Warning: Illegal string offset 'name' in [path]/includes/functions.php on line 6845
Những Thắng Cảnh Tâm Linh..
Close
Login to Your Account
Trang 1 của 4 123 ... CuốiCuối
Kết quả 1 đến 10 của 32
  1. #1
    Ngày tham gia
    Nov 2010
    Bài viết
    1,032
    Post Thanks / Like

    Mặc định Những Thắng Cảnh Tâm Linh..

    Ngôi Chùa Bà Trên Đất Thăng Long



    Chùa Bà Đá, Bà Ngô, Bà Tấm... mỗi chùa có một tích riêng và ít nhiều gắn với một người phụ nữ hoặc một sự kiện đáng nhớ trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
    .
    Chùa Bà Ngô

    Chùa Bà Ngô còn gọi là chùa Ngọc Hồ, nằm ở số 128 phố Nguyễn Khuyến, phường Văn Miếu. Tương truyền, vào đời nhà Lê, có một người con gái đẹp lấy chồng là một nhà buôn người Hoa giàu có, bà đã bỏ tiền ra xây dựng lại ngôi chùa này to đẹp hơn chùa cũ, do đó mới có tên Bà Ngô (Ngô Khách). Tên Ngọc Hồ thì dựa theo phép phong thủy bởi người ta cho rằng thế đất của chùa trông giống như một cái hồ rượu.
    Chùa được sửa chữa và làm mới qua nhiều năm như 1863, 1864, 1865... Và vào năm Ất Hợi (đời vua Bảo Đại, tức 1934), chùa được sửa chữa lớn nên đã có câu đối (tạm dịch): "Không nhớ tháng Bà Ngô sửa chữa/Chỉ biết năm Bảo Đại khánh thành".

    Đây cũng là ngôi chùa gắn với huyền tích vua Lê Thánh Tông thăm chùa gặp tiên. Chuyện kể rằng, vua Lê Thánh Tông đến chùa gặp một thiếu nữ xinh tươi cầm một cành mẫu đơn ngâm mấy câu như sau: “Bà Ngô Phong cảnh xinh thay/Đố ai cắt mối sầu này cho xong/Bao giờ về tới ngự cung/Thì ta sẽ dải tấm lòng cho hay”.

    Vua bèn gặp hỏi chuyện và muốn cùng nàng xướng họa. Nàng nhường vua làm trước, lấy đề bằng 2 câu thơ nàng vừa ngâm. Vua làm bài thơ Đường luật 8 câu trong đó có 2 câu: “Chày kình mấy khắc tan niềm tục/Hồn bướm năm canh lẩn sự đời”. Nàng xin phép sửa lại là: “Gió xuân đưa kệ tan niềm tục/Hồn bướm mơ tiên lẩn sự đời”.
    Vua rất phục, mời nàng lên kiệu về cung, nhưng đến cửa Đại Hưng thì nàng biến mất. Vua cho là tiên giáng trần, dựng lầu Vọng Tiên ở đây để tưởng nhớ…



    Chùa Bà Tấm

    Chùa được xây dựng thời Lý, nằm trên thôn Sóc, xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Sự ra đời của nó gắn với Nguyên phi - Hoàng thái Hậu Ỷ Lan triều nhà Lý. Nguyên phi Ỷ Lan vốn là người Dương Xá. Sau khi nhập cung bà có nhiều đóng góp cho giang sơn, xã tắc. Vốn giỏi việc trị nước, lại còn tài khiến nhân tâm hoà hợp, đất nước thanh bình nên nhân dân sùng Phật, tôn bà là Phật Bà Quan Âm.

    Chùa Bà Tấm được lập ra vì bà sinh ra từ đất này. Năm 1117, khi bà qua đời, ngôi đền thờ bà cũng được xây dựng tại đây. Hiện, chùa Bà Tấm còn lưu giữ nhiều di vật quý mang ý nghĩa lịch sử - văn hóa



    Chùa Bà Già

    Chùa Bà Già nằm trên làng Phú Gia, phường Phú Thượng, quận Tây Hồ. Sở dĩ chùa mang tên Bà Già bởi trên mảnh đất này, xưa có ngôi chùa An Dưỡng tọa lạc. Do bị hư hại nặng, có hai chị em gái chuyên nghề buôn muối, đã phát tâm bồ đề bỏ tiền ra xây dựng, tu sửa lại chùa, tạc tượng Phật, dựng gác chuông đồng. Khi hai bà mất đi, để tỏ lòng biết ơn, dân trong vùng đã đúc tượng hai bà và rước vào chùa thờ, gọi là tượng hậu Phật, từ đó chùa được gọi là chùa Bà Già.

    Chùa hiện toạ trong một khuôn viên không rộng, cây cối xum xuê, không khí trong lành, yên tĩnh. Sáng sáng tiếng chim hót trên cây hồng xiêm trước sân làm cho ngôi chùa càng thêm gần gũi.

    Đặc sắc nhất tại chùa chính là hai pho tượng Bà Già. Pho tượng bà chị được đúc to hơn, trong tư thế ngồi một chân gập, một chân chống, tay phải úp lên đầu gối, tay trái để vào lòng. Ngồi bên cạnh là bà em, ngồi xếp bằng, cả hai tay đều để trên lòng, trong tư thế một người mẹ luôn cầu mong cho mọi người an khang thịnh vượng, sẵn mở lòng nhân ái. Đặc biệt là khuôn mặt của hai bà tròn trịa, hiền lành, phúc hậu, nhưng không giấu nỗi suy tư. Từ thời Lê, chùa Bà Già đã có qui mô bề thế và nổi tiếng kinh thành Thăng Long xưa. Nay trở là điểm văn hóa tâm linh của người dân Thủ đô


    Bà Đanh

    Chùa Bà Đanh toạ lạc tại số 199B phố Thuỵ Khê, quận Ba Đình. Tương truyền, chùa do vua Lê Thánh Tông cho xây dựng để làm chỗ ở cho những người Chiêm Thành được đưa về sau các cuộc chiến tranh.

    Chùa được xây dạng thiền viện, vừa là nơi lễ bái, vừa là nơi nghiên cứu. Nằm bên bờ Nam của hồ Tây, chùa ban đầu có tên gọi là Thiền viện Châu Lâm. Sau khi người Pháp chiếm đóng Hà Nội, họ đã sử dụng khu đất này để lập trường Trung học Bảo hộ (1907), khi đó, chùa Châu Lâm được dời về phía Tây Nam và được đổi lên là chùa Phúc Lâm.

    Hiện nay, các nhà nghiên cứu vẫn không giải thích được lí do tên gọi chùa Bà Đanh. Thế nhưng dấu tích của chùa hiện nay vẫn còn được lưu giữ qua tấm bia Bà Đanh tự.

    Chính bởi ban đầu được xây dựng cho bộ phận người Chiêm Thành (người Chăm) ở, thờ cúng và lễ bái nên tín đồ phật tử bên ngoài đến đây không nhiều. Sau khi chùa được chuyển về địa điểm mới, khách thập phương lại càng ít viếng thăm nên cảnh chùa đã heo hút lại càng heo hút hơn. Đó phải chăng là lý do người ta ví "vắng như chùa Bà Đanh"?



    Chùa Bà Đá

    Chùa Bà Đá có tên chức là Linh Quang tự hay Sùng Khánh tự, nằm ở số 3 phố Nhà Thờ. Chùa được xây dựng đời Lý Thánh Tông, trên nền tháp Báo Thiên nổi tiếng của kinh thành Thăng Long xưa.

    Chùa vốn là trường sở của Lâm Tế tông. Hiện chùa là trụ sở chính Thành hội Phật giáo Hà Nội. Trong chùa có Trường Trung cấp Phật học Hà Nội. Tại chùa hằng năm vẫn thường xuyên là nơi tổ chức các buổi lễ của Thành hội Phật giáo Hà Nội.

    Chuyện kể rằng, khi đào đất đắp thành Thăng Long vào đời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) ở làng Báo Thiên Tự Tháp (khu vực Nhà thờ Lớn ngày nay), một người dân đã đào được một pho tượng bằng đá hình dáng một phụ nữ cho là thánh mẫu nên đã lập đền thờ ngay tại nơi đào được tượng và gọi là đền Bà Đá. Sau dân làng thấy linh thiêng mới góp công, góp của xây thành chùa lớn, đón sư về trụ trì và thờ Phật. Vì vậy, chùa có tên là chùa Bà Đá và tên chữ là Linh Quang tự.

    Một số tài liệu khác lại cho rằng, vào thời Pháp thuộc, đền bị cháy và pho tượng đá bị mất trong vụ cháy. Sau đó đền được làm lại và chuyển thành chùa và tạc một pho tượng Phật Thích Ca bằng đá thay thế tượng Bà Đá cũ, chùa mang tên mới là Linh Quang Tự. Bởi vậy không còn nhiều vẻ cổ kính, chỉ còn một số di vật như hai cái chuông đúc năm 1873 và năm 1881, một khánh đồng đúc năm 1842 đều thuộc thời nhà Nguyễn.

    Chùa có tiền đường xây theo kiểu chữ nhất, trung đường xây theo kiểu chữ đinh, được nối liền với nhau, tạo nên một khối kiến trúc vuông vắn. Trong chùa có nhiều tượng gỗ. Chùa nằm trên một con phố nhỏ và dài chỉ vài trăm mét nhưng hiện diện cả hai hệ ý thức tín ngưỡng Phật giáo và Thiên chúa giáo.

    Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh có đến thăm chùa Bà Đá và nói chuyện với các thượng tọa, tăng ni, phật tử. Trong cuộc gặp, Bác nói: "Việc Phật không xa rời việc thế gian, phải tham gia vào các công việc cách mạng, cứu đói, cứu dốt"..

    (Theo Đất Việt)
    Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..

  2. #2
    Ngày tham gia
    Nov 2010
    Bài viết
    1,032
    Post Thanks / Like

    Mặc định Lăng Đá Cổ Hiệp Hòa





    Các triều đại phong kiến của Việt Nam đã để lại khá nhiều di sản kiến trúc có giá trị, trong đó có hệ thống lăng mộ làm bằng đá của các bậc quan lại. Hiện nay, ở huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang vẫn còn lại 26 khu lăng mộ thuộc loại này và đã sớm được công nhận là Di tích Văn hóa cấp Quốc gia, điển hình như lăng Dinh Hương, lăng họ Ngọ...

    < Hương án và cổng vào phần mộ chính của lăng họ Ngọ.

    Lăng họ Ngọ (còn gọi là Linh Quang từ) được xây dựng vào năm Chính Hòa thứ 18 (1697) ở làng Thái Thọ, xã Thái Sơn, huyện Hiệp Hòa. Đây là nơi lưu giữ di hài Quận công Ngọ Công Quế, một võ quan nổi tiếng dưới triều vua Lê Hy Tông (1676 - 1705). Lăng được xây khi Quận công Ngọ Công Quế còn sống



    < Tượng người và ngựa đá đứng chầu ở lăng họ Ngọ.

    Lăng xây bằng loại đá muối và đá ong lấy từ núi Y Sơn, xã Hòa Sơn, cách đó khoảng 1,5 km. Tổng diện tích khuôn viên khu lăng mộ đá khoảng 400 m2.



    < Một trong hai con sấu đá của lăng họ Ngọ được chạm trỗ công phu theo lối cách điệu "sừng nai, tai nghé, trán lạc đà, mắt quỷ, mũi sư tử".


    Lăng hình chữ nhật, cửa hướng về phía Nam, phía trước có ao hình chữ nhật, bốn phía trước kia có tường xây bằng đá ong. Cổng dẫn vào lăng xây kiểu vòm cuốn.



    < Tượng voi đá ở lăng họ Ngọ có hình dáng ngộ nghĩnh với ngà ngắn như búp măng và vòi cuộn vào mồm như đang ăn mía.


    Hai bên cổng có 2 con chó đá. Qua cổng lăng, trên khu đất trước mộ phần, hai bên có 2 dãy tượng đá đứng chầu uy nghiêm.



    < Một trong hai con nghê đá còn khá nguyên vẹn trước hương án lăng họ Ngọ..

    Đặc biệt, trong lăng có đôi voi đá được tạc ở tư thế quỳ, vòi cuộn gập lên miệng trông rất đẹp. Ngoài ra còn có đôi ngựa bằng đá có dáng cân đối, khỏe, đẹp. Đôi nghê đá trong tư thế đứng, râu cằm xoắn, đầu to, bờm ngắn. Đôi cá sấu đá miệng mở rộng để lộ viên ngọc lớn, thân, lưng và đuôi cùng 4 chân được chạm trổ công phu... điển hình cho nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc trang trí thời Lê-Mạc.



    < Hai bên hương án trước mộ phần võ quan thủy binh La Đoan Trực là hai con nghê đá ngồi chầu.


    < Một trong hai bức tượng đá đứng chầu phía trong cửa lăng Dinh Hương.

    Rời lăng họ Ngọ, chúng tôi đến làng Dinh Hương, xã Đức Thắng, thị trấn Thắng, một địa danh nằm cách khu lăng họ Ngọ khoảng 1,5 km về hướng Tây Nam.

    Ở đó có quần thể khu lăng Dinh Hương bằng đá xanh rất hoành tráng được xây dựng vào năm 1729, tức dưới triều Lê Trung Hưng (1533 - 1788). Lăng Dinh Hương rộng khoảng 300m2, nằm trên một quả đồi thấp tròn, mặt ngoảnh về hướng Đông, xưa có tường đá ong bao quanh. Lăng Dinh Hương là nơi an nghỉ của vị võ quan thủy binh La Đoan Trực (1688-1749).



    < Tiền sảnh khu mộ võ quan thủy binh La Đoan Trực ở lăng Dinh Hương.

    Quần thể lăng đá Dinh Hương chia làm 3 phần chính: Phần mộ táng ở giữa, phần thờ tự ở bên trái, phần bia ở bên phải. Lăng đá có hệ thống tượng người và thú vật tạc bằng đá xanh, kích thước lớn, hình khối mập, chắc, chạm tỉa công phu. Trong lăng có 2 bức tượng đá tạc hình hai vị võ tướng dắt ngựa đứng chầu đối diện nhau



    < Hai pho tượng đá hình võ quan dắt ngựa được xem là kiệt tác nghệ thuật điêu khắc đá của người Việt xưa.



    < Một trong hai con voi đá trong tư thế nằm phủ phục trước tiền sảnh mộ võ quan thủy binh La Đoan Trực.

    Cặp tượng này được coi kiệt tác của nghệ thuật chạm khắc đá của người Việt xưa. Tượng võ quan đeo gươm dắt ngựa phía bên trái râu dài, mặt nhỏ; võ quan đeo gươm dắt ngựa phía bên phải mặt to, hàm rộng. Toàn bộ hình khối tượng được chạm khắc công phu làm toát nên vẻ đạo mạo, phi phàm.


    < Một trong hai bức tượng đá hình người hầu nữ đứng bên mộ phần võ quan thủy binh La Đoan Trực.

    Phía trước mộ phần có một khoảng sân rộng bằng gạch. Trên sân, ngoài cùng có đôi tượng voi bằng đá trong tư thế phủ phục trông hiền lành, thuần phục.

    Vào phía trong một chút, ngay hai bên hương án là hai con nghê đá trong tư thế ngồi, mặt ngửa lên trời cao. Toàn thân nghê đá là một lớp lông hình vảy rồng, đầu phủ bờm dài được chạm khắc tuyệt đẹp. Phía trong cùng, hai bên mộ phần có hai tượng nữ quan đứng hầu mang vóc dáng và dung mạo sống động như nguyên mẫu đời thường.





    < Phần mộ táng được xây bằng đá ong hình vuông.


    Trải qua thời gian, những pho tượng đá ở các khu lăng mộ này vẫn còn khá nguyên vẹn và tuyệt đẹp như xưa, như minh chứng cho một thời kì vàng son của kỹ thuật điêu khắc đá của người Việt

    (Theo VietNamNet)
    Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..

  3. #3
    Ngày tham gia
    Nov 2010
    Bài viết
    1,032
    Post Thanks / Like

    Mặc định Vĩnh Tràng Cổ Tự..



    Chùa Vĩnh Tràng là một trong những ngôi chùa cổ nhất ở miền Tây Nam Bộ. Chùa tọa lạc tại xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Sau bao biến thiên của thời gian và thăng trầm của lịch sử, ngôi chùa vẫn đứng sừng sững với vẻ uy nghi riêng của mình.

    Vào khoảng đầu thế kỷ XIX, sau khi cáo quan, tri huyện Bùi Công Đạt phát tâm nguyện xây cất một thảo am để tu dưỡng tinh thần. Sau khi ông mất, hòa thượng Huệ Đăng ở chùa Giác Lâm (Gia Định) đã về đây trụ trì đã vận động tín đồ xây dựng thành ngôi đại tự với tên Vĩnh Trường, hoàn thành năm Canh Tuất (1849). Về sau không biết từ khi nào người ta gọi chệch thành Vĩnh Tràng



    < Hai tượng phật khổng lồ trong khuôn viên chùa Vĩnh Tràng.

    Tháng 4 năm 1861, khi người Pháp đánh chiếm Định Tường (tên gọi xưa của tỉnh Tiền Giang), chùa bị hư hỏng nặng. Qua nhiều lần sửa chữa, đến năm 1907, hòa thượng Chánh Hậu đã cho trùng tu toàn bộ và ngôi chùa có diện mạo như ngày hôm nay.


    < Cổng tam quan ghép sành làm theo lối cổ lầu do các nghệ nhân xứ Huế thực hiện vào năm 1933.

    Điều đầu tiên hấp dẫn du khách khi đến viếng thăm chùa là vẻ đẹp tráng lệ của hai cổng tam quan do những nghệ nhân xứ Huế thực hiện vào năm 1933.



    < Chùa Vĩnh Tràng được Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam công nhận là ngôi chùa đầu tiên ở Việt Nam có phong cách kiến trúc kết hợp giữa Đông và Tây.

    Khác với những ngôi chùa truyền thống, hai cổng này được xây dựng theo lối cổ lầu. Nét độc đáo của hai cổng tam quan thể hiện ở nghệ thuật ghép mảnh sành, mảnh sứ tạo nên những bức tranh lung linh nhiều màu sắc về chủ đề sự tích nhà Phật và chuyện dân gian…



    < Chánh điện và gian thờ chính được chạm khắc tinh xảo.

    Chùa có 178 cột, 2 sân và 5 lớp nhà. Khuôn viên chùa được bố trí theo dạng chữ "Quốc". Kiến trúc tinh xảo, đa dạng theo lối kiến trúc tổng hợp Á- Âu (Pháp, La Mã, Thái, Miên, Chăm).



    < Những bức tượng La Hán sống động được làm bằng gỗ quý sơn son thếp vàng.

    Mặt trước của tiền đường với những hàng cột vững chãi, vòm cong và hoa văn nhiều màu sắc. Nóc chùa Vĩnh Tràng có năm ngọn tháp uy nghi, nổi bật trên nền trời xanh. Năm ngọn tháp này được xây dựng theo quan niệm ngũ hành là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.



    < Một Phật tử thành kính bái lạy trước tượng đài Phật Di Lặc.

    Giữa gian chính điện và nhà thờ tổ chùa Vĩnh Tràng có một khoảng sân nhỏ, ở đó có một hòn non bộ phác họa lại cảnh thiên nhiên sinh động mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam. Từ đây nhìn về mặt sau gian chính điện và mặt trước nhà tổ, ta lại rõ thấy lối kiến trúc Roma với những hàng đá hoa màu sắc sặc sỡ của Pháp được trang trí trên thành nóc và trên những cột xây bằng xi măng xây khá kiểu cách


    < Một buổi tụng kinh niệm Phật thường nhật của các nhà sư chùa Vĩnh Tràng.

    Phía trong điện Phật của chùa có nhiều pho tượng được làm bằng gỗ quý. Điển hình như bộ 18 pho tượng La Hán tạc bằng gỗ mun, mỗi tượng cao khoảng 0,8m, bề ngang khoảng 0,58m. Mỗi vị La Hán cưỡi trên lưng một con mãnh thú, tay cầm bảo bối. Ngoài ra, chùa còn có 60 tượng quý tạo tác bằng đồng, gỗ và đất nung, được thếp vàng rực rỡ.

    < Du khách nước ngoài tham quan chùa Vĩnh Tràng.

    Bên cạnh hệ thống tượng Phật qúy, chùa Vĩnh Tràng còn nổi tiếng với hơn 20 bức tranh sơn thủy rất giá trị. Những bức vẽ này mang đậm nét dân gian với hình mai, lan, cúc, trúc và phong cảnh Việt Nam rất nên thơ do Long Giang cư sĩ thực hiện vào năm 1904. Ngoài ra, chùa còn nhiều hoành phi, câu đối và chuông cổ rất có giá trị.

    Với những giá trị đặc biệt trên, chùa đã được xếp hạng Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Quốc gia. Tháng 5-2007, chùa Vĩnh Tràng còn được Trung tâm Sách kỉ lục Việt Nam công nhận là ngôi chùa đầu tiên ở Việt Nam có phong cách kiến trúc kết hợp giữa phương Đông và phương Tây. Hiện nay, chùa Vĩnh Tràng là điểm tham quan du lịch rất nổi tiếng của tỉnh Tiền Giang.

    (Theo BAVN)
    Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..

  4. #4
    Ngày tham gia
    Nov 2010
    Bài viết
    1,032
    Post Thanks / Like

    Mặc định Chùa Cổ Trấn Quốc..





    Ngôi chùa đã quá nổi tiếng với tuổi đời ngót nghét trên 1500 năm lịch sử. Một ngày tới chùa Trấn Quốc bạn còn khám phá được rất nhiều điều thú vị.

    Nằm cuối đường Cổ Ngư (đường Thanh Niên), trên bán đảo phía Đông Hồ Tây (Yên Phụ, Tây Hồ) với lịch sử 1500 năm chùa Trấn Quốc được coi là chùa có lịch sử lâu đời nhất của Thăng Long - Hà Nội và cũng là một trong những ngôi chùa cổ nhất của Việt Nam.

    Chùa được xây từ thời vua Lý Nam Đế (544 – 548) ở bãi bên sông Hồng thuộc phường Yên Hoa (nay là Yên Phụ) với tên là chùa Khai Quốc (mở nước). Sau rất nhiều lần đổi tên nhân dân vẫn quen gọi tên chùa là Trấn Quốc – được đặt vào cuối thể kỷ 17, đời vua Lê Hy Tông.


    Cũng giống như hầu hết những ngôi chùa khác trên đất nước Việt Nam, chùa Trấn Quốc có nhiều nếp nhà, nhiều tượng Phật từ thấp đến cao, từ to đến nhỏ, vàng son lấp lánh, hương khói quanh năm.... Chùa có ba nếp nhà chính là tiền đường, nhà thiêu hương và thượng điện nối thành hình chữ Công.

    Nhưng kiến trúc lại mang những nét riêng khác rất đặc biệt với quy mô khá rộng. Đến chùa du khách không chỉ lễ Phật cầu kinh mà còn được đắm mình vào không gian của nghệ thuật của thiên nhiên hài hòa, thấy hồn mình tĩnh tại giữa những dấu xưa mang hồn đất Việt ngàn đời.

    Nằm giữa những con sóng mênh mang của trời đất hồ Tây đã tạo cho du khách những cảm nhận về sự uy nghi cổ kính của công trình kiến trúc và vẻ đẹp thanh nhã, yên bình của cảnh sắc ven hồ.


    Qua con đường cong cong trải bóng hàng dừa cao vút là khu Vườn tháp với nhiều ngôi tháp cổ từ thời Vĩnh Hựu và Cảnh Hưng thế kỷ 18. Đặc biệt là tòa bảo tháp lục độ đài sen có 11 tầng, cao 15 mét, diện tích mặt sàn 10,5 m vuông.

    Mỗi tầng tháp gồm 6 ô cửa vòm, có tượng Phật A Di Đà bằng đá quí. Tổng số tượng của tháp là 66 pho và trên đỉnh có 9 tầng đài sen cũng bằng đá quí (cửu phẩm liên hoa). Đứng dưới chân tháp thành tâm chắp tay cầu Phật, làm cho tâm ta như hòa cùng vào trời đất, hồn người chợt lắng lại giữa cái sắc sắc không không hư hư thực thực của một kiếp người.


    Từng tiếng chuông chùa ngân nga như làm chìm lấp đi hết những ồn ào của phố phường nhộn nhịp. Từng làn khói trầm hương nghi ngút, phẩng phất vẻ thanh tịnh trong cái vô thường. Đi từ nhà nhà thiêu hương và thượng điện tới gác chuông không chỉ làm cho lòng người thanh lọc giữa cõi Phật.

    Mà hơn hết trong từng những mái ngói rêu phong cổ kính, trong từng những nét chạm trổ nổi lên trên từng thớ gỗ trong mỗi nếp nhà bình yên, trong từng nét chữ xưa trên bia đá ta nghe như lắng đọng dư vị của thời gian mang hồn xưa của đất Thăng Long nghìn năm văn hiến có nét uy nghi mà vẫn rất đỗi giản dị, khiêm nhường.

    Chiều Trấn Quốc, giữa cái bình lặng của trời nước, ráng chiều đỏ đổ nhuốn trên mặt nước, phảng phất vị đời hòa theo từng nhịp chuông chùa đều đều mang theo những nét xưa cổ kính lòng người như được rửa đi một phần thế tục thanh lọc trong cái yên bình giữa thinh không.

    Giống như một hòn đảo xanh xinh xắn, nằm soi mình bên sóng nước Hồ Tây, chùa Trấn Quốc ngày nay không chỉ là chốn cửa Phật linh thiêng thu hút rất nhiều tín đồ Phật tử đến hành lễ mà còn là một trong những điểm tham quan, du lịch hấp dẫn của thủ đô Hà Nội.

    (Theo Afamily)
    Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..

  5. #5
    Ngày tham gia
    Nov 2010
    Bài viết
    1,032
    Post Thanks / Like

    Mặc định Chùa RaTa Nan Ran Sĩ"Kiên Giang"



    Chùa Láng Cát là một ngôi chùa Khmer tọa lạc ở số 325 đường Ngô Quyền, phường Vĩnh Lạc, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

    Chùa được nhà sư Riddhijaya cho xây dựng vào năm 1412, lúc đầu có tên gọi là Angkor Chum. Năm 1954, dưới thời trụ trì của đại đức Danh Hao, chùa được đổi tên chùa là Ang Kor Chum Wongsa. Đến năm 1961, hòa thượng Danh Ớt lại đổi tên chùa là Ratanaransĩ, người Việt quen gọi là chùa Láng Cát.

    Chùa đã qua 31 đời trụ trì. Trụ trì hiện nay là hoà thượng Danh Nhưỡng, thành viên Hội đồng Chứng Minh và Phó Trưởng ban Tăng sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trưởng ban Trị sự Phật giáo tỉnh Kiên Giang, Hiệu trưởng trường Phật học Pali Nam tông



    < Cổng chùa.

    Chùa đã được Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích lịch sử văn hoá quốc gia.

    Kiến trúc chùa mang đậm dấu ấn của phong cách Khmer. Chánh điện được bài trí trang nghiêm. Trên bệ thờ Phật có một viên ngọc xá lợi Phật do hoà thượng Hộ Tông thỉnh từ Ấn Độ về năm 1957.

    Sáng ngày 3/5/2009, chùa Láng Cát kết hợp cùng Ban trị sự Tỉnh hội Phật giáo Kiên Giang, Hội đoàn kết Sư Sãi yêu nước tỉnh tổ chức lễ khánh thành chánh điện và giảng đường (Sala). Năm 1997, Ban quản trị cùng Chư tăng Phật tử chùa họp kêu gọi phát tâm hùn phước đóng góp xây dựng, đến năm 2003 chỉ xây dựng được phần nền, móng và phần cột bê tông.



    < Đường vào chùa.

    Tháng 10/2003, Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước của tỉnh họp nhất trí vận động các chùa hỗ trợ mỗi năm một lần cùng với sự hỗ trợ của nhà nước và Phật tử khắp nơi, nhất là Thí chủ Đại tín nữ Nhân Thủy và gia đình đã phát tâm Bồ đề cúng dường xây dựng hoàn thành ngôi giảng đường và trùng tu chánh điện, tổng kinh phí xây dựng là 1 tỷ 900 triệu đồng.

    Với sự đoàn kết chung sức chung lòng, người góp công người góp của, đến nay công trình xây dựng ngôi giảng đường, hàng rào, sửa chữa trùng tu ngôi chánh điện đã hoàn thành viên mãn.

    (Theo NTO)
    Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..

  6. #6
    Ngày tham gia
    Nov 2010
    Bài viết
    1,032
    Post Thanks / Like

    Mặc định Lên Chùa Bẻ Một Cành Sen..



    Là hoa sen nhưng không mọc dưới đầm, chẳng mọc dưới ao mà tỏa hương ngào ngạt ngay trong sân chùa. Những bông hoa trắng tinh, thanh khiết, chen giữa những búp lá non xanh khiến khách phương xa cứ ngẩn ngơ vì quá đẹp, quá lạ. Người ta gọi loài hoa này là hoa sen cạn hay lục liên và theo người dân địa phương, lục liên chỉ trồng được trong khuôn viên chùa Bối Khê, Tam Hưng, Thanh Oai, Hà Nội, tuyệt nhiên không trồng được ở nơi khác, dù ngay trên đất làng.

    Ngôi chùa cổ kính
    Chùa Bối Khê, tên chữ là Đại Bi, ở làng Bối Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, Hà Nội. Đây là một ngôi chùa cổ được khởi dựng từ thời Trần (thế kỷ thứ XIV), thờ Đức Thánh Bối Nguyễn Đình An là người địa phương đã có công đánh bại quân xâm lược phương Bắc. Chùa Bối Khê không những là di tích lịch sử quý về niên đại mà còn có kiến trúc bằng gỗ rất đẹp.



    Chùa được bố cục theo lối đặc biệt: Tiền đường, tả hữu hành lang và nhà Tam bảo dựng theo kiểu chữ Quốc. Nhà Hậu đường được kết hợp với điện thờ Thánh làm thành chữ Công. Toàn bộ kiến trúc được sắp xếp cân xứng hai bên theo một trục chính.

    Từ đường cái nhìn vào, cách cổng chùa 50m về phía tay trái là lăng Quận công Lê Tiến Quý, người thôn Bối Khê (thời Lê Trung Hưng), phía tay phải là đền thờ Đức Ông. Trước cổng chùa là khoảng sân rộng, có cây đa, cây đề cổ thụ.


    Cổng chùa có 5 cửa, 1 cửa chính và 4 cửa phụ. Qua cổng chùa là chiếc cầu nhỏ xây bằng gạch, vắt ngang hào nước hẹp thả bèo xanh mướt, dẫn tới Tam quan cao 2 tầng, 8 mái. Tầng trên treo 2 quả chuông lớn, mỗi quả cao 1m, đường kính 20cm. Hai bên tam quan có trồng 2 cây đại lớn, trổ hoa màu hồng rất đẹp. Qua khỏi tam quan là sân gạch rộng, có lư hương bằng đá ở giữa, xung quanh trồng cây đại, cây móng rồng và nhiều cây cảnh khác.

    Kiến trúc chùa không được chạm khắc nhiều song đây là một ngôi chùa còn ghi lại những mô típ kiến trúc gỗ có chạm khắc những họa tiết, những hình chim thuộc phong cách nghệ thuật thời cuối Trần (thế kỷ thứ XIV – XV).



    Đáng chú ý nhất về kiến trúc là tòa Tam bảo thờ Phật, Pháp, Tăng gồm ba gian, được cấu tạo theo 4 hàng cột, mỗi hàng có 4 chiếc, riêng thềm điện có 6 cột đỡ mái chia thành 7 gian. Hai vì kèo giữa còn mang phong cách nghệ thuật Trần đậm nét, các đầu bẩy đỡ mái ở phía bên ngoài được chạm khắc hình rồng, đầu bẩy góc bên trái phía ngoài chạm một chim thần Garuđa. Tòa Tam bảo nay tuy đã được sửa chữa nhiều lần nhưng về cơ bản, cấu trúc kiến trúc vẫn còn giữ được những nét độc đáo và cổ kính. Bên phải Tam bảo là nhà bia dựng năm 1450 ghi sự tích đức Thánh Bối.

    Sau Tam bảo là Hậu cung thờ Thánh, kiến trúc theo lối chồng diêm 2 tầng 8 mái. Hệ thống đầu đệm có tính chất trang trí nhiều hơn là chú ý về độ bền chắc. Bên trong điện thờ thánh có những mảng kiến trúc chạm khắc theo chủ đề tứ linh, tứ quý, vân hoa cùng các loại họa tiết hình học, đặc biệt là những đường gãy khúc.



    Chùa Bối Khê còn giữ lại được nhiều di vật quý: bệ tượng bằng đá được chạm khắc hình rồng, chim thần, hoa lá… có niên đại Sương phù lục niên (1382). Trong chùa có nhiều tượng phật, trong đó đáng chú ý nhất là pho tượng quan âm 12 tay ngồi trên tòa sen đặt ở Tam bảo. Hai hành lang chạy dọc, mỗi bên 9 gian, có 18 vị La Hán ngồi trên bệ đá, thể hiện đủ gương mặt tương tự các vị La Hán chùa Tây Phương.
    Có hay không một loài sen trên cạn?

    Hiện ở chùa Bối Khê có 3 cây sen đất, 1 cây tổ cao chừng 5m, trồng cạnh Hậu cung thờ Thánh và 2 cây con cao khoảng 2m được chiết từ cây tổ và trồng gần Tam quan.



    Hai cây con là hai trong số bốn chục cành được chiết từ cây tổ vẫn đơm hoa nở lộc tốt. Ba mươi tám cành kia, người ta đem đi nơi khác trồng đều không sống nổi, hoài công những kẻ yêu loài hoa này. Chỉ có duy nhất hai cành được trồng trước cổng chùa là thành cây, có lẽ chúng được ở gần cây mẹ, ở gần nơi cửa phật và được hưởng nguồn nước ngọt lành của dòng sông Đỗ Động. Giờ cành của hai cây đã vươn tới sát mái chùa, mùa nào đến tháng năm âm lịch cũng cho hoa cho dù đôi lúc con người vô ý làm cây đau lòng



    Bác Nguyễn Mạnh Hùng, trưởng ban bảo vệ di tích chùa Bối Khê là người có công lớn nhất chăm chút cho hai cây sen này lớn lên kể lại: Mấy năm trước, nhà chùa được tu sửa lại, thợ xây vô tâm lắm, đổ hết vật liệu đè lên gốc cây. Xót xa lắm chứ, người ta đâu biết rằng giống cây này là bảo bối của làng chúng tôi. Ba năm trời trùng tu chùa là ba năm họ bừa ra tôi lại dọn lại để có chỗ chăm bẵm, tưới tắm hàng ngày.
    Bây giờ, để bảo tồn linh vật của làng, các bô lão Bối Khê đã nhóm họp nhiều lần và quyết định không cho phép ai giâm chiết cành cây quý đi nơi khác nữa



    Cây sen đất thân mộc. Lá cây mặt trên xanh bóng, mặt dưới có lông mịn màu nâu nhạt. Hoa sen đất từ khi đơm nụ đến khi bung cánh đều có hình dáng rất giống với hoa sen nước. Mùa hoa sen khoảng từ tháng tư đến tháng sáu âm lịch, hoa nở 1-2 tuần mới tàn và có mùi thơm. Thời điểm này, cả 3 cây đều đang trổ hoa. Đứng dưới gốc cây, có thể ngửi thấy mùi thơm rất dễ chịu.

    Không ai biết chính xác cây sen tổ được trồng từ khi nào. Theo lời người bảo vệ già trong chùa thì khi ông sinh ra, trong khuôn viên chùa đã có sự hiện diện của loài sen kỳ lạ này. Những người già trong làng truyền lại rằng cây sen tổ có nguồn gốc từ nước ngoài, được những người dân trong vùng đi buôn bán ở nơi xa đưa về trồng trong chùa



    Người dân Việt Nam đã quen thuộc với câu ca dao “Hôm qua tát nước đầu đình / Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen”. Trong khi hầu hết mọi người cho rằng “cành hoa sen” đó chỉ là sản phẩm của sự tưởng tượng phong phú cho câu ca thêm phần lãng mạn, bởi hoa sen làm gì có cành; thì người dân làng Bối Khê lại tin rằng cành hoa sen được nhắc tới trong câu ca dao chính là cành cây sen đất trong khuôn viên chùa.

    Trên báo chí đã có ý kiến cho rằng cây sen đất thực ra không phải là cây hoa sen (lotus) mà là cây mộc lan (magnolia) thường gặp ở xứ lạnh, và cái tên sen đất chẳng qua là do người dân địa phương thấy bông hoa có hình dáng giống hoa sen nên gọi như vậy



    Chưa có kết luận chính xác nhưng với người dân nơi đây, họ vẫn luôn tin đó là loài hoa được nhắc đến trong câu ca dao nổi tiếng. Và khách thập phương đến thăm chùa Bối Khê vẫn biết đến loài hoa có màu trắng ngần và mùi thơm tinh khiết này với cái tên là Hoa Sen Đất.

    Trầm ngâm trong cái không gian tĩnh mịch của nhà chùa, sự thanh thản của tâm hồn theo làn khói hương trong cửa phật, tôi bỗng ngẩn ngơ cho cái ý chủ quan của mình: Có lẽ nơi đây là chính là ngọn nguồn, là cảm hứng cho dân gian sáng tác ra những câu ca dao: Hôm qua tát nước đầu đình/Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen ở trên hay cả câu ca rất đỗi thân thuộc của người trai, người gái thôn quê: Lên chùa bẻ một cành sen/ Ăn cơm bằng đèn đi cấy sáng trăng…

    (Theo Việt Báo)
    Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..

  7. #7
    Ngày tham gia
    Nov 2010
    Bài viết
    1,032
    Post Thanks / Like

    Mặc định Đền Bách Thần_Tuyên Quang



    Đến thăm huyện Chiêm Hóa, du khách sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước vẻ uy nghiêm nhưng không kém phần lộng lẫy của đền Bách Thần.

    Theo những người cao niên ở huyện Chiêm Hóa, đền Bách Thần rất linh thiêng đối với cuộc sống của dân bản địa nên đã lập đền thờ trăm vị thần, là các anh hùng dân tộc, người có công với địa phương...

    Đền Bách thần còn thờ Tam Quang là mặt trời, mặt trăng, các vì sao, đem đến sự sống cho con người. Trước đây, đền được xây dựng tại khu vực chợ thị trấn Vĩnh Lộc, bên cạnh một cây đa to, hướng thờ vọng sang núi Bách Thần, tả ngạn sông Gâm, phía Đông thị trấn. Nay, đền Bách Thần được xây dựng trên sườn núi Bách Thần, thị trấn Vĩnh Lộc do nhân dân và du khách thập phương đóng góp, công đức xây dựng đền. Đền Bách Thần như một nét chấm phá giữa đại ngàn



    Tọa lạc ở lưng chừng núi với khí hậu mát mẻ, mùa hè, khách thập phương đứng tại đền có thể chiêm ngưỡng toàn cảnh thị trấn Vĩnh Lộc với dòng sông Gâm xanh trong. Do vị trí trên cao, mùa đông có mây giăng ngang lưng núi, đền như được những tầng mây bao bọc tạo nên vẻ thần tiên, kỳ thú. Vào ban đêm, dưới ánh sáng của đèn điện, đền Bách Thần trông giống như vì sao lấp lánh sà xuống núi. Với hàng trăm bậc, khi leo lên đến đền Bách Thần, du khách cảm thấy trong người nhẹ nhõm, tinh thần thư thái.

    Đền Bách Thần gắn liền với lễ hội Lồng tông của nhân dân các dân tộc huyện Chiêm Hóa. Hàng năm, ngày 8 tháng Giêng âm lịch, huyện Chiêm Hóa tổ chức lễ hội Lồng tông (xuống đồng). Đây cũng là ngày đại lễ của đền. Người dân mang những sản phẩm nông nghiệp (lúa, đậu, đỗ...) mà họ thu hoạch được trong năm, bọc trong những quả còn với tua rua ngũ sắc mang dâng cúng tại đền cùng với các lễ vật khác, báo ơn các vị thánh thần đã ban cho vụ mùa bội thu



    Sau khi cúng tại đền Bách Thần, nhân dân tổ chức rước lộc Thánh và các lễ vật dâng cúng từ đền xuống khu vực diễn ra hội Lồng tông với nghi lễ trang trọng. Trong lễ hội Lồng tông, quả còn sẽ được tung lên trời, gửi gắm niềm tin, khát vọng sống của đồng bào các dân tộc Chiêm Hóa và cầu mong một năm mới tốt lành, dân khang, vật thịnh. Vì những quan niệm dân gian đó nên đền có vai trò rất lớn trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Chiêm Hóa.

    Ông Nguyễn Duy Tiến, Trưởng ban Quản lý đền Bách Thần cho rằng, với sự linh thiêng, phong cảnh hữu tình, đền sẽ là điểm đến của du khách thập phương trong những tour du lịch tâm linh. Trong tương lai, nơi đây sẽ hình thành tua du lịch với các điểm du lịch ở huyện Chiêm Hóa: Khu di tích lịch sử Kim Bình, thác Bản Ba xã Trung Hà, đền Đầm Hồng xã Ngọc Hội... và là điểm dừng chân lý tưởng trong cuộc hành trình khám phá những danh thắng của huyện vùng cao Nà Hang

    (Theo báo Tuyên Quang)
    Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..

  8. #8
    Ngày tham gia
    Nov 2010
    Bài viết
    1,032
    Post Thanks / Like

    Mặc định Tham Quan Đền Bayon_An Giang



    Ai đến Angkor Thom (Xiêm Riệp, Campuchia) cũng đều ngất ngây trước vẻ đẹp, nụ cười huyền bí của các tượng đá bốn mặt ở đền thần Bayon. Nhưng mấy ai biết rằng tại chùa Xà Tón ở huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang cũng có kỳ tích này.

    Không chỉ được bao quanh bởi tượng đá bốn mặt, ngôi chùa hơn 300 năm tuổi còn níu chân người bởi những huyền tích ly kỳ và muôn vàn báu vật bằng xương bằng thịt mà chẳng tiền muôn bạc vạn nào có thể mua được.

    Chùa Xà Tón - nơi được nhiều tao nhân mặc khách ví như là “Đền Bayon thu nhỏ trên vùng đất chín rồng” nằm ở khu đất rộng trên 2ha giữa trung tâm thị trấn Tri Tôn. Trên bốn mặt tường sơn vàng là hàng trăm gương mặt tượng thần bốn mặt với nụ cười bí ẩn, vô tư.


    Vào trong khuôn viên chùa, khách nhàn du cứ ngỡ mình lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh nơi hồng trần. Sau hồ sen hoa nở hồng trên diện tích mặt nước rộng gần 1.500m2 được tiền nhân đào lấy đất đắp nền vào năm 1896 là chánh điện được xây dựng theo lối kiến trúc cổ truyền của người Khơme với nóc nhọn, mái cong uy nghiêm mà hùng dũng, được điểm tô bằng hàng ngàn phù điêu Naga - rắn thần bảy đầu, linh vật tượng trưng cho sự dũng mãnh và bất diệt. Quanh khu vực chánh điện là hàng chục mộ tháp cổ kính, trầm mặc dưới những tán cây lâm vồ (bồ đề) khổng lồ hàng trăm năm tuổi, gốc bằng vòng tay của cả chục người kết nối.



    Cùng khung cảnh thiên thai với những công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc, chùa Xà Tón còn in đậm trong tâm khảm những ai từng ghé thăm bởi những pho tượng cổ hàng trăm năm tuổi, đặc biệt là bộ kinh lá buông (kinh ghi trên lá buông) được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam công nhận là ngôi chùa lưu giữ nhiều sách kinh lá nhất Việt Nam. Theo các nhà nghiên cứu, kinh lá là loại thư tịch cổ của người Khơme với qui trình kiến tạo rất công phu, đòi hỏi mất nhiều công sức.

    Sư cả Tholly cho biết, buông là loài cây rừng ngày trước có nhiều ở hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên. Đây là giống cây có hình dáng như cây cọ. Khi cần sử dụng, nghệ nhân sẽ chọn những búp lá buông non, to bản cột chặt. Khoảng ba tháng sau búp lá dài gần 2m sẽ được chặt rời khỏi cây, mang phơi khô..



    Khi cần sử dụng sẽ dùng bút sắt viết chữ trên lá, mỗi lá có kích thước 6cmx60cm được ghi năm hàng, viết xong lấy nước trái cau non chà lên lau sạch, khi ấy chữ thấm nước mủ cau hiện rõ. Người viết giỏi mỗi ngày chỉ viết được một lá. Một quyển sách có hàng trăm lá, thường nặng khoảng 1kg. Chùa hiện có hơn 100 quyển kinh. Các sách lá chép lại tiểu sử Đức Phật, các truyện kể dân gian, những thành ngữ, câu đối hay các bài học rút ra ở đời... Những khi phum sóc có lễ hội lớn, các sư ở chùa sẽ lấy kinh lá trăm năm ra đọc, thuyết pháp...

    Vì các giá trị về kiến trúc, điêu khắc, nghệ thuật dân tộc cổ truyền... mà chùa Xà Tón được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa nghệ thuật cấp quốc gia vào năm 1986.

    (Theo TCDL)
    Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..

  9. #9
    Ngày tham gia
    Nov 2010
    Bài viết
    1,032
    Post Thanks / Like

    Mặc định Chùa Sắc Tứ Khải Đoan..



    Chùa Sắc tứ Khải Đoan (Sắc tứ Khải Đoan tự), là ngôi chùa lớn nhất thành phố Buôn Ma Thuột và cả ở Đắk Lắk. Tên Khải Đoan là ghép từ tên vua Khải Định và vợ ông là Đoan Huy hoàng thái hậu.

    Chùa bắt đầu được xây dựng từ năm 1951 với hai phần hậu tổ và nhà giảng, còn chính điện thì đến năm 1953 mới khởi công. Ngôi chùa này nằm trên đường Phan Bội Châu, thành phố Buôn Ma Thuột do Đoan Huy - Hoàng Thái Hậu mẹ vua Bảo Đại cho xây dựng và Nam Phương hoàng hậu trực tiếp chịu trách nhiệm quản lý việc thi công.

    Chùa được xây dựng bởi bàn tay khéo léo của những người thợ cố đô Huế nên có kiến trúc nhà rường Huế xen lẫn với kiến trúc địa phương. Cổng chính theo hướng Tây Nam nhìn ra đường Quang Trung, hướng về thung lũng “Suối Đốc Học”. Trước và sau cổng đều ghi “Khải Đoan Tự”



    Toàn bộ ngôi chùa gồm cổng chính (cổng tam quan) hướng về phía Tây Nam, chính điện, điện Quan Âm, nhà hậu tổ.
    - Cổng tam quan gồm hai tầng với ba vòm cửa cao 7m, rộng 10,5m.
    - Tách biệt với chính điện là Ðiện Quan Âm hình lục giác, với sáu cây cột trang trí hình rồng, mây.
    - Chính điện rộng 320m² gồm hai phần, phần trước kiến trúc theo kiểu nhà dài của Tây Nguyên nhưng cột kèo lại theo lối nhà rường của người Việt.
    Nửa sau xây theo lối hiện đại.

    Đáng chú ý nhất trong chánh điện là tượng Phật Thích Ca bằng đồng đặt chính giữa chính điện cao 1,1m với đài sen bằng gỗ quý cao 0,35m được trang trí rất công phu. Bên gian phải chính điện treo một quả chuông đồng cao 1,15m, chu vi đáy 2,7m, nặng 380kg do các nghệ nhân phường đúc đồng ở phía Tây kinh thành Huế làm vào tháng 1/1954 (tức tháng chạp năm Quý Tỵ).



    Sau nhiều đợt trùng tu, cất thêm vài công trình mới, chánh điện vẫn y như cũ và dành để thờ Đức Thích Ca; bên hông trái của chùa có tòa lục giác thờ Quan Âm Bồ tát. Ngoài việc là một trong những di tích lịch sử hấp dẫn của thành phố Buôn Ma Thuột, chùa Khải Đoan còn là nơi thể hiện dòng chảy của đạo pháp dân tộc trên đất Tây nguyên.

    Khải Đoan là ngôi chùa cuối cùng tại Việt Nam được phong Sắc tứ của chế độ phong kiến và là một địa điểm không thể không ghé thăm khi đến Đắk Lắk



    Tháng 07.1963, Đại Đức Thích Quảng Hương (chánh đại diện Phật giáo DakLak kiêm trụ trì chùa Khải Đoan) phát nguyện tự thiêu đúng vào lúc phái đoàn quốc tế đến thị sát tình hình, làm cho cuộc đấu tranh của Phật giáo DakLak bùng lên quyết liệt. Sáng 30.01.1968 (tức mồng một Tết Mậu Thân) gần 7.000 quần chúng Thị xã Buôn Ma Thuột tập trung tại chùa Khải Đoan nghe tuyên truyền về chính sách mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, sau đó tuần hành trên đường phố.


    Cùng với Biệt Điện Bảo Đại, Đình Lạc Giao, Nhà đày Buôn Ma Thuột, chùa Khải Đoan là một điểm tham quan du lịch hấp dẫn đồng thời cũng là di tích lịch sử văn hóa của tỉnh DakLak và của Thành phố Buôn Ma Thuột

    (Theo dulich Tổng hợp)
    Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..

  10. #10
    Ngày tham gia
    Nov 2010
    Bài viết
    1,032
    Post Thanks / Like

    Mặc định Đền Thượng Điểm Văn Hóa Tâm Linh..



    Đền Thượng thờ vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, được xây dựng bề thế trên ngọn đồi thuộc khu vực phường Lào Cai (TP Lào Cai), cách Cửa khẩu Quốc tế Lào Cai gần 500m về phía Đông Bắc.

    Nơi đây, hơn 700 năm trước, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã chọn làm nơi hỏa hiệu để quân ta chủ động chiến đấu với quân giặc, tránh tổn thất. Khu vực Đền Thượng có cảnh quan thiên nhiên sơn thuỷ hữu tình, cùng sự kết hợp hài hoà giữa kiến trúc truyền thống với nét văn hoá bản địa, tạo cho ngôi đền mang dáng vẻ uy nghi lộng lẫy.
    Đền Thượng được xây dựng vào thời nhà Lê (niên hiệu Chính Hòa 1680 - 1705), qua nhiều lần trùng tu tôn tạo, năm 1996, Đền Thượng được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.



    < Cây trò thiêng hơn 300 tuổi, 8 người ôm không xuể.

    Soi mình bên bờ Nậm Thi, nơi đây xưa có vị trí vô cùng quan trọng trong chiến lược phòng thủ chống quân xâm lược, ngày nay, gần cửa ngõ giao thương giữa hai tỉnh Lào Cai (Việt Nam) và Vân Nam (Trung Quốc), vùng đất linh thiêng nơi địa đầu Tổ quốc này mỗi năm đón hàng vạn lượt du khách trong và ngoài nước đến tham quan, hành hương thăm viếng, tưởng nhớ vị anh hùng dân tộc. Đền Thượng nằm trong quần thể di tích văn hóa bao gồm: Chùa Tân Bảo, Đền Am, Đền Mẫu, Đền Cấm, Đền Quan. Vào mồng một, ngày rằm hàng tháng, rất đông du khách thập phương về dâng hương, cầu mong mọi sự an lành, mùa màng bội thu, người yên, vật thịnh, cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc.

    Hội chính Đền Thượng được tổ chức vào ngày rằm tháng giêng hàng năm. Trong hội tổ chức lễ rước kiệu, lễ tế thần, dâng hương tưởng niệm, lễ cầu an, cầu phúc… sau các nghi lễ sẽ tổ chức trồng cây xanh tại khu vực quanh đền. Đây là nét đẹp văn hóa đầy ý nghĩa tâm linh của nhân dân, luôn nhớ về cội nguồn dân tộc



    Ngay từ khi bước chân đến cổng đền, du khách đã được chiêm ngưỡng vẻ đẹp cây đa 300 năm tuổi, đang vươn cành trổ tán, dưới bóng cây cổ thụ là miếu thờ Bà chúa Thượng Ngàn (Nữ chúa rừng xanh). Tương truyền, trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, bà đã góp công đánh giặc bảo vệ bờ cõi nước Nam, ghi công ơn bà, nhân dân lập miếu thờ ngay dưới gốc cây đa xum xuê cành lá. Người đời sau truyền rằng, nếu ai thành tâm cầu khấn đều được bà linh ứng. Chính vì vậy dưới bóng đa linh thiêng có câu đối "Thụ mộc đa sinh, sinh thế thế; Tiên cô hóa hiện, hiện linh linh" nghĩa là "cây đa cổ thụ sinh ra đã có tư thế; Tiên cô hóa hiện, đem lại sự linh thiêng".

    Tại khu vực đền chính, bức hoành phi "Văn hiến tự tại" được treo trước Nghi môn, hai bên có hai câu đối: "Việt khí linh đài hoành không lập, Đông A hào khí vạn cổ tồn" nghĩa là: "Nước Việt đài thiêng vắt ngang trời, Nhà Trần hào khí còn muôn thủa". Mặt sau Nghi môn nội có dòng chữ "Quốc Thái dân an" với hai câu đối: "Thiên địa dịu y, thiên địa cựu; Thảo hoa kim dị, thảo hoa tiền" nghĩa là: "Trời đất vẫn nguyên, trời đất cũ; Cỏ hoa nay khác, cỏ hoa xưa"



    Đền Thượng được đầu tư, xây dựng khang trang với 7 gian thờ chính gồm: Cung thờ Phật Thích ca Mâu ni, Cung thờ Tam tòa Thánh Mẫu; Ban thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo; Cung thờ Đức vua cha Ngọc Hoàng… và các ban thờ phía Tả Vu - Hữu Vu thờ Chầu bà Đệ Nhị Sơn Trang, Thập Nhị Tiên Cô, Chầu hầu cận Chúa và Cậu Bé thủ đền… tất cả đều được sắp đặt theo trình tự. Các pho tượng thờ sơn son thếp vàng mang dáng vẻ uy nghi tráng lệ. Cảnh quan đền ngày càng được trùng tu, tôn tạo, xanh, sạch, đẹp xứng tầm với một di tích lịch sử quốc gia. Bên cạnh Đền Thượng là ngôi đình hình vuông với 4 cửa, 8 rồng chầu, giữa phương đình hình rùa vàng lưng đội bia đá khắc tích "Đức Thánh Trần". Nơi đây trước kia là nơi nghỉ chân của các quan quân đi tuần, ngày nay, là rừng sinh thái với đủ các loại cây trồng bảo vệ môi trường, phục vụ du khách tham quan, nghỉ chân thưởng thức khí hậu trong lành. Đặc biệt, đây là một trong những ngôi đền linh thiêng được nhiều người biết đến nhất trong hệ thống các đền, chùa ở Lào Cai.



    Nằm trong Chương trình "Du lịch về cội nguồn" hợp tác 3 tỉnh Lào Cai - Yên Bái - Phú Thọ, quần thể di tích lịch sử - văn hóa Đền Thượng là điểm đến lý tưởng của du khách. Ngoài các hoạt động văn hoá tâm linh, tìm hiểu phong tục tập quán, thưởng thức các món ăn đặc sản truyền thống của các dân tộc Lào Cai, tại đây còn diễn ra các hoạt động văn hoá, văn nghệ và các trò chơi dân gian dân tộc, các gian hàng trưng bày sản phẩm thủ công truyền thống hấp dẫn du khách. Các hoạt động văn hóa, tín ngưỡng được tổ chức quản lý theo đúng các quy định, do vậy Đền Thượng thực sự là điểm sinh hoạt văn hoá, tâm linh cho nhân dân địa phương và du khách khi đến với Lào Cai

    (Theo báo Lao Cai)
    Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..

Những Thắng Cảnh Tâm Linh..
Trang 1 của 4 123 ... CuốiCuối

Đánh dấu

Đánh dấu

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •  
.::Thăng Long Kỳ Đạo::.
  • Liên hệ quảng cáo: trung_cadan@yahoo.com - DĐ: 098 989 66 68