PDA

View Full Version : Nước mắt sông Cầm



dohuuthuc
20-07-2011, 09:15 PM
Nước mắt sông Cầm

Phạm Nhan là một trong những cái tên khiếp sợ nhất trong dân gian một thời gian dài. Nhan tên thật là Nguyễn Nhan, tên chữ là Nguyễn Bá Linh.

Cái tên Phạm Nhan liên quan tới một giai đoạn nhiều biến cố trong lịch sử dân tộc. Truyền thuyết dân gian nói rằng Nhan đã hóa thành một loài vật ghê tởm sống trên dương gian.


Quê ngoại Nhan ở làng An Bài, huyện Đông Triều. Mẹ Nhan người Việt, bố người Hoa, tổ tiên sống nhiều đời bên bến sông Cầm.


Người đàn bà mang thai đưa cái bụng nặng nề đi quanh làng An Bài cho dễ sinh. Những phiến đá xanh trơn trượt, người đàn bà mím môi, bấm ngón chân đi bên rìa đường cho vững. Gió thổi quất mặt. Lá xoan bay như rắc. Nước sông Cầm vỡ xóa. Trời vặn mình đau đớn. Đứa con sắp ra đời.



Nhan sinh ra.


Một thằng bé bình thường.


Bà mụ cắt dây rốn bằng cật nứa sắc.


Người đàn ông Hoa kiều chết trong một lần đi buôn thuyền trên sông Bạch Đằng. Nhan mồ côi cha. Người đàn bà góa lấy sông Cầm và những vực nước gần nhà làm nơi kiếm sinh nhai.


Mùa hè: dấm cáy.


Mùa đông: mò ốc.


Tháng Chín đôi mươi, tháng Mười mùng năm: đi hớt rươi ở bãi triều ven sông.
Chợ Cột là nơi mẹ con Nhan và người dân làng An Bài đưa những thứ kiếm được mang ra bán.



Chợ Cột.


Chợ Cột.


Những mái lá buộc trên chóp cây cho khỏi nắng.


Hàng thân cột đốn từ núi Đông Bắc xếp chằn chẵn chuẩn bị mang ra bến Kinh Thầy.


Dăm mớ tôm, mớ ốc đựng trong rá phủ lá tre.


Lò bễ đỏ, nước xèo xèo, búa vung chong chóng.


Đàn ông rít điếu bát, nhả khói như nồi nước nóng.


Đàn bà quây quần lụp xụp húp, hàng quà.



Nhan đã cóp nhặt đủ tiền để dành mua một tấm quà. Những người con trai làng An Bài rủ nhau vào rừng hái măng, đốt than, chặt gỗ, thả bè theo sông Cầm, sông Đạm, có khi vào đến tận Yên Tử.


Nước suối trong và lạnh.


Nước sông đục và nồng.


Măng đắng vùng Đông Bắc ăn mãi không biết chán. Mai rừng từng gốc nhỏ mọc rải rác trên núi, mùa xuân điểm những chấm vàng bên những bụi xanh. Những bè gỗ lướt trên sông như con thuyền dát mỏng.


Nhan có một tính xấu: thích rình bọn con gái trong làng tắm dưới sông Cầm. Nhan bò ở bờ sông như con mèo rình chuột, nấp trong bụi cây nhìn trộm. Nhan lặn dưới sông như con rái cá. Con rái cá chìm xuống ngay chỗ có những đứa con gái đang tắm, tay chạm vào bầu vú căng nhọn như mầm măng mới nhú.


...


Bị bắt quả tang.


Những cú tát, cú đá. Chửi rủa. Nhưng thói xấu không sao bỏ được. Bên cạnh nhà Nhan có một đứa con gái mới mười ba nhưng xinh xẻo, dạn dĩ. Con bé ấy tên Nhiên. Nhan thích Nhiên lắm. Nhan đã nhiều lần rình trộm đàn bà, con gái trong làng, nhưng chưa bao giờ dám nhìn trộm đứa con gái hàng xóm mình thích.


Nhiên tắm trong cái ô quây bằng lá mía khô, hở tứ bề. Thấy Nhiên đi về phía ấy, nghe tiếng dội nước là Nhan lảng đi. Nhan sợ đôi mắt của Nhiên, những câu nói như lưỡi dao cứa vào thịt. Nhan bị mẹ đánh vì cái tội nhìn trộm đàn bà con gái, Nhiên bảo.


- Cái tính của Nhan xấu lắm. Nếu Nhan muốn xem, hôm nào ra sông Cầm, tôi tắm cho Nhan xem.


Nhan đỏ tái mặt, không trả lời. Con đực đang gương cung bị lưỡi roi quất vào. Mềm oặt.
Nhan sắp trưởng thành, con đực sắp thành thục. Lời nói sắc như dao không cắt được gót chân dẫm phải gai rừng nhiều lần. Lớn. Nhan càng lười, chỉ thích lêu lổng. Thằng bé mồ côi cha trở thành thủ lĩnh của những trò mất dạy của đám trẻ trong làng. Người đàn bà góa không đủ sức dạy đứa con lếu láo. Chửi mắng. Đòn roi trừng phạt. Roi tre quất vun vút. Nhiên sang nhà hàng xóm, thấy mắt Nhan lừ lừ, đỏ ngầu những tia máu hung tợn.


- Nhiên thì biết gì, tổ tiên năm mười đời nhà tôi cũng bị bốc lộn lên rồi. Trong làng, chỉ có một người không chửi tôi. Tôi phải bỏ ra đi biệt xứ thôi.


Trận đòn cuối cùng khiến Nhan quên mất tính người, hắn chửi cả cái người đã đẻ ra hắn.
Nhan trốn đi trong đêm tối. Hôm đó, đứa con gái hàng xóm ra gặp Nhan ở miếu thủy thần, cạnh gốc cây duối. Con bé đưa cho Nhan cái vỏ ốc ngũ sắc nhặt được ở sông Cầm.


- Nhan đi thì nhớ đến sông Cầm và vỏ ốc ngũ sắc. Người đi thì biết đường trở về.
Nhan cầm vỏ ốc ngũ sắc, xiết chặt trong nắm tay. Lặng chìm. Lặng buồn. Giọt nước mắt cô độc lăn xuống. Nhan lấy chiếc lược sừng trâu giấu trong áo đưa cho Nhiên.


- Chiếc lược này tôi tự mua ở chợ Cột bằng tiền bán cáy đấy, không phải đồ ăn cắp đâu. Nhiên chải đầu thì sẽ nhớ đến tôi. Tôi phải qua sông vào lúc trời tối. Nhiên mượn cho tôi chiếc thuyền.


Nhiên ra bờ sông gỡ con thuyền đang cột chặt vào tảng đá lớn trên bờ, tự mình chèo thuyền đưa Nhan sang bên kia sông Cầm.


Sông Cầm không mong ngày trở về.


Nhiên không mong ngày trở về.


Nước sông ngầu.


Chưa đến ngày con nước rươi.


Đi.


Ngày lấy chồng, Nhiên vẫn đi trên con đường trơn trượt quanh làng An Bài. Qua ngõ nhà Nhan, thấy bờ rào hoa tầm xuân rã rượi trong gió bấc. Nhiên đưa tay lần chiếc lược sừng mang theo. Tiếng khan trong cổ không thoát ra được.

( còn tiếp )

dohuuthuc
20-07-2011, 09:18 PM
Nước mắt sông Cầm (tiếp theo )

Bỏ đất Việt, vượt sang đất Trung Hoa, Nhan dùi mài kinh sách, sau thi đỗ tiến sĩ và ra làm quan. Khi đó bên Trung Quốc là thời kì cai trị của nhà Nguyên. Năm 1206 thủ lĩnh Thiết Mộc Chân đã thống nhất các bộ lạc du mục, lập quốc ở Mông Cổ, được suy tôn là Thành Cát Tư Hãn. Đội quân viễn chinh của Thành Cát Tư Hãn lần lượt đánh bại các nước Hạ, Kim, Nam Tống, thống nhất được Trung Quốc, uy hiếp cả hai lục địa Á, Âu. Các quốc gia láng giềng rên xiết dưới vó ngựa quân Mông Cổ. Năm 1271, cháu của Thành Cát Tư Hãn là Hốt Tất Liệt định quốc hiệu là Đại Nguyên. Nhan ra sức phò trợ đế quốc ngoại tộc. Hắn chuyên tâm nghiên cứu những chước thuật ma quỷ, phù phép, luyện khí công, biến hóa khôn lường.


Nhan dùng tà thuật thâm nhập vào cung vua Nguyên làm việc dâm ô. Hắn thôi miên cung nữ, vẽ bùa, hình thù kì quái lên chỗ kín, thông dâm với nhiều người.


Việc dâm ô lộ ra, lời đồn đại về những hình thù kì quái trên thân thể phụ nữ lan đi. Một đạo sĩ cao tay bí mật nhập thành. Chưa đầy ba sáu ngày, Nhan bị phát giác, chiếu tội phải xử trảm quyết. Tử tù cầu xin tha tội chết để lập công. Hốt Tất Liệt biết có thể lợi dụng liền đồng ý cho gặp. Trước đó, nhà Nguyên đã hai lần cử quân đi đánh Đại Việt (1257/1284) nhưng đều đại bại. Năm 1287, Hốt Tất Liệt tiếp tục sai con trai là Trấn Nam vương Thoát Hoan chỉ huy hơn ba mươi vạn quân chuẩn bị sang đánh Đại Việt lần thứ ba.
Nhan tâu rằng hắn vốn sinh ra ở nước Việt, thông thạo ngôn ngữ, đường đi. Hắn muốn làm hướng đạo cho quân Nguyên. Hốt Tất Liệt chấp thuận và cho Nhan tham dự đoàn quân của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ sang xâm lăng Đại Việt.


Rước voi về giày mả tổ. Nhan đi như cầm lửa trong tay. Những dòng sông đi qua, sóng cuộn như sông Cầm mùa lũ. Những rừng trúc đại ngàn, măng mọc như chông nhọn. Dãy núi vùng Đông Bắc xiên ngang trời như mũi giáo.



Mẹ hắn hiện về trong mơ.


Đòi giết đứa con bất hiếu.


Những thiếu nữ mất đầu, trần truồng. Những mái nhà lửa cháy, khói bốc ngụt. Vệt máu khô lưu trên trụ giáp. Đêm đêm, Nhan giật mình giữa giấc. Biết đâu trong đám con gái mất đầu có người tên Nhiên, biết đâu những vết máu khô là huyết tộc thân thuộc hay xa xôi của hắn. Tay Nhan đã vấy máu, hắn không thể tự chặt đứt tay mình.


Nhan dẫn đường cho đoàn thủy quân xâm lăng theo đường biển Đông Bắc tiến vào Đại Việt. Binh thuyền giặc tiến qua cửa Vạn Ninh (Móng Cái), rồi vào cửa An Bang (Quảng Yên). Đoàn quân hung hãn chà đạp, giết chóc sinh linh trên đất Việt, Nhan dùng tà thuật giúp đội quân viễn chinh gây nhiều tội ác. Mẹ hắn đã ộc máu chết khi hay tin hắn dẫn giặc về nhà.


Sự hung hãn của đoàn giặc cướp, mưu mô chước quỷ của Nhan cũng không xoay chuyển được tình thế. Quân dân Đại Việt tập kích trại giặc khắp nơi, gây cho chúng nhiều khốn đốn, chờ thời cơ đánh đòn quyết định. Ngày 11 tháng Giêng năm Mậu Tý (1288), đoàn thuyền chở lương tiếp viện cho quân xâm lược do Trương Văn Hổ chỉ huy đã bị Trần Khánh Dư phục kích đánh cho tan tành ở Cửa Lục. Quân Nguyên Mông mất hết lương thực, hoang mang tột độ, phải rút chạy nhục nhã. Trong trận thủy chiến năm 1288 trên sông Bạch Đằng, cùng với chủ tướng là Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ, Nhan bị bắt sống.


Khuôn mặt pha hai dòng máu của Nhan sớm bị phát giác. Nhan bị đưa đến trước Hưng Đạo Vương. Vương trỏ mặt hắn, mắng rằng:


- Thằng giặc kia, ngươi mang dòng máu Việt mà lại dẫn đường cho quân ngoại bang. Có đày ngươi xuống âm ti cũng không hết được tội.


Nhan gằm mặt, mắt đỏ sọc. Mọi người hỏi nên xử thế nào, Vương bảo:


- Lũ giặc Thát là quân cướp nước nhưng khác nòi giống, đợi xử sau. Thằng giặc này mang dòng máu Việt mà giày xéo tổ tiên. Chém.



Nhan bị lôi ra chém nhưng hắn có ma thuật, gươm chém đều quằn lưỡi, đầu không lìa khỏi cổ. Mọi người kinh hãi tâu lên, Vương lệnh:


- Đưa hắn về làng An Bài, huyện Đông Triều. Khấn vái vong hồn mẹ hắn rồi mang ra chém.



Nhan rùng mình khi nghe thấy làng An Bài, quê ngoại của hắn. Hắn sẽ phải gặp lại bằng hữu ấu thơ, gặp lại đứa con gái hắn chưa bao giờ dám nhìn trộm.


Thằng Nhan trở về làng An Bài.


Không phải về thăm quê ngoại.


Tội đồ phản quốc.


Dân làng An Bài đứng kín bến sông để xem chém đầu Nhan. Thằng Nhan nhanh trí, khôn vặt, hay cãi lại, lếu láo ngày xưa giờ thành tên giặc gian ác đang quỳ sọp ở bờ sông. Nhan gục đầu, không nhìn ai. Người trong làng còn nhớ mặt hắn. Thằng Nhan gầy gò bắt cua, mò ốc ở ven sông Cầm.


Thằng Nhan.
Giặc Phạm Nhan.
Cùng ở bến sông Cầm.
Gió thổi như quất.
Nước sông dâng cao.
Trời chuyển mình ghê gớm.
Cơn giông tố chuẩn bị giáng xuống.



Nhan bị trói trật cánh khuỷu, thu lu như con chó nằm trong rọ, mặt quay ra bờ sông. Những người ruột rà, những đứa con trai, con gái làng An Bài đang vây quanh hắn. Cả một tuổi thơ bùn đất dội về.


Muốn ăn cơm nắm muối vừng,
Thì về chợ Cột đi rừng với anh.

Chân Nhan lún sâu xuống bùn đất sông Cầm, người hắn dần mềm ra, dòng nước mắt khô đang chảy bên trong. Nhan khóc cho vong hồn mẹ hắn. Người đàn bà góa chết vì tủi hổ, uất ức. Ai sẽ tha thứ cho hắn? Nhan khóc như chưa bao giờ được khóc. Nức nở, từng đợt. Dòng nước mắt chảy tràn trong lòng bỏng như nước sôi. Hắn thành mềm nhũn. Đôi mắt đen, sâu hoắm hóa sang nhợt nhạt, tái mét. Những người đàn bà bị hắn rình trộm không còn chửi bới hắn nữa. Hắn là con quỷ đã hết phép. Hắn run rẩy, đái ướt cả quần, nước đái chảy cả xuống bờ sông.


Thằng giặc đái dầm! Chỉ có tiếng trẻ con cười. Không gian nghẹn lại, ngắt quãng.
Thằng Nhan.
Ai ngờ...
Trong đám đàn bà con gái người làng An Bài đứng xem hôm ấy có một người lấy tay che giọt nước mắt sắp rơi xuống đất. Nhiên đưa tay vào túi, cái lược sừng còn nguyên. Nhiên đã không còn chải tóc bằng chiếc lược sừng từ khi hay tin Nhan dẫn giặc về nhà. Nhiên định bụng khi gặp Nhan sẽ ném cái lược cứng vào giữa mặt hắn, những lời như dao sắc đã chuẩn bị sẵn.


Nhan đang ở trước mặt, chỉ cách dăm bước chân. Nhiên mấy lần đưa tay vào túi nhưng bỏ ra tay không. Những lời cay độc không bật ra được, cổ họng khan đặc như khi về nhà chồng. Ruột quặn lên, nổi sóng.
Nhan...
Nhan quỳ gối ở đúng chỗ neo thuyền khi Nhiên đưa hắn qua sông. Bờ cát lõm vẹt đi một đám. Người đàn bà có chồng đã ngồi ở đấy nhiều lần.


Thằng giặc gục đầu, bao nhiêu oai phong, ma thuật đã biến mất. Nhan kìm không để nước mắt chảy ra, nhưng không giữ được nữa. Dòng nước mắt nóng chảy tràn trên mặt hắn. Hắn không còn là tên giặc nhâng nhơn, kiêu ngạo nữa. Hắn chỉ là thằng Nhan sợ mẹ đánh tè cả ra quần. Nước mắt đang chảy mềm hắn. Giống giọt nước mắt buổi chia tay ở bến sông Cầm ngày nào. Nước mắt mặn. Nước mắt sông Cầm. Nước mắt Nhiên.


...


Mờ mờ.

Mẹ hắn mua cho hắn đôi hào bánh. Mẹ hắn không đánh hắn nữa. Con bé Nhiên lấy vạt áo lau nước mắt cho hắn. Hoa xoan li ti tím. Mùi chả rươi lá lốt đầu xóm. Lạch đạch tiếng trẻ con làng An Bài chơi pháo đất...



Nhan giờ mới hiểu vì sao hắn hóa thành yếu mềm. Mẹ hắn, làng An Bài, Nhiên, vẫn chờ ngày hắn về. Không ai lớn tiếng chửi hắn. Hắn đã chuẩn bị nghe những lời độc địa dội vào tai. Hắn đã chuẩn bị đón chịu những ánh mắt khinh bỉ. Hắn đã sẵn sàng giương cái cổ cứng để làm oằn mọi lưỡi gươm giáng xuống. Hắn đã chuẩn bị thành con quái vật không bao giờ chết. Nhưng tai hắn chỉ nghe thấy tiếng gió thổi nhẹ trên sông Cầm, tiếng thút thít của mẹ hắn, tiếng ríu rít của trẻ con làng An Bài. Mùi hương bồ kết mái tóc của Nhiên.


Đầu hắn quay cuồng, mắt hắn hoa lên, bao nhiêu công lực, yêu thuật bao năm rèn luyện tan biến hết. Cổ hắn oặt xuống, không xương. Nước mắt tuôn ra không sao kiềm lại được.


Những người đàn bà.



Nhiên.


Chiếc lược sừng đen bóng.


Mái tóc dài.


Răng cườm đen.


Sông Cầm.


Những đứa con trai, con gái làng An Bài.


Lũ trẻ không trêu chọc hắn nữa. Nước sông Cầm đang chảy dưới chân hắn.


Nhan xin được uống một bát nước đầy. Đứa trẻ gầy gò đưa bát nước vào tận miệng hắn. Nước sông Cầm không nồng, nước sông dịu mát. Những hạt đất mịn tan trong miệng hắn. Dòng nước sông Cầm đang chảy trong người hắn.


Cố hương.


Chính ngọ. Thẻ lệnh ném xuống. Người ta khấn vong hồn mẹ hắn. Kiếm báu mang ra. Tiếng hô cứa đứt không gian. Kiếm giáng xuống. Nhẹ bẫng. Đầu Nhan rơi xuống đất. Máu chảy xuống sông Cầm, đỏ thẫm một vùng. Dân làng An Bài xin được vùi xác hắn xuống dải đất ven sông. Nước sông Cầm sẽ tẩy rửa những vết nhơ trên người hắn.


Dân gian kể rằng khi máu Nhan chảy xuống sông đã hóa thành những con đỉa chuyên đi hút máu người, bởi khi Nhan kêu xin sau khi chết rồi sẽ ăn gì, Hưng Đạo vương trong lúc nóng giận đã nói rằng: “Cho mày ăn sản huyết thiên hạ”. Vì thế hồn ma Nhan gặp đàn bà, con gái khi kinh nguyệt, sinh nở thì quấy nhiễu làm cho ốm đau gầy mòn. Những chuyện đó nửa tin, nửa ngờ.



Một ngày giữa đông, trẻ con làng An Bài nhặt được một vỏ ốc ngũ sắc ở đúng cái vết lõm kì lạ bên bến sông Cầm. Vỏ ốc nhẵn bóng, đưa lên vành tai nghe như tiếng gió từ nơi rất xa thổi về.
( UÔNG TRIỀU )

Lão Khoai
20-07-2011, 09:29 PM
Hay quá bác Thực ,lối hành văn khô lạnh ngắn gọn mà cô đọng ,chuyển đoạn rất tài tình ,không khí như quánh lại .Lâu quá là lâu mới đuợc đọc một truyện ngắn hay .Cổ sử mà viết theo lối hiện đại .Rót một cút rượu ra đọc lại đây bác ạ

strawberry
20-07-2011, 11:58 PM
Truyện hay! Lối viết nửa hư nửa thực, có chút rùng rợn ma quái, cốt truyện lôi cuốn thành ra đã đọc là phải đọc hết :D
Nhưng cho cháu hỏi là nhân vật Phan Nhan là có thật hay là hư cấu ạ?

Minh Ngọc
21-07-2011, 12:14 AM
Trong lịch sử. Phạm Nhan là tội đồ phản quốc theo Nguyên Mông.
Hắn tự phao lên là có phép thuật chém đầu này mọc đầu khác.
Nhưng trên thực tế thì bị quân ta bắt và chém chết ngay tại pháp trường.

Minh Ngọc
21-07-2011, 12:33 AM
Thêm một bài viết về Phạm Nhan do Nguyễn Khắc Thuần viết trên Daibieunhandan.Vn :

Việt sử giai thoại: Sự tích miếu Phạm Nhan

Người xưa, nhất là phụ nữ, rất sợ bị Phạm Nhan làm hại, bởi thế mà họ đã nghĩ ra không ít cách khác nhau để trừ Phạm Nhan. Nhưng Phạm Nhan là ai? Sách Công dư tiệp ký (quyển 3) của Tiến sỹ Vũ Phương Đề chép rằng:
“Miếu Phạm Nhan ở xã An Bài, huyện Đông Triều, nằm ngay bên bờ sông Thanh Lương. Tục truyền, thần của miếu này người họ Nguyễn tên là Linh. Cha của thần vốn người Quảng Đông (Trung Quốc), di cư sang nước ta, cư ngụ ở xã An Bài, lấy vợ ở đó và sinh được người con trai, đặt tên là Bá Linh. Lớn lên, Bá Linh lại về Trung Quốc, thi đỗ Tiến sỹ và làm quan cho nhà Nguyên. Y có biết chút ít phép thuật phù thủy nên được phép vào trong cung đình để chữa bệnh. Nào dè vào đó, y thông dâm với bọn cung nữ, bị khép vào tội phải chết. Khi y sắp sửa bị đem ra hành hình thì nhà Nguyên xua quân sang xâm lược nước ta, y liền xin được làm kẻ hướng đạo cho quân Nguyên để lập công chuộc tội. Nhà Nguyên chấp thuận. Nhưng rồi vì bị đại bại ở trận Bạch Đằng, Bá Linh cùng bọn Ô Mã Nhi... đều bị Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn bắt sống. Bá Linh lại một lần nữa, bị khép vào tội phải hành hình. Lần này, y xin được về chết ở quê mẹ, vì thế Hưng Đạo Đại Vương cho đem hắn về chém tại xã An Bài rồi quăng xác xuống sông. Bấy giờ, có hai người đánh cá ở khúc sông này, kéo lưới lên, chẳng được cá mà được... cái đầu của Bá Linh, hoảng sợ, họ bèn cùng nhau khấn thầm rằng:

Nếu hồn ông có thiêng thì xin phù hộ cho chúng tôi đánh được nhiều cá, xong, chúng tôi sẽ xin mai táng hẳn hoi.

Họ vừa khấn xong thì lạ thay, kéo mẻ lưới nào cũng được rất nhiều cá, vì thế họ bèn đem đầu Bá Linh lên táng trên bờ sông. Từ đấy về sau, mỗi lần ra chợ bán cá, đi qua chỗ mai táng đầu Bá Linh, họ đều chỉ tay vào đó mà nói:

Mời bác cùng đi chơi cho vui.

Riết rồi thành thói quen, hồn ma Bá Linh cùng nhập bọn mà đi với họ, người đương thời gọi đó là Tam hồn. Tam hồn phải thói hay chòng ghẹo phụ nữ. Hễ thích chòng ghẹo ai, họ chỉ cần đưa tay về phía người đó rồi gọi tên Bá Linh, người ấy nhất định sẽ bị ma ám ngay, vì thế, người trong vùng ấy phải lập miếu để thờ. Lại nói chuyện Bá Linh, trước khi bị đem chém, hắn có cầu xin Hưng Đạo Đại Vương rằng:

Tôi nay đã bị tội chém đầu, vậy trước khi chết, xin cho tôi được ăn một món lạ nào đó.

Hưng Đạo Đại Vương cả giận, mắng rằng:

Cho mày ăn máu của đàn bà đẻ ấy.

Bởi thế mà sau khi chết, hồn ma của y thường đi khắp nơi để tìm hút máu đàn bà, ai mắc phải đều bị bệnh liên miên, thuốc thang mấy cũng vô ích. Bệnh ấy gọi là bệnh Phạm Nhan. Ai mà sớm đoán biết được rằng mình mắc bệnh Phạm Nhan thì phải tới ngay đền thờ Vạn Kiếp (hay đền thờ Kiếp Bạc, nơi thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn), đem chiếu mới đổi lấy chiếu cũ có sẵn ở đó, về nhà, thừa lúc người bệnh không để ý, lấy trải cho họ nằm, đồng thời xin thêm một ít chân nhang đem đốt thành than và hòa vào nước cho uống thì mọi chứng bệnh đều tiêu tan hết. Việc này nếu để bệnh nhân biết là không hiệu nghiệm. Điều đáng nói là chỉ những ai thực sự bị bệnh Phạm Nhan, dùng thuốc này mới nhân đó mà được khỏi hết mọi bệnh, bằng không thì chẳng ích gì. Thiên hạ tin như vậy nên cứ lũ lượt kéo nhau đến đó để đem chiếu mới đổi lấy chiếu cũ, chẳng lúc nào ngơi. Có người đem chiếu về, chưa kịp thay mà người bệnh đã khỏi. Đại để, sự ứng nghiệm là như thế”.

Lời bàn: Trong chỗ lênh đênh sông nước dặm dài, duyên kỳ ngộ giữa các thương nhân với những người con gái khác xứ cũng là sự thường, cho nên, Bá Linh có mặt giữa cõi đời cũng chẳng có gì là lạ cả. Giận thay, Bá Linh lại là… Bá Linh, trên thì đắc tội với đấng cao xanh, dưới thì đại ác với đất tổ của mẹ, sống một đời mà bị khinh ghét những muôn đời!

Để cứu lấy mạng sống của mình, kẻ thất đức thường bất chấp sinh linh của người khác. Nhưng, như Bá Linh kia, dám vì cứu lấy mạng sống của mình mà dẫn quân xâm lăng về dày xéo lên đất quê mẹ, tức là trong đại tội còn có thêm đại tội nữa, thì làm sao mà cầu được dung tha? Hắn đòi chết ở quê mẹ, tưởng thế là hay, dè đâu lại nhục đến muôn lần sự nhục.

Kẻ bi tử hình thường được ăn bữa ăn ngon cuối cùng, được nói lời trăn trối cuối cùng. Bá Linh bị chém, lòng những nghĩ rằng mình bất quá cũng chỉ là tên tử tù nên mới đòi ăn như vậy. Khốn khiếp thay! Hắn bị giết là bởi chẳng có cách trừng trị nào lớn hơn sự giết, chớ như hắn, làm sao mà có thể gọi là một tên tử tù như bao kẻ tử tù? Đấng đạo đức như Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn mà cũng buộc phải nói lời như ông đã nói, bởi vì có cách nói nào tương xứng với nhân cách của Bá Linh đâu. Đến món ăn khủng khiếp ấy, Bá Linh cũng không dễ để có được nên hắn lại làm càn để kiếm mà ăn.

Dân lập ra đền thờ Phạm Nhan chẳng phải để thờ Phạm Nhan mà là để nhắc nhở với muôn đời rằng, nếu không muốn sống cho đàng hoàng thì hãy coi chừng, hồn Bá Linh trong miếu Phạm Nhan còn đó, thối tha hơn mọi sự thối tha. Một mảnh chiếu cũ trong đền thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đủ để xua hết mọi nỗi lo sợ và bệnh tật, nếp nghĩ ấy, niềm tin ấy… đáng kính biết ngần nào.

Mỗi thời có một cách giáo dục rất khác nhau. Hương khói của ngàn xưa nào phải chỉ giản đơn là chuyện hương khói. La đà giữa những nơi thờ tự, chừng như hương khói cũng từng góp phần không nhỏ vào việc đề cao và tôn vinh cái tốt đẹp, khinh ghét và lên án cái xấu xa. Quả có vậy mà.

Nguyễn Khắc Thuần

Minh Ngọc
21-07-2011, 12:36 AM
Phạm Nhan có sức khỏe vô song, khó ai bắt nổi.
Vậy mà sao quân ta lại bắt được hắn ngon lành như vậy?
Ta hãy xem câu chuyện bắt sống Phạm Nhan:. :P

Minh Ngọc
21-07-2011, 12:40 AM
I. Nhân dân đã giúp Hưng Đạo vương lấy cái đầu Phạm Nhan
(Theo sự tích đền Kiếp Bạc)
Cách đền Kiếp Bạc 1km về phía bắc, bên dòng sông Thương có môt ngôi nghè. Theo truyền thuyết ngôi nghè đó thờ bà hàng cơm đã có công trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông ở thế kỷ XIII

Khi quân Nguyên Mông tràn sang, bà chủ quán được Hưng Đạo Vương tin cậy giao cho việc theo dói, quan sát các đội binh thuyền của giặc và sự di chuyển hoạt động của chúng qua những binh lính vào ăn quà, uống rượu, rồi mật báo để người kip thời đối phó. Một hôm có một người ăn vận đồ xanh, tướng mạo hung dữ vào ăn hàng, uống rượu. Bà dò hỏi tên tuổi, được biết đó là tên tướng giặc Phạm Nhan.

Theo truyền thuyết, Phạm Nhan sinh ở Đại Việt, bố người Tầu, mẹ người Việt. Hắn bỏ sang Tầu xin nhập vào đội quân xâm lược nhà Nguyên Mông. Biết được nguồn gốc xuất thân của hắn, vua Nguyên là Hốt Tất Liệt tin dùng, phong làm tướng phù giúp cho con trai là Thái tử Thoát Hoan đi xâm lược Đại Việt.

Khi đã tiếp rượu cho tên tướng giặc uống say, bà chủ quân mới lựa lời dò hỏi : "Nghe nỏi Tướng quân tài giỏi có nhiều phép mầu có phải không ạ ?" Trong lúc say rượu tên tướng giặc khoe khoang về tài nghệ của mình, hắn nói :" Ta có ngũ phép (5 phép) thần thông, đang to khỏe hoá nhỏ không dây nào trói được, chém đầu này mọc đầu khác".

- Tướng quân tài giỏi như vậy còn sợ ai chém nữa ?

- Muốn trói ta phải trói bằng chỉ ngũ sắc, ta sẽ không hóa nhỏ được, song muốn chém đầu ta và không cho mọc đầu khác thì phải dùng vôi tôi trộn với phân gà sáp và bồ hóng mà bôi lên lưỡi kiếm.

- Tướng quân đang chỉ huy thuyền nào ?

- Tên tướng giặc Phạm Nhan chỉ xuống chiếc thuyền to nhất đậu ở phía bên sông :

- Trong thuyền có nguyên soái Ô Mã Nhi và ta chỉ huy.

- Nắm được bí mật đó, bà chủ quán đã kịp thời báo ngay về quân doanh cho Trần Hưng Đạo biết.

-Tại trận Bạch Đằng lịch sử, đoàn thuyền của giặc sa vào bãi cọc ngầm của ta bày sẵn. Đoàn thuyền tan vỡ chìm xuống sông. Quân ta tràn lên thuyền của Ô Mã Nhi bắt sống tên tướng giặc và Phạm Nhan, Hưng Đạo Vương sai lấy chỉ ngũ sắc trói chặt Phạm Nhan lại. Khi mang ra pháp trường thấy vôi, phân gà sáp và bồ hóng đã được bôi lên lưỡi kiếm hắn sợ hãi vô cùng. Khi biết chắc là chết, hắn xin được nói lời cuối cùng : Xin được mở rộng lượng khoan dung, hãy chém hắn thành 3 đoạn, một đoạn vứt xuống sông, một đoạn vứt lên bờ còn một đoạn vứt lên rừng. Tương truyền sau này đoạn xác của Phạm Nhan vứt xuống sông biến thành đỉa, đoạn vứt lên bờ biến thành muỗi, đoạn vứt lên rừng biến thành vắt. Nay mỗi khi gặp những con vật đó, nhân dân ta thường gọi là giặc Phạm Nhan.

Còn bà chủ quán hàng cơm được vua Trần phong chức : Thiên Hương Ngọc Trịnh công chúa"

Khi bà mất để tỏ lòng biết ơn người có công với nước, nhân dân ta lập nghè thờ tại quán hàng của bà.


II. Người bắt sống Nguyễn Linh Nhan

Thuần Chính Thập Nhị Thủ

Tác giả : Thủy Tiên Công Chúa (1254 - 1329)

Xuất xứ : Vạn Pháp Quy Nguyên và Đông A Di Sự (phần Vũ kinh)

Dịch, biên tập chú giải : Trần Đại-Sỹ

Với sự trợ giúp của Võ sư Trần Huy Quyền, Lê Như-Bá

Copyright by Trần Đại Sỹ – Trần Huy Quyền – Lê Như Bá

Các soạn giả giữ bản quyền.

1. NGUỒN GỐC

Năm 1280, quân Mông Cổ chuẩn bị sang xâm lăng Việt Nam. Vua ra lệnh cho các vương hầu, tướng sĩ, võ phái đều được mộ binh, tổ chức huấn luyện. Trong hoàng cung, bà Linh Từ (Vương phi của Trung vũ đại vương, lĩnh Thái sư Trần Thủ Độ) họp tất cả các phi tần, công chúa, cung nga, quận chúa lại và ban huấn từ :

"Giặc sắp đến, các người phải luyện tập võ nghệ để có thể xuất trận chống xâm lăng. Nếu võ không tinh thì ít ra cũng tự bảo vệ được bản thân, không làm bận đến tướng sĩ để bảo vệ"

Bà chỉ định : Khâm Từ hoàng hậu, Thiên Thụy công chúa (vương phi Hưng Võ Vương, con Hưng Đạo Vương) và Thủy Tiên Công chúa dạy các cung phi, cung nga. Còn công chúa, quận chúa thì đích thân bà dạy.

Khi dạy võ, Thủy Tiên Công chúa thấy dạy cương quyền cho phái nữ để chuẩn bị chống với binh sĩ Mông Cổ là loại người to lớn, dũng mãnh, thì khó mà bảo toàn thân thể. Vì vậy bà mới tìm ra tất cả thế nhu, chống lại đủ hình thức tấn công của đối thủ. Sau khi thắng Mông Cổ, bà chép lại thành bộ "Thuần Chính Thập Nhị Thủ" là những phương pháp hiền hậu để tỏ ra mình là người trinh tĩnh, tiết hạnh.

Năm Xương Phù thứ 11 (1387) Thái-sư Trần Nguyên Đán chép vào bộ Đông A Di Sự, chú thích, vẽ đồ hình đầy đủ, và cho khắc bản in. Nay còn lưu truyền.

2. TIỂU SỬ TÁC GIẢ

Thủy Tiên Công Chúa là dưỡng nữ Hưng Đạo Vương. Không rõ bà xuất thân từ đâu, cha mẹ là ai. Chỉ biết bà được Hưng Đạo Vương yêu thương nhận làm con nuôi. Bà sinh niên hiệu Nguyên Phong thứ tư (1254) đời vua Trần Thái Tông. Lên sáu tuổi bắt đầu học võ với Hưng Đạo Vương. Sau này bà học với Khâm Từ hoàng hậu (vợ vua Nhân Tông, và là con đẻ Hưng Đạo Vương). Nhưng sự thực tất cả võ công và nội công của bà do Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng và Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản dạy. Hưng Đạo Vương gả bà cho danh tướng Phạm Ngũ Lão. Dã sử tương truyền trình độ võ học của bà được liệt vào hàng thứ 15 đời Trần, trong khi Phạm Ngũ Lão đứng hạng thứ 17, tức võ nghệ thua bà hai bậc. Bà có công huấn luyện võ thuật cho toàn thể cung phi, cung nga đời Trần. Chính vì vậy, khi mà quân Mông Cổ chiếm Thăng Long, các cung phi, cung nga tự bảo vệ, di tản an toàn, không cần hộ tống.

Tuy nhiên, bà không hoàn toàn đi theo hoàng cung. Bà theo sát phu quân là danh tướng Phạm Ngũ Lão đánh trận Chương Dương, Nội Bàng, sau này cũng chính bà theo phu quân chinh phạt Ai Lao (Lào) và Chiêm Thành.

Sách Đông A Di Sự, Thủy Tiên Công Chúa liệt truyện chép :

"Công chúa mặt đẹp như ngọc, dáng người thanh nhã, tiếng nói khoan thai, lòng đầy nhân ái, nhưng khi xung trận thì dũng mãnh phi thường".

Bộ Mông Thát Cáo Lục chép :

"Vợ tướng họ Phạm là con gái của Hưng Đạo Vương, không biết tên là gì, tước phong Thủy Tiên Công Chúa. Thủy Tiên dáng người thanh thoát, mặt đẹp ; nói thông thạo tiếng Mông Cổ âm Hoa Lâm, tiếng Hán âm Lâm An. Khi lâm trận đối đáp với tướng Mông Cổ bằng ngôn từ nhẹ nhàng, nhưng khi giao tranh thì dũng mãnh phi thường. Nhiều tướng Mông Cổ không đề phòng, bị Thủy Tiên giết. Tướng Nguyễn Linh Nhan bị Thủy Tiên bắt sống".

Lưu ý độc giả, trong tất cả các sách của Trung quốc viết về cuộc chiến Mông Việt, họ gọi thẳng tên các vua Trần. Như vua Trần Thái Tông họ gọi là Trần Cảnh, trong khi họ gọi Trần Quốc Tuấn bằng tước Hưng Đạo Vương, để tỏ lòng kính trọng.

Công chúa hoăng vào niên hiệu Khai Thái năm thứ sáu đời Trần Minh Tông (1329), thọ 75 tuổi. Huyền sử Việt Nam kể rằng sau khi mất bà hiển thánh. Cho nên ngày nay tại tất cả các đền thờ Hưng Đạo Vương trên toàn Việt Nam đều có tượng thờ bà. Tại đền thờ nói đến Tứ vị vương tử, nhị vị vương cô, bà là một trong nhị vương cô. Chính bà đã dùng một chiêu trong Thuần Chính Thập Nhị Thủ bắt một danh tướng Mông Cổ là Nguyễn Linh Nhan, cho nên ngày nay mỗi khi về đồng bà, người ta còn diễn lại tích này.