Kết quả 21 đến 30 của 30
-
18-10-2011, 10:24 PM #21
Rêu Nướng..Đặc Sản Người Tày Hà Giang
Lâu nay, rêu đá chỉ được coi là một loại thủy sinh không nhiều tác dụng. Nhưng đối với người dân tộc Tày ở xã Xuân Giang tỉnh Hà Giang, thì rêu đá được coi là đặc sản trong ẩm thực của họ. Các món ăn được chế biến từ rêu đá còn được gọi là quẹ. Đây là một món ăn vừa ngon, vừa bổ, lại có hương vị rất riêng.
Theo người dân địa phương, khi đi tìm rêu, họ thường chọn những bãi rêu lớn, bởi ở đó rêu vừa nhiều, vừa ngon. Rêu tươi đem về được vò đập thật kỹ cho sạch nhớt phù sa, sau đó có thể chế biến thành nhiều món.
Chị Hoàng Thị Cấp - Xã Xuân Giang, Quang Bình, Hà Giang cho biết: “Khi vớt, phải đứng ở dưới suối, nước cứ chảy từ trên xuống và lấy tay quơ ngang lấy, những cái nào non nhất thì mình cầm được còn cái già thì nó vẫn bám ở đá
Rêu chỉ sống trong 7 ngày, khi nó mọc lên 3 - 4 ngày là đi vớt được rồi, còn quá 7 ngày nó trở thành màu trắng bệch và không ăn được nữa”.
Rêu suối tuy nhiều, nhưng những loại rêu ngon rất ít và rêu ăn được có theo mùa, bởi vậy đối với bà con nơi đây rêu cũng là một món ăn quý. Rêu có thể được chế biến thành nhiều món như rêu rán, rêu khô nhưng độc đáo nhất vẫn là món trộn với các loại gia vị rồi đem nướng.
Theo chị Hoàng Thị Cấp, sau khi xé tơi rêu thì trộn các gia vị như xả, lá mùi tàu, lá dăm, lá hẹ và có thể cho 1-2 hạt dổi vào để cho thơm cùng với muối, mì chính, cần cái gì thì mình cho vào tuỳ theo khẩu vị của từng gia đình, sau khi trộn xong gói lá rồi nướng trên than bếp
Khi nướng, người ta không phải xoay nhiều lần mà nướng chín một bên, sau đó nướng tiếp bên còn lại. Khi dùng hai ngón tay bấm thấy mềm là quẹ đã chín.
Vì rêu ăn được theo mùa nên ngoài việc chế biến rêu tươi, người ta còn phơi khô rêu, cất lên gác bếp để làm món ăn dự trữ. Chỉ có khách quý mới được đãi món rêu khô trên gác bếp.
Rêu nướng không chỉ là món ăn được nhiều đồng bào dân tộc ưa thích, mà còn có khả năng chữa nhiều bệnh, giúp lưu thông khí huyết, giải độc, giải nhiệt, ổn định huyết áp và tăng cường sức đề kháng.
(theo VTV)Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..
-
18-10-2011, 10:41 PM #22
4 Món Quên Sầu Ở _Cà Mau
Cà Mau là tỉnh cực nam của Tổ quốc, là vùng đất mới - vùng đất gắn với quá trình khẩn hoang của người Việt. Vùng đất này đã góp nên nhiều món ăn ngon cho nền ẩm thực Việt Nam.
Trong số các món ngon của đất Cà Mau, cháo trăn sông Trẹm, cá lóc nước trui, ba khía Rạch Gốc, lẩu mắm U Minh mới đây đã được xếp vào danh sách những món đặc sản Việt Nam.
Cháo trăn sông Trẹm
Nhiều người khẳng định, về Miệt Thứ mà chưa ăn cháo trăn thì chưa thấy hết cái đã, cái hương vị thời khẩn hoang của vùng bán đảo Cà Mau.
Thịt trăn vàng lựng, chặt miếng vuông xen lẫn mấy thớt mỡ trăn bóng ngần mới trông đã phát thèm. Diu khách chỉ cắn một cái đã nghe sừn sựt rồi vị béo, ngọt, là lạ đến tê đầu lưỡi. Phần bao bên ngoài miếng thịt giòn giòn, ngon nhất mà hình như không phải da. Phần làm cho nồi cháo thơm nhất có lẽ là mỡ trăn, thấy vậy mà không béo.
Cháo trăn sông Trẹm thường ăn kèm với rau rừng đặc biệt là loại dây leo đọt trại và nước mắm biển Kiên Giang thì rất tuyệt. Có thể nấu kèm đậu xanh cùng với cháo trăn ăn cũng có tác dụng giải nhiệt và tẩm bổ rất tốt.
Cá lóc nướng trui Cà Mau
Là món ăn dân dã, dễ làm và đặc trưng cho miền đồng nước Nam Bộ Việt nhưng cá lóc nướng trui lại có một hương vị vô cùng độc đáo.
Cá khi vừa bắt dưới sông lên, rửa sạch, dùng que tre xuyên cá từ đầu đến đuôi rồi vùi cá vào đống rơm khô, châm lửa đốt hoặc cắm que xuống đất lấy rơm phủ lên và đốt lửa cho đến khi tro tàn. Khi cá chín, cạo bỏ lớp vẩy đã cháy xém để lộ ra thịt cá trắng và thơm.
Cá nướng xong chỉ cần gỡ thịt chấm muối ớt, mà phải là loại muối hột mới cảm nhận được hết mùi vị thơm ngon vùa cay vừa mặn vừa ngọt vừa thơm của món cá lóc nướng đặc sản của dân Nam Bộ. Ở đồng bằng sông Cửu Long, cá lóc nướng trui thường ăn với nước mắm me, cuốn với bánh tráng, rau thơm các loại ăn thì rất tuyệt
Ba khía Rạch Gốc
Ba khía Rạch Gốc có nhiều nhất là vào thời điểm khoảng tháng 7, tháng 8 âm lịch hàng năm. Loại ba khía này ăn trái mắm đen rụng xuống nên có gạch son, thịt thơm và chắc hơn giống ba khía ở các nơi khác. Ba khía sau khi bắt xong, rửa sạch và muối ngay tại chỗ. Cho muối thấm khoảng 5 đến 7 ngày đêm là có thể ăn được. Muối ba khía không nên mặn quá, cũng không muối lạt quá. Vì nếu mặn thì thịt sẽ xẵng lại, còn nếu lạt quá thì thịt mau bủng, ăn mất ngon
Ba khía muối cho vừa ăn, bẻ ngoe, càng ra rồi trộn chung với tỏi, ớt băm nhỏ. Sau đó, nặn thêm chanh vào tạo vị chua cho bùi rồi thưởng thức. Còn cái mai của ba khía thì bỏ cơm nóng vào, trộn đều với gạch son, ăn rất đặc biệt. Vị mặn, ngọn, chua, cay hòa với mùi thơm của tỏi và thịt của ba khía chắc chắn sẽ làm hài lòng du khách.
Ngoài ra, ba khía còn được chế biến bằng cách luộc sả ăn cùng với nước chấm. Nước chấm được chế biến rất đơn giản nhưng không kém phần đặc biệt; gồm sả băm nhuyễn, trộn chung với cơm mẻ, cho chút ớt vào tạo vị cay rồi bỏ thêm chút gia vị cho vừa ăn. Với cách ăn này, thịt của ba khía rất ngọt, thơm do hòa với hơi cay của ớt, sả và chút chua, nồng của cơm mẻ; Ba khía luộc ăn cùng với nước chấm sẽ là một món ăn không thể quên đối với du khách
Lẩu mắm U Minh
Lẩu mắm (mắm kho cho vào lẩu) là một trong những món ăn dân dã không thể thiếu của người Nam bộ nói chung và U Minh nói riêng.
Để có một lẩu mắm ngon, mùi thơm đặc trưng phải lựa từng con cá sặc bướm. Sau đó là khâu làm sạch vảy, ruột, rửa sạch, đem phơi cho cá ráo mặt, rắc muối giã nhỏ, cho vào một cái khạp, bên trên dùng mo cau và sống dừa cài chặt để giữ cho con nắm không nổi lên bề mặt.
Lẩu mắm phải ăn kèm với rất nhiều rau, như bông súng, đọt nhãn lồng, ngò gai, ngò om, cải xanh, rau muống, rau ngổ, đậu rồng, kèo nèo, rau đắng, càng cua, bông so đũa, cà phổi, bắp chuối, ớt hiểm, tỏi... Ngoài ra còn có đọt choại, loại rau rừng chỉ có ở rừng tràm U Minh. Rồi đậu bắp, nấm rơm bỏ vào khi lẩu vừa sôi, với các loài cá đồng tươi vừa chín như lươn, cá rô, các sặc rằn, cá dầy, cá lóc... cùng “lên lửa” với nước cốt mắm sặc thơm lừng. Cũng không thể thiếu bát ốc lác sôi sùng sục dưới đáy nồi lẩu.
(theo datviet)Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..
-
18-10-2011, 10:57 PM #23
trời! thèm ăn chết mất thôi
-
18-10-2011, 11:10 PM #24
Đậm Đà Hương Vị Bún Nước Lèo..
Nếu người Việt miền Nam có món "canh chua cá kho tộ" vừa dân dã, vừa ngon miệng, người Hoa có cải "xá bấu", thì người Khmer có mắm "Bồ hoóc" (prô-hok), một loại thực phẩm độc đáo của riêng mình.
Và chính từ loại mắm đặc biệt nầy, đã sản sinh ra món "bún nước lèo", một thức ăn tiêu biểu không thể nào thiếu của người Khmer vùng đồng bằng Nam Bộ.
Từ những năm 50 của thế kỷ trước, Trà Vinh và Sóc Trăng đã là quê hương của "bún nước lèo". Để có một nồi nước lèo thơm ngon, mùi vị đặc biệt, nguyên liệu chính là mắm "bồ hoóc" Cách làm mắm bồ hoóc cũng khá đơn giản: Cá đồng các loại, sau khi làm sạch ruột thì ngâm nước lã cho hơi ươn đi. Đưa phần cá đã ngâm qua đêm lên nia tre phơi ráo cho rỉ hết nước cá (sau nầy mắm sẽ thơm ngon hơn).
Công đoạn quan trọng nhất chính là việc rửa lại cá bằng nước muối, sau đó xếp vào lu hoặc hũ sành theo thứ tự 1 lớp muối, 1 lớp cá, 1/2 cơm nguội, đậy lại bằng mo cau khô hay vải nylong, nêm thật chặt bằng nan tre rồi đem phơi nắng khoảng 3 tuần, muốn cho mắm thật ngon, phải ủ tiếp từ 6 đến 12 tháng thì hoàn tất
Cá tươi được ủ chượp kỹ lưỡng, khi "chín ngấu" sẽ có mùi thơm đậm đà rất đặc biệt. Riêng Prô-hok của người Khmer Trà Vinh được làm từ nhiều loại cá biển, nên có một hương vị rất đậm đà mà không địa phương nào ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có thể so sánh được.
Bún nước lèo tiếng Khmer gọi là "nụm choóe". Việc quan trọng nhất của món ăn nầy là khâu pha chế nước lèo: nước lèo ngon thì bún mới thật ngon. Trước tiên, mắm được nấu trong nước sôi cho đến khi rã thịt thì lọc bỏ xương lấy nước để riêng. Sau đó, hầm một nồi súp gồm cá lóc, cá kèo (có thêm xương heo, xưong gà để lấy chất ngọt).
Cá sau khi chín, vớt ra để ráo, rút hết xương, quết với sả ớt băm nhuyển. Có được súp, ta lấy nước mắm đã lọc hết xương khi nãy đổ chung với nước súp, nấu sôi lên. Hỗn hợp súp xương và nước thịt mắm gọi là "nước lèo". Gia vị nêm là đường, muối, sả ớt. Đặc biệt để tạo mùi thơm đặc trưng thì không thể thiếu sự góp phần của củ ngải bún (một loại củ nhỏ khoảng đầu đũa, màu giống như củ gừng nhưng hơi trong, thường được trồng ở các gò đất cao). Khi nấu nước lèo chúng ta cũng cần bỏ thêm vào một nắm nhỏ sả cây để tạo mùi
Ngoài ra, qua thời gian, từ những kinh nghiệm thực tiển, để chế biến thêm, người ta còn cho vào nồi nước lèo nấm rơm chẻ đôi hay xắt mỏng hoặc tép đập dập đã được trộn với sả ớt. Hoàn tất xong các công đoạn, chúng ta sẽ có được một nồi súp nước lèo tuyệt hảo: trong, ngọt và thơm lừng mùi mắm. Với phần rau ghém gồm: bắp chuối xắt mỏng (ngâm trong nước lạnh có pha chanh để cho bắp chuối trắng và bớt chát), bông súng cắt ngắn (khoảng 5 mm), giá, hẹ, rau thơm, chanh (hay giấm chua) và ớt hiểm (một loại ớt trái nhỏ khoảng đầu đũa ăn).
Một vốc sợi bún trắng, dẻo (trụn vài lần trong nước sôi cho nóng) được xé tơi để vào trong tô, trên mặt là một nhúm rau ghém các loại, người ta chan vào đấy vài giá nước súp nghi ngút khói có trộn lẩn với thịt cá, tép và những lát nấm rơm. Thế là đã có được một tô bún nước lèo hấp dẫn và ngon lành. Để tăng thêm phần ngon miệng, người ta ăn kèm thêm: thịt heo quay, bánh cóng và chả giò chiên giòn
Bún nước lèo là một món ăn bình dân, giá cả phải chăng. Không riêng gì người Khmer, mà cả người Kinh và người Hoa ở Trà Vinh đều rất ưa thích. Và có lẽ, cũng chính từ món bún nước lèo của người Khmer, cái lẩu của người Hoa, sau những cải tiến đã cho ra đời món "lẩu mắm" với hương vị đặc trưng riêng biêt. Trước đây, bún nước lèo ở Trà Vinh được bày bán trên các sạp tre ở chợ quê, hay gánh rong theo các Phum Sóc. Thực khách dùng đũa và từng miếng lớn, thỉnh thoảng lại húp nước lèo soàn soạt hay cắn chút ớt hiểm cay xè.
Với từng ấy hương vị hoà quyện cùng nhau, cộng với cái nóng sốt của nồi nước lèo lúc nào cũng chểm chệ trên bếp than hồng toả mùi thơm quyến rũ, đã đủ khiến cho ai đã ăn qua một lần không thể nào quên. Hiện nay thì đặc sản nầy đã được đưa vào danh sách món ăn ở các nhà hàng lớn tại Trà Vinh Bún nước lèo - một thức ăn đậm đà tính dân tộc, không chỉ riêng của người Khmer, mà còn là của cả vùng đồng bằng sông Cửu Long, thể hiện bản sắc văn hoá đầy chất phóng khoáng, không câu nệ, cầu kỳ của người dân Nam Bộ hiền hoà, chân chất.
(theo tiengthotoi blog)Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..
-
18-10-2011, 11:16 PM #25
Canh Kiểm Nam Bộ..
Vùng đất Nam bộ được thiên nhiên ưu ái với đất đai màu mỡ, cây trái xanh tươi. Chính vì vậy khi nhắc đến cây trái, rau quả thì phải nói đến Nam bộ, cũng vì lẽ đó mà nét ẩm thực ở nơi đây cũng rất phong phú, đa dạng.
Chỉ nhìn qua món canh kiểm, một trong những món chay hiếm hoi có tên riêng, chứ không dùng tên kiểu giả mặn như đa số các món chay khác hay đặt đủ thấy sự dung hòa của nhiều loại rau, củ, quả để tạo nên một món canh chay mà ai đã được từng ăn sẽ nhớ mãi.
Ở Nam bộ hễ đến những ngày rằm lớn đa số người theo đạo Phật thường nấu món canh kiểm dùng làm món ăn chay. Để nấu món canh kiểm, người ta cần chuẩn bị những rau, củ quả như bí đỏ, khoai lang, đậu que, đậu phộng, bột khoai, đậu hũ, nước cốt dừa
Theo như những người theo Phật giải thích nguồn gốc món ăn này là do ngày xưa Phật tử thường cúng dường vào dịp rằm, lễ. Người mang đến trái bí, kẻ dâng miếng khoai, quả mướp. Các nhà sư mới nghĩ ra cách gộp tất cả những nguyên liệu này nấu thành món ăn thết đãi chúng sinh.
Còn theo như những người Việt gốc Hoa thì món canh kiểm có nguồn gốc từ món “tàu thưng” là canh được nấu từ đậu xanh, bột báng, đậu hũ, khoai lang của người Triều Châu khi du nhập vào đất Nam bộ thêm các loại rau, quả và nước cốt dừa vào thành ra món canh kiểm như hiện nay.
Dù nguồn gốc như thế nào đi nữa thì món canh kiểm giờ đây được xem như món ăn chay đặc trưng của người Nam bộ. Để nấu món canh kiểm trước tiên lấy dừa nạo nhỏ, vắt lấy 1 lít nước cốt. Khoai lang, bí, khoai môn gọt vỏ, rửa sạch, xắt dày; đậu phụng ngâm nước, nấu mềm, bóc vỏ, rửa sạch. Đậu còn lại rửa sạch, rang vàng với chút muối. Bún tàu ngâm nước, cắt khúc dài. Đậu hũ ngâm nước, xé miếng bằng 3 ngón tay.
Trộn chung khoai lang, khoai môn, bí đỏ, ướp muối, đường, để nửa tiếng cho thấm. Cho nước dừa vào nồi nấu sôi, đổ hỗn hợp khoai, đậu các loại ninh thật mềm, khi gần chín cho bún tàu, đậu hũ và nước cốt dừa vào nêm muối, đường cho vừa ăn thì nhắc xuống. Khi ăn múc ra tô, rắc đậu phộng lên trên, ăn nóng. Nếu thiếu nước cốt dừa là mất đi linh hồn của canh kiểm.
Món canh kiểm có thể ăn cùng với cơm hay bún, khi ăn sẽ cảm nhận được sự kết hợp của vị ngọt, mặn và béo; cùng với vị bùi của khoai, giòn của đậu phộng, và mềm của đậu hũ.
Ăn chay giờ đây là xu hướng tương đối phổ biến của nhiều gia đình mỗi khi đến ngày rằm, mồng một,...và món canh kiểm dường như đã là món không thể thiếu trong những bữa cơm chay của người Nam bộ.
(theo laodong)Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..
-
18-10-2011, 11:20 PM #26
Mực Cơm Xứ Quảng
Năm nay vùng biển bãi ngang xứ Quảng quê tôi được mùa mực cơm. Mực cơm thường xuất hiện vào những ngày tối trăng, nhiều nhất là tháng 6 đến tháng 9.
Thời điểm này mỗi khi trời yên biển lặng, ngư dân lại đồng loạt ra khơi. Từ buổi sớm tinh mơ những chuyến tàu chở đầy ắp mực cập bến vào bờ, cả bến cá rộn rã tiếng nói cười.
Chỉ lớn bằng hai đầu ngón tay nhưng thịt mực cơm ngọt, không dai, có thể chế biến thành nhiều món ngon. Mực cơm hấp là món tuyệt ngon. Những con mực còn tươi (đầu không bị đứt rời, túi mực không dập) để nguyên con, rút bỏ túi mực, bóc lớp màng màu tím bao quanh thân, rửa vài bận qua nước, để ráo. Xếp mực vào nồi hấp cách thủy.
Khi hấp cho vào nước một ít rượu và gừng để khử mùi tanh, đồng thời để mực thơm hơn. Chỉ năm mười phút là mực đã chín. Món này ăn cùng chuối chát, khế chua cắt lát mỏng, rau húng và nước mắm ớt gừng đậm đặc. Ngoài ra, mực sau khi làm sạch có thể ướp với một ít muối tiêu gừng, xào cùng với mướp hoặc giá, ngò tây. Món này thường dùng ăn với cơm trong bữa ăn hằng ngày
Những hôm nhà có khách, ưa cảm giác lạ miệng chủ nhà lại chọn con mực vừa câu lên bỏ hết nội tạng, thái miếng, vắt chanh vào ướp một lúc. Sau đó, gắp miếng mực tươi chấm vào chén mù tạt cay nồng. Hoặc có thể tái mực bằng nước sôi, giấm chua hay bia. Ai thích ăn con nào cầm râu con đó nhúng vào nồi nước đang sôi trong chốc lát rồi vớt ra thưởng thức.
Nhưng có lẽ mực cơm nướng lửa than là món ăn độc đáo nhất, lại hợp khẩu vị của người dân xứ Quảng. Tuy chế biến không khó nhưng mực cơm nướng đòi hỏi sự tỉ mỉ, phải nướng kỹ trên lửa than liu riu. Hơi nóng vừa phải sẽ làm mực chín cả trong lẫn ngoài. Khi mực chuyển sang màu vàng, mùi thơm lừng lan tỏa là lúc mực vừa chín tới. Mực tươi rói nướng lên vừa thơm, giòn, ngọt, chấm với tương ớt hay muối tiêu chanh thì chẳng còn gì khoái khẩu bằng..
(theo thanhnien)Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..
-
19-10-2011, 12:50 AM #27
Thưởng Thức Đặc Sản Mọi Miền Ở Hà Nội..
Thắng cố Tây Bắc, bánh đa của Hải Phòng, cháo lượn Nghệ An, bánh canh miền Trung... là những món ăn đặc sắc có thể thưởng thức ở Hà Nội.
Với nhiều người, Hà Nội quả là một thiên đường ẩm thực. Tại đây, thực khách không chỉ được thưởng thức những món ăn nổi tiếng của đất Hà thành mà còn có cơ hội trải nghiệm nhiều món ăn đặc sắc đến từ các vùng miền khác nhau trên cả nước.
Thắng cố là món ăn đặc trưng truyền thống của người H'mông ở các tỉnh miền núi Tây Bắc. Món ăn này được chế biến từ thịt bò, thịt trâu, thịt ngựa và thịt lợn với các bộ phận như: lòng, tim, gan, tiết, thịt, xương, được cho vào chảo nước đun nhừ, có thể cho thêm các loại rau. Khi ăn, chảo vẫn để trên bếp đun, ăn đến đâu múc ra bát đến đó.
Tại Hà Nội, có thể thưởng thức món ăn này tại quán thắng cố Hà Thành trên đường Hoàng Quốc Việt. Cần lưu ý là món thắng cố tại đây đã được cải biên ít nhiều, chỉ tinh lọc bộ lòng ngựa và tiết ngựa thay vì "tạp phí lù" như thắng cố nguyên bản.
Bánh đa cua là một món ăn dân dã, rất phổ biến tại Hải Phòng. Một bát bánh đa hấp dẫn loại này phải hội tụ đủ ngũ màu: màu gạch cua nâu hồng, màu bánh đa nâu sậm, màu xanh mướt của lá lốt, rau muống, hành lá, chanh; màu đỏ tươi nơi trái ớt và vàng rộm của hành khô.
Màu sắc bắt mắt kết hợp với hương vị thơm ngon, béo ngậy chắc chắn làm thực khách nếm một lần sẽ không thể nào quên. Một số địa chỉ bánh đa của Hải Phòng tại Hà Nội: gánh hàng số 27 Hàng Cá, bánh đa cua bà Liên phố Lê Lợi, quán số 22 Trần Khát Chân.
Khi nhắc đến ấm thực của đất cố đô Ninh Bình, không thể không nhắc đến thịt dê núi. Thịt dê nơi đây nức tiếng ngon hơn các vùng khác bởi hai lẽ: thứ nhất, dê Ninh Bình nuôi trên núi đá, ăn các loại lá cây đa dạng nên thịt săn chắc hơn so với dê thả đồi; thứ hai, người Ninh Bình có bí quyết riêng để chế biến các món từ thịt dê.
Một số quán chuyên về dê núi Ninh Bình ở Hà Nội là Dê Núi Anh Thư ở 55 Đại Cồ Việt, quán “Hà dê” ở số 63 Phạm Hồng Thái
Xứ Nghệ vốn nổi tiếng với nhiều đặc sản được rất nhiều người ưa thích như cà pháo Nghi Lộc, nước mắn Diễn Châu, cam Xạ Đoài, “nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn”.... và tất nhiên không thể không nhắc đến món cháo lươn, một đặc sản và là niềm tự hào của người dân xứ Nghệ.
Có khá nhiều quán bán cháo lươn Nghệ An ở Hà Nội như: số 43 Trần Hữu Tước, số 64 đướng Láng, số 112 Nghi Tàm, quán lươn đầu dốc Hoàng Quốc Việt
Có xuất xứ từ tỉnh Quảng Nam, mỳ Quảng đã trở thành một món ăn đặc trưng của cả miền Trung Việt Nam. Sợi mì được làm bằng bột gạo xay mịn hoặc bột mì và tráng thành từng lớp bánh mỏng, sau đó thái theo chiều ngang để có những sợi mỏng khoảng 2mm. Dưới lớp mì là các loại rau sống, trên mì là thịt lợn nạc, tôm, thịt gà cùng với nước dùng được hầm từ xương lợn. Ngoài ra, trong bát mì Quảng còn có thể có thêm lạc rang khô và giã dập, bánh đa, hành lá thái nhỏ, rau thơm, ớt đỏ...
Ở Hà Nội, có thể thưởng thức mỳ Quảng ở quán Huế - Ngự Bình ở góc Láng Hạ - đường Láng, quán bánh xèo Chính Thắm trên đường Thái Hà.
Là một đặc sản của xứ Huế, bún bò Huế có hương vị rất riêng với nước dùng làm từ xương bò hầm chín có cho thêm mắm ruốc và chả lợn hay chả bò quyết nhuyễn. Thịt bò có thể xắt mỏng, được nhúng vào nước dùng đang sôi trước khi cho vào bát bún (gọi là thịt bò tái). Bún bò Huế được ăn kèm với rau sống gồm giá, rau quế, chanh, bắp chuối, rau…
Có khá nhiều quán bán bún bò Huế ở Hà Nội, nhưng phải vào đúng quán do người Huế làm thì mới cảm nhận hết vị thơm ngon của món ăn này. Một số địa chỉ đáng lưu ý: quán số 7 Thái Phiên, số 22 Hàng Hành và một quán đầu đường Phạm Ngọc Thạch.
Bánh canh là một món phổ biến ở miền Trung và Nam Việt Nam. Bánh được làm từ bột gạo, bột mì, hoặc bột sắn hoặc bột gạo pha bột sắn, được cán thành tấm và cắt ra thành sợi to và ngắn. Nước dùng được nấu từ tôm, cá, chân giò... thêm gia vị tùy theo từng loại bánh canh. Bánh được bỏ vào nồi nước dùng đã hầm vừa đủ độ và đợi cho chín tới. Gia vị cho bánh canh thay đổi tùy theo món bánh canh và tùy theo khẩu vị mỗi vùng.
Bánh canh có thể dùng kèm với cá đã róc xương, chả cá, chân giò, tôm, thịt... Các quán ở số 104 Đại Cồ Việt, ngõ 18 Huỳnh Thúc Kháng, 5D Quang Trung... là địa chỉ để thưởng thức món ăn này ở Hà Nội.
Cơm tấm Sài Gòn là món đặc sản của miền Nam Việt Nam, được nấu từ hạt gạo tấm. Khi ăn, cơm được bày ra đĩa cùng nhiều thức ăn kèm theo như sườn nướng, chả trứng, trứng ốp-la, bì và đồ chua như đu đủ, cà rốt, củ cải, dưa chuột dấm... Ngoài ra, ăn cơm tấm phải có nước mắm ngọt, là nước mắm pha với nước lọc và thêm đường.
Một số quán cơm tấm ngon ở Hà Nội: 102K1 Giảng Võ, 59 Tràng Thi, 79A Trần Hưng Đạo, 13 Lý Thái Tổ..
(theo daatviet)Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..
-
19-10-2011, 01:01 AM #28
Nghề Sờ" Vú Nàng" Giữi Đại Dương..
Nhờ có nghề "sờ vú nàng" này mà nhiều ngư trường đã trúng hàng trăm triệu, hàng tỷ. Có đợt ngư dân trên huyện đảo Lý Sơn đổ xô tập trung đi dài ngày để khai thác "vú nàng".
Vú nàng (còn gọi là vú biển, hải sâm) được coi là "thần dược tình yêu" - món hải sản đặc biệt, giá đắt đỏ, khoảng 1,6 triệu đồng/kg, nên có sức hút mãnh liệt, lôi cuốn hàng trăm ngư dân hành nghề lặn ở huyện đảo Lý Sơn tham gia khai thác.
"Thần dược" vú nàng
Những năm của thập niên 70-80 thế kỷ trước, hải sâm ở các vùng biển nước ta còn nhiều vô kể, riêng huyện đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi chỉ cần chạy tàu thuyền ra khỏi bờ khoảng vài chục hải lý là ngư dân có thể lặn xuống bắt được hàng tá
Thế nhưng do giá hải sâm lúc bấy giờ vẫn còn rất thấp, mặt khác thị trường tiêu thụ khó khăn vì thế khi bắt được, nhiều ngư dân trên đảo chẳng "so đo nhiều" liền đem về luộc, nấu cháo cho cả nhà và hàng xóm cùng ăn. Về sau ăn mãi cũng chán nên một số người đem ngâm rượu uống, hoặc để biếu cho người thân, bạn bè ở đất liền.
Theo lời ngư dân trên đất đảo, nếu trên rừng có nhân sâm thì dưới biển có hải sâm. Hiếm có phương thuốc, loại thức ăn nào bổ dưỡng và có thể hồi phục sức khoẻ nhanh bằng hải sâm. Đi làm về mệt chỉ cần ăn được một bát cháo hải sâm thì chỉ ít phút sau sẽ thấy người khoẻ lại ngay. Còn rượu Hải sâm ngoài chuyện bổ thì nó còn được xem là một phương thuốc... giã rượu vô cùng hữu hiệu của những tay nhậu đất đảo.
Anh Nguyễn Văn Tùng (36 tuổi), ngư dân ở An Vĩnh nói "chắc như đinh đóng cột": Nhiều lúc say bí tỉ nhưng sau khi về đến nhà vớ lấy hũ và uống 2-3 ly rượu ngâm hải sâm thì chỉ mươi phút sau đã thấy người tỉnh hẳn, có thể đi "chiến đấu tiếp hiệp hai với đám bạn nhậu". Nhiều đấng mày râu trên đảo "nửa đùa, nửa thật" bảo đây là loại hải sản mà "ông ăn nhưng bà lại khen ríu rít".
Ngư dân cho biết ban đầu không hiểu sao sau mỗi phiên đi lặn trở về, dù giá khá đắt thế nhưng nhiều người vợ vẫn kiên quyết giữ lại một con chế biến thành thức ăn, hoặc nấu cháo cho chồng ăn. Một số khác tuy ghét cay ghét đắng, thậm chí cấm chồng đi nhậu, thế nhưng nếu biết thứ "nước cay", hay mồi mà phu quân đang uống, nhấm là hải sâm thì họ chẳng la lối gì. Về sau tìm hiểu được sự việc, trước khi ra khỏi nhà đi nhậu với bạn bè, để không bị "bà nhà" chì chiết, nhiều ông chồng đã "thật thà": Nó mới đi lặn vô được con hải sâm nên để lại làm mồi và mời đến lai rai chút xíu.
Quà tặng của đại dương
Tuy cùng một tên gọi, thế nhưng hải sâm có hơn chục loại khác nhau: Vú, đồn đột, áo tơi, ngậng, vải, da trăn...trong đó đắt tiền nhất là loại vú. Con vú có hình dáng giống như con nhộng, chỉ khác phía dưới phần bụng vú có 2 hàng vú, với mỗi bên từ 3-5 núm. Vì thế ngư dân mới đặt tên cho nó là con vú. Trọng lượng của vú từ 800gr-3kg/con
Theo ngư dân đảo Lý Sơn thì từ trước đến nay, con vú to nhất mà họ đã bắt được là vào năm 2007, nặng gần 3kg. Khi còn sống ở dưới biển, nơi to nhất của thân vú từ 30-40cm, dài từ 1-1,2m. Tuy nhiên khi bắt lên bờ thì vú co lại, với chiều dài từ 20-40cm, bề ngang từ 7-15cm. Sau khi bắt lên, vú được ngư dân mổ bụng, lấy ruột bỏ rồi đem ướp muối.
Theo thị trường hiện nay thì giá mỗi kg vú khoảng 1-2 triệu đồng/kg. Còn các loại hải sâm khác giá thấp hơn, từ vài chục đến hơn năm trăm ngàn đồng/kg. Hải sâm ở vùng biển nước ta khá nhiều và phân bố khắp nơi, nhưng tập trung nhất là những vùng đáy đất cát không pha tạp chất, như quần đảo Trường Sa.
Hải sâm thường sống dưới độ sâu từ vài chục đến cả trăm mét, gần khu vực có đá ngầm, rặng san hô... Mùa khai thác hải sâm hàng năm của ngư dân Lý Sơn ở ngư trường trong nước thường bắt đầu từ tháng giêng và kéo dài đến tháng 10 âm lịch.
Tuy được xem là loại hải sản qúy và việc khai thác hải sâm ở Lý Sơn đã diễn ra từ mấy chục năm qua, thế nhưng do thu nhập từ lặn bắt hải sâm không bằng các loại hải sản khác, lại nguy hiểm nên ngư dân trên đảo không "mặn mà" lắm.
Đến thời điểm cuối 1999, đầu 2000, khi hải sâm bắt đầu có giá, thì nghề lặn hải sâm nơi đây đã dần dần tạo nên một "cơn sốt", lôi cuốn đông đảo ngư dân Lý Sơn tham gia. Hiện trên đảo Lý Sơn có hơn 10 tàu thuyền chuyên tập trung đi dài ngày khai thác hải sâm.
"Rái biển" Hoàng Minh Trọng (37 tuổi), ở An Hải tâm sự: Lặn hải sâm có thu nhập cao hơn từ 2-3, thậm chí gấp 5 lần so với đánh bắt hải sản khác. Bình quân mỗi thuyền đi lặn hải sâm có từ 10-14 người, gồm: một nấu ăn và 1-2 lái tàu; thời gian mỗi chuyến ra khơi kéo dài từ 30-45 ngày, mỗi thợ lặn được chia từ 20-30 triệu đồng/người, có khi may mắn, mỗi người được lĩnh hơn 150 triệu đồng/ chuyến đi kéo dài vài tháng.
Bên cạnh đó dụng cụ hành nghề lặn hải sâm khá đơn giản. Ngoài tàu thuyền, chỉ cần sắm 2-4 bộ đồ chuyên dụng, máy nén, dây dẫn hơi, kính lặn...với tổng trị giá khoảng 20 triệu đồng; trong khi đó để sắm ngư cụ, như nghề lưới rút thì phải mất từ 500 triệu-1 tỉ đồng.
Từ lặn hải sâm, nhiều ngư dân đất đảo Lý Sơn đã có thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm. Và con hải sâm đã giúp không ít gia đình ngư dân của đảo trở nên sung túc, giàu có, góp phần làm thay đổi diện mạo đời sống mọi mặt của vùng đất đảo
"Xuất ngoại" tìm…vú
Trước sự săn bắt ráo riết, lượng vú và các loại khác hải sâm nói chung ở ngư trường trong nước ngày một khan hiếm dần. Thế nhưng không vì vậy mà sức hút từ vú đối với ngư dân Lý Sơn giảm đi, ngược lại khao khát "đổi đời" từ loại hải sản qúy này càng bùng lên mãnh liệt hơn bao giờ hết. Thậm chí, nhiều ngư dân trên đảo Lý Sơn đã "xuất ngoại" sang các nước láng giềng để tìm... vú.
Nhờ vào sự quen biết và uy tín của anh Nguyễn Văn Tường (42 tuổi), ở xã An Hải, chúng tôi mới tiếp cận và trò chuyện được với một số thợ lặn vừa trở về sau chuyến đi đầu tiên. Theo lời của họ thì chuyện ngư dân trên đảo "xuất ngoại" để lặn hải sâm cũng chỉ là sự tình cờ. Trong quá trình đi lặn ở các tỉnh phía nam: An Giang, Tiền Giang...ngư dân Lý Sơn đã vô tình nghe được thông tin một số Công ty có chức năng địa phương, nhiều tàu thuyền ở các tỉnh này đã làm các thủ tục và được phép sang khai thác hải sản ở nước bạn.
Với thợ lặn Lý Sơn thì ngư trường nước bạn như: Inđônêxia, Malaixia không xa lạ gì. Bởi lẽ với con mắt "nhà nghề" và không ít lần đã khai thác ở khu vực giáp ranh nên họ hiểu, nắm bắt và dự đoán khá rõ về nguồn hải sâm ở khu vực biển những nước này. Cho nên đối với thợ lặn Lý Sơn, nhất là những người hành nghề lặn hải sâm thì ngư trường ở các nước nói trên chẳng khác nào là miền đất hứa.
Nhiều ngư dân huyện đảo nhờ nhạy bén “xuất ngoại” khai thác hải sâm nên trúng tiền trăm triệu, tiền tỷ
Ốc vú nàng
Cũng mang tên vú nàng, nhưng là loài ốc - ốc vú nàng đã khiến nhiều người tò mò, tìm hiểu, muốn khám phá để rồi ngạc nhiên khi gặp gỡ và mê mẩn lúc thưởng thức.
Ốc vú nàng có hình dáng giống đôi gò bồng đảo của các cô gái dậy thì căng tròn đầy sức sống. Ốc lớn bằng kích cỡ "vú nàng thật", được bao bọc bên ngoài lớp vỏ bằng xà cừ cứng chắc. Nếu dùng cát xát vào vỏ thì toàn thân ốc ửng lên một mầu hồng tuyệt đẹp và gợi cảm.
Loài ốc này có nhiều ở vùng biền miền Trung, đặc biệt ở Côn Đảo và vịnh Vĩnh Hy (Ninh Thuận). Ở Côn Đảo, người ta thưởng thức vú nàng bằng cách cầm con dao nhỏ ra bờ biển, ngồi trên gộp đá mà cạy. Được con nào thì lật ngửa, vắt chút chanh rồi dùng lưỡi dao tách thịt cho vào miệng với chút muối tiêu. Vú nàng giòn, ngọt độc đáo; đặc biệt những con ngậm sữa sẽ cho vị béo không sao diễn tả.
(theo vietnamnet)Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..
-
19-10-2011, 01:13 AM #29
Về Làng Đệ Nhât Tửu..
Đứng bên những danh tửu như Làng Vân, Gò Đen, Hồng Đào, giữa muôn ngàn danh rượu nhập khẩu về từ các nước… cái tên Bàu Đá ngạo nghễ làm nên một thương hiệu. Có người bạn đi giao lưu với thanh niên ở Nhật về kể, anh chỉ đem theo mấy lít Bàu Đá làm quà và thật bất ngờ, họ khen ngợi hết lời, hỏi tại sao rượu ngon đến vậy mà giờ họ mới được nghe thấy...
Làng làm nên thương hiệu
Bước qua cổng “Làng nghề truyền thống rượu Bàu Đá”, tôi gặp chị Trần Thị Sơn. Chị đon đả đưa chúng tôi về nhà, giới thiệu lò nấu rượu và sản phẩm do chính chị làm ra.
Tay trái cầm ly, tay phải cầm bình, chị Sơn nhẹ nhàng đặt vòi bình rượu vào miệng ly. Chị nghiêng tay kéo bình lên cao, kéo lên rồi ngưng rót, rượu như một dòng thác nhỏ tuôn dài xuống ly, không rơi ra ngoài giọt nào. Rượu vừa đầy là lúc rượu sủi tăm vun lên rồi tan nhanh. Những bong bóng bọt tăm vỡ ra, tạo áp suất đẩy hương rượu bay khắp căn phòng, nồng nàn
< Gìn giữ chất lượng, quảng bá là việc làm cần thiết để rượu thương hiệu Bàu Đá đứng vững và vươn xa hơn.
Cũng tự nhận mình là người có nghề... uống rượu, tôi xin chị cho rót thử. Nhưng bàn tay vụng về của tôi chỉ vừa kéo bình lên, rượu đã văng ra ngoài. Tập nhiều lần nhưng tôi không thể nào làm được, nếu không đổ rượu ra ngoài thì dòng chảy lại không đủ mạnh để rượu sủi tăm.
Đi khắp làng Cù Lâm, vào nhà nào, cũng thấy một bình nhỏ đầy rượu sủi tăm chờ mời khách. Ngồi trong căn nhà xưa, ông Tạ Chí Nhơn kể về mấy đời nấu rượu của gia đình, của làng.
Ông Nhơn cho biết, rượu Bàu Đá rất “nặng” (trên 50 độ) uống nhanh say nhưng say rồi không thấy mệt hay nhức đầu. Ông tự hào: “Say túy lúy rồi tỉnh lại vẫn uống tiếp được. Tôi cũng đi nhiều nhưng chưa có rượu nào uống đã bằng rượu làng mình nấu cả”.
Chính con gái ông nấu rượu sành từ nhỏ, nhưng khi lấy chồng về Tây Sơn muốn đem nghề nấu rượu này để mưu sinh nhưng nấu không thể ngon được. Ông giải thích: “Quyết định chất lượng, hương vị, nồng độ rượu phần lớn là do nguồn nước. Nhiều người tới lấy công thức đi nơi khác nấu nhưng không thành công”
< Làm cơm rượu cũng là một công đoạn quan trọng để cho rượu trong và ngon.
Bà Nguyễn Thị Em, vợ ông Nhơn đang lục đục dưới bếp với hai nồi rượu, cũng vọng lên tham gia: “Nếu họ nấu được thì đâu còn là rượu Bàu Đá nữa ông”.
Hai lò rượu của bà luôn đỏ lửa từ hơn 30 năm nay. Bà đã quen với độ nồng của rượu, quen với thời tiết, quen với độ lửa làm sao cho rượu ngon nhất. Cầm chai rượu, bà chỉ cần lắc nhẹ và nói chính xác bao nhiêu độ. Còn rượu mà bà không đoán được, bà gọi là “rượu chạy”.
“Rượu chạy”
Theo người làng Cù Lâm, “rượu chạy” là rượu lạt, rượu dở. Mỗi nồi rượu ở làng nấu gồm 6 kg gạo ngon, vào men ủ 6-7 ngày mới đem ra nấu thủ công bằng nồi đất, ống tre. Một buổi chỉ nấu được một nồi, lửa phải thật nhỏ đủ để nồi cơm rượu bốc hơi rồi ngưng tụ qua một thau nước luôn được giữ mát. Nếu lửa lớn, cơm rượu sẽ bị sít vào nồi, rượu sẽ khê… Mỗi nồi nấu chỉ lấy 4 lít, giá thành thấp nhất là 15 ngàn đồng/lít (chưa tính công) trong khi rượu bán tại làng chỉ 17 ngàn đồng/lít
Tôi hỏi: “Vậy lời ở đâu?”. Bà Em chỉ tay vào đàn heo đang tranh ăn trong chuồng: “Đó, mình chỉ lấy hèm nuôi heo. Ở làng này có ai nấu rượu mà giàu đâu”. Mỗi ngày, nhà ông Nhơn nấu 4 nồi rượu, đủ hèm cho heo ăn.
< Nước giếng ở làng là một “đặc ân” trời cho để nấu rượu ngon.
Rượu của làng bán ra ngoài, người ta cũng nói là mua rượu chính gốc, nhưng thực tế, họ đã pha thêm vào cho nhiều, đặng bán có lãi hơn. Những rượu này rót khó sủi tăm hoặc nếu sủi tăm thì không tan nhanh mà bọt cứ lợn cợn trên mặt ly do tạp chất lẫn vào; rượu trong chai thì chỉ cần lắc nhẹ là đục và rất lâu sau mới trong lại.
Những loại “rượu chạy” này đã làm giảm uy tín rượu của làng. “Tôi dám khẳng định một điều rượu bán ở dọc đường ngoài kia toàn là “rượu chạy” - ông Nhơn bức xúc. Bên cạnh đó, lại có nhiều cơ sở sản xuất, bán rượu Bàu Đá nhưng không lấy giọt rượu nào của làng.
Rượu Bàu Đá ở đâu ra khi không lấy rượu của làng mà rượu dán nhãn Bàu Đá thì nhan nhản trên thị trường, bán đầy dọc quốc lộ, nhất là đoạn qua hai huyện An Nhơn và Tây Sơn? - Ông Nhơn nói thêm.
Một số người nấu rượu cho biết, có nhiều cách để nấu rượu nhanh, nồng độ cao để giả Bàu Đá. Thông dụng nhất là dùng men Trung Quốc, bỏ vào cơm rượu 1-2 ngày là nấu được, không cần ủ lâu; có loại bỏ trực tiếp vào gạo không cần nấu thành cơm.
Một số nơi sản xuất nhiều thì mua mật rỉ ở nhà máy đường về pha với nước, phẩm màu, gia thêm hương vị (thường dùng hương dứa) vào, là thành rượu Bàu Đá xanh, đỏ, vàng, tím đủ màu. Khủng khiếp hơn, một người làm rượu tiết lộ, có loại cồn chỉ cần 2 lít pha với 48 lít nước là thành 50 lít rượu!
< Một hộ dân ở Nhơn Lộc (An Nhơn) nấu rượu Bàu Đá bằng phương pháp thủ công.
Hiện nay, trên thị trường, một lít rượu Bàu Đá đóng đủ loại chai với mẫu mã bắt mắt giá chỉ 14 ngàn đồng/lít, thậm chí, có nơi chỉ bán 12 ngàn đồng/lít. Ông Nhơn băn khoăn: “Họ bán rẻ vậy mà sao lại giàu. Mình bán đắt hơn họ nhiều mà không có đồng lãi nào!”.
“Tôi và nhiều người trong làng cũng một vài lần mua thử loại rượu này về uống. Nếu chưa bao giờ uống rượu chính gốc thì rất khó phân biệt, bởi cũng nồng độ cao, cũng sủi tăm khi lắc chai nhưng rượu rất gắt, uống cứ bứ ở cổ, tăm sủi như bọt xà phòng, uống vào vài ly là đau đầu không chịu nổi”- ông Nhơn cho biết thêm.
Vậy nên, cái ngày trọng đại nhất với người làng Cù Lâm là ngày danh rượu được công nhận thương hiệu, lại có rất ít cơ sở sản xuất rượu Bàu Đá đến tham dự. Có lẽ, họ sợ thương hiệu!
Cho xứng danh “đệ nhất tửu”
Nhà thơ Nguyễn Duy vinh danh rượu Bàu Đá là “đệ nhất tửu”, thi sĩ Tản Đà thì phong là “đệ nhị tửu”… Mỗi người một cách cảm nhận, nhưng ai đã một lần nhấp thử chút men nồng của ly rượu Bàu Đá thì cũng chếnh choáng như hai con người sành rượu trên.
Bà Nguyễn Thị Thanh Bình, Phó Chủ tịch UBND tỉnh kể, đoàn y tế của Hàn Quốc khi đến Bình Định khám chữa bệnh, họ đem theo một số thứ mà họ sợ ở Việt Nam không có như ớt xanh, kim chi, rượu. Nhưng khi được uống rượu Bàu Đá, họ rất mê
Không chỉ đoàn của Hàn Quốc, nhiều đoàn khách quốc tế khác khi đến Bình Định uống đúng rượu Bàu Đá của làng Cù Lâm cũng đều khen và tìm cách mua mang về. “Việc gìn giữ chất lượng, giới thiệu, quảng bá là việc làm cần thiết để rượu Bàu Đá đứng vững và vươn xa hơn”- Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Thị Thanh Bình nói.
Ông Lê Quang Tâm, Chủ tịch Hiệp hội Sản xuất - Kinh doanh rượu Bàu Đá Bình Định, cho biết, sau khi được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học - Công nghệ) cấp bằng bảo hộ nhãn hiệu tập thể “Rượu Bàu Đá” cho 53 doanh nghiệp, cơ sở, hộ sản xuất, kinh doanh rượu, cơ quan chức năng sẽ có điều kiện để quản lý, kiểm tra, nhằm lấy lại thương hiệu, uy tín rượu Bàu Đá. “Trước hết, Hiệp hội sẽ phối hợp với các cơ quan chức năng dẹp tất cả những loại rượu không có nhãn mác, rượu giả đã làm giảm uy tín rượu Bàu Đá lâu nay; đồng thời, tạo điều kiện để người sản xuất rượu có lợi nhuận, giữ chất lượng, nhằm nâng cao thương hiệu rượu Bàu Đá” -ông Tâm nói.
< Cây lúa làm ra loại rượu ngon nổi tiếng.
Làng Cù Lâm (xã Nhơn Lộc, huyện An Nhơn) là tên hành chính, người dân từ lâu đã gọi làng này là làng Bàu Đá. Theo những người lớn tuổi ở đây, trước kia, trong làng có một cái bàu rộng vài ha, xung quanh là đá, nước ở bàu này uống rất mát và ngọt.
Lúc đó, nhiều nhà chưa có giếng lấy nước này về uống, nấu ăn và cả nấu rượu. Cái nguồn nước ngọt ngào ấy cho ra một loại rượu nấu từ gạo rất ngon, thơm và uống có hậu (giới uống rượu dùng từ này chỉ cho loại rượu uống xong còn ngòn ngọt ở cổ). Hương rượu của làng bay xa, nhiều người tìm đến mua. Vậy là hình thành làng rượu, hình thành danh tửu Bàu Đá
(theo bao Bình Định)Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..
-
19-10-2011, 01:20 AM #30
Văn Hóa Ẩm Thực Chợ Bến Thành Sài Gòn..
Nếu ai đó có lần đặt chân đến Sài Gòn, nếu ai đó đã từng được nghe kể về mảnh đất nơi đây hoặc có người thân, họ hàng sinh sống và làm việc tại mảnh đất này… chắc chắn sẽ không thể không biết đến cái tên hết sức quen thuộc và nổi tiếng: chợ Bến Thành.
Từ lâu chợ Bến Thành hiện hữu trong đời sống của người dân thành phố như một phần không thể thiếu, đó không chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi buôn bán mà còn là nơi lưu giữ những nét văn hóa truyền thống của dân tộc. Đặc biệt là nét văn hóa ẩm thực.
Vậy văn hóa ẩm thực chợ Bến Thành có gì đặc sắc, hấp dẫn? Và tại sao chỉ là cái chợ thôi mà nó lại trở thành một cái gì đó không thể không nhắc đến khi nhắc tới thành phố mang tên Bác. Chợ Bến Thành còn gọi là chợ Sài Gòn trước đây hơn một thế kỷ, được lập lên ở phía sông Bến Nghé gần với thành Gia Định
Cũng theo các tài liệu ghi lại thì lúc đầu chợ Bến Thành ở phía đông huyện Bình Dương (lúc đó Bình Dương còn là một huyện của thành Gia Định). Vì chợ nằm dọc theo bến sông trước thành Phiên An (Gia Định) nên được gọi là chợ Bến Thành (có nghĩa là ngôi chợ trên bến sông của thành Gia Định).
Trải qua thời gian, chợ nhiều lần được di dời. Hiện nay, chợ Bến Thành nằm ở trung tâm thành phố và trở thành một địa điểm hết sức quen thuộc với người dân Việt Nam và du khách quốc tế.
Cũng như chợ Đồng Xuân ở Hà Nội, hàng hóa trong chợ Bến Thành rất phong phú và đa dạng, dường như có đủ các mặt hàng, các sản phẩm trong nước và các hàng công nghệ hiện đại trên thế giới. Nhưng nổi bật lên trong số đó là những món ăn mang đậm dấu ấn quê nhà. Khi nhắc đến chợ Bến Thành nếu bỏ qua nét ẩm thực nơi đây thì sẽ mất đi rất nhiều phần thú vị, hấp dẫn và ý nghĩa.
Đặt chân vào trong chợ, đi qua những hàng bày bán quà lưu niệm, quần áo, giày dép… chúng ta sẽ đến nơi bày bán các món ăn. Đến đây mọi người sẽ dễ dàng nhận thấy sự phong phú của các món ăn
Với sự góp mặt của đầy đủ các món ăn từ khắp mọi miền đất nước, văn hóa ẩm thực chợ Bến Thành là sự kết hợp khéo léo và tinh tế của những nét văn hóa ẩm thực vùng miền, tạo nên một nét văn hóa vừa đa dạng vừa độc đáo: từ mùi hương ngào ngạt của món phở đến cái vị dẻo dai đậm đà của món bánh bèo, bánh cuốn, từ mùi thơm của chiếc bánh xèo chiên giòn, những đĩa chả giò, chả lụa đẹp mắt đến hơi khói bốc lên cả một góc chợ của mùi hủ tíu… Tất cả mang lại cho con người cảm giác gì đó rất mới lạ nhưng cũng nghe chừng quen thuộc quá.
Và nếu nghe bụng đói, có lẽ là một đĩa cơm tấm với món cá kho tộ, món canh chua hay một đĩa chả ram, một món khổ qua nhồi thịt sẽ làm cho lòng ấm lên.
Không gian trong chợ có phần chật chội, chen chúc tạo cho ta một cảm giác khó chịu nhưng biết đâu đó, nó lại tạo cho ta một cảm giác ấm cúng. Từ những món ăn đến cái không gian hạn chế ấy biết đâu nó lại làm cho con người xích lại gần nhau hơn. Biết đâu từ những cái va chạm khe khẽ họ sẽ quay lại nhìn nhau, mỉm cười và trò chuyện cởi mở với nhau. Họ lại nhận ra nhau trong cái gu thưởng thức…
Khi nói đến chợ Bến Thành sẽ rất thiếu nếu như không nói đến chợ đêm. Những món ăn được bày bán rất nhiều và không gian của khu chợ đêm có phần rộng rãi, thoáng đãng hơn. Các hàng quán được mở rộng và lúc này cũng nhộn nhịp náo nhiệt bởi tiếng cười nói của người lớn, trẻ nhỏ hòa cùng không khí gia đình…
Nếu chợ ngày hạn chế về thời gian đối với những người thành phố thì chợ đêm lại là một nơi lý tưởng. Sau một ngày làm việc mệt mỏi và sức ép của cuộc sống thường nhật, những người thân trong gia đình có ít thời gian ngồi bên nhau, bạn bè ít có cơ hội gặp gỡ trò chuyện thì chợ đêm là một sự lựa chọn hợp lý.
Chợ Bến Thành từ lâu đã trở thành một phần không thể thiếu đối với người dân thành phố và cũng là một địa điểm quen thuộc của những người từ phương xa tới. Và cũng từ lâu chợ Bến Thành trở thành một địa điểm thu hút các du khách góp phần tạo nên sức hấp dẫn của du lịch thành phố.
Nếu vấn đề về không gian, về vệ sinh an toàn thực phẩm và giá cả được quan tâm thực hiện một cách hợp lý cùng với việc mở rộng, tạo thêm sự phong phú đa dạng trong các món ăn hơn nữa thì trong tương lai chợ Bến Thành sẽ trở thành một địa điểm nổi tiếng mang những nét văn hóa ẩm thực đặc sắc của Việt Nam.
(theo Ẩm Thực VN)Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..
Ẩm Thực Trên Cao Nguyên Đá Đồng Văn..
Đánh dấu