên Vùng Cao Tây Bắc..
Việt Nam có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống với bản sắc văn hóa vùng cao ít nơi nào có được, vì thế luôn hấp dẫn khách du lịch xa gần. Mùa cưới, xin kể với bạn đọc vài nét về những kiểu cầu hôn có một không hai của thanh niên dân tộc ít người ở nơi này.
Có con rồi mới… cưới vợ
Người dân tộc Hà Nhì là một trong những dân tộc ít người ở nước ta. Nơi họ sinh sống là vùng đất biên giới Lai Châu và Lào Cai. Trai gái dân tộc này có phong tục trùm kín chăn khi hát giao duyên tình tự với nhau mỗi khi trong bản có lễ hội. Có lẽ do miền đất họ sống gần như quanh năm giá lạnh, có nhiều mùa đông tuyết phủ trắng núi rừng, nếu không có chăn ấm làm sao mà họ ngồi lâu tâm tình với nhau được?
< Lễ Hội Cô Gái Hà Nhì: các cô đầu đội chiếc mũ màu trắng, mặc quần soóc ngắn, lưng thắt trang súc bạc, dùng tiếng hát, điệu múa tìm bạn tình trong núi rừng.
Nhưng có một lý do nữa, đó là phong tục người Hà Nhì không cho người khác nhìn thấy con trai giao duyên với con gái. Trùm chung chăn kín nhưng họ vẫn giữ được ranh giới nhất định, bởi vì luật tục của người Hà Nhì rất khắt khe với những cô gái chưa chồng.
Thanh niên Hà Nhì được tự do kết hôn, nếu bạn gái yêu mình thì chàng trai dẫn về nhà thưa chuyện với cha mẹ xin cưới làm vợ. Cả nhà đồng ý thì làm lễ trước bàn thờ “kính cáo” với tổ tiên gia đình mình có cô con dâu mới. Nhà chú rể làm cỗ mời cả họ hàng và dân bản tới cùng vui. Nếu có điều kiện thì nhà trai mang sang cho nhà cô dâu: một số tiền mặt (trước đây là mấy đồng bạc trắng, nhiều năm gần đây là tiền mặt), một con lợn khoảng 50 cân, 50 lít rượu trắng, đôi gà sống, cùng xôi nếp và trứng chia đều làm hai gói… Ðây là lần cưới đầu tiên của trai bản Hà Nhì đối với vợ mình. Người vợ từ đó trở đi phải mang họ nhà chồng
Khi có con hoặc kinh tế gia đình khá giả thì người chồng phải tổ chức đám cưới lần thứ hai… với chính vợ mình. Có phải do tìm hiểu kỹ trước khi kết hôn hay vì phong tục hôn nhân của người Hà Nhì chặt chẽ, mà vợ chồng các gia đình của dân tộc này rất ít khi ly hôn?
Sau hai lần ăn hỏi…mới được kết hôn
Ðó là phong tục đối với người con trai dân tộc Dao Ðỏ. Sau khi để ý từ phiên chợ hay lễ hội của bản làng, nếu thích cô nào thì chàng trai về nói với bố mẹ đi tới nhà gái hỏi tuổi người mình yêu. Nếu hợp tuổi nhau thì gia đình chàng trai trao cho nhà cô gái đồng bạc trắng. Nhà gái dù muốn gả hay không, thì lần xin hỏi đầu họ cũng đều từ chối nhận đồng bạc trắng ấy.
Một thời gian sau, nhà trai lại tới xin ăn hỏi lần hai, nếu ba ngày sau đó mà không thấy nhà gái đem trả đồng bạc trắng, thì nhà trai biết chắc họ đã đồng ý gả con cho nhà mình. Gia đình chàng trai chọn ngày lành tháng tốt để mang lễ vật tới nhà cô gái bàn ngày cưới.
Sau lễ ăn hỏi chính thức, cô dâu tương lai được gia đình tạo điều kiện để có nhiều thời gian nhàn rỗi trong một năm để dệt may, thêu thùa hai bộ quần áo cưới từ số vải và chỉ thêu do nhà trai đưa tới hôm lễ ăn hỏi chính thức.
Nổi bật nhất trong đám cưới của người Dao Ðỏ là trang phục của cô dâu với chiếc khăn đỏ lớn trùm đầu lên chiếc mũ đỏ mầu cờ, đính nhiều nụ hoa tết từ len đỏ, cài xen những lắc nhạc đồng xinh xinh. Mũ áo của cô dâu người Dao Ðỏ là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo về sắc mầu và sự tinh sảo trong từng đường thêu hoa văn thổ cẩm truyền thống.
< Duyên dáng Hà Nhì.
Ðã có khá nhiều tác phẩm văn học – nghệ thuật mô tả vẻ đẹp hiếm có của trang phục phụ nữ Dao Ðỏ. Ðặc biệt là phong tục mời cưới của họ thay thiếp mời hồng bằng giấy là hai đồng tiền xu bằng kẽm cổ truyền, đó là biểu tượng gắn bó cả đời giữa cô dâu và chú rể. Người được mời dự cưới phải trả lại hai đồng tiền xu trên khi đi dự cưới và mừng cô dâu chú rể đồng tiền giấy (giống nhau về giá trị và giống nhau cả về hình thức, đựng trong phong bì kín), thí dụ mừng hai tờ 20 nghìn đồng hoặc hai tờ 50 nghìn đồng…
Cùng họ… không được phép lấy nhau
Người dân tộc Mông ở Tây Bắc, dù là dân tộc Mông hoa (Mông Lênhx), Mông trắng (Môngz đơưz), Mông đen (Mông đuz), dù mang họ gì (thí dụ họ Giàng, họ Tráng, họ Thào, họ Cư, họ Má, họ Lừu…) trai gái yêu nhau mà phát hiện ra cùng có họ giống nhau, dù họ xa bao nhiêu đời đi nữa, cũng không được phép lấy nhau.
Xưa kia người Mông có tục cướp vợ, có lẽ vì thế không ít cô gái đã bị bắt ép làm vợ, còn ngày nay trai gái của dân tộc này được phép tự do kết hôn, còn có bắt thì giả vờ bắt cho vui mà thôi
< Trò chơi Pa lu gư (nhảy dây) của trai gái Hà Nhì.
Theo phong tục truyền thống của người Mông, đã là cùng mang tên họ giống nhau thì đều coi là có chung tổ tiên, coi nhau như họ hàng và có thể sinh con hoặc chết ở nhà người cùng họ.
Chú rể người Mông ở huyện Bát Xát còn thực hiện một phong tục đặc biệt sáng ngày mồng một Tết Nguyên đán. Ðó là phải tự nguyện làm tất cả mọi việc cho gia đình, từ nấu cỗ cho đến rửa bát, chăn gà lợn… Sau đó khách quý đến chơi nhà, người vợ chủ động làm cơm mời khách, chồng và khách uống rượu càng say thì người vợ càng vui. Các bà vợ rất vui vì họ được coi là người hiếu khách và rất yêu quý chồng. Thế mới có chuyện thật như đùa. Có ông chồng đêm đến lấy váy thổ cẩm mới mua của vợ đắp cho bạn ngủ sau tiệc rượu khuya, mà người vợ vẫn không phàn nàn gì
(theo BND)Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..
Dạo Bước Đèo Ngang..
Đánh dấu