Không thể nói cũng vậy được, vì toán học là phải chặt chẽ, Không đặt điểm rồi chứng minh trùng nhau thì sao có thể chứng minh điều suy ngược là đúng. chuyện nhỏ này tôi không muốn nói thêm nữa, mất hòa khí anh em. thân chào.
Printable View
Các bạn ơi chúng ta cứ vui vẻ trao đổi với nhau sẽ tìm ra lời giải đúng thui đừng tăng nhiệt độ lên nha hihi cảm ơn cả nhà!
http://i689.photobucket.com/albums/v...untitled-7.jpg
B1 cách giải như sau:Từ cạnh SD dựng tam giác đều SDO có cạnh là SD
Xét tam giác SAD và DOC
- Cạnh SD=OD
- Cạnh DC=AD
- Góc SDA = ODC = 15 độ
=> tam giác SAD = ODC (1)
Từ (1) => góc DOC = 180- 15-15= 150 độ (2)
=> góc SOC = 360 - góc DOC - góc SOD = 360 -150-60= 150 độ
Xét tam giác SOC và DOC
- Cạnh SO = OD
- Cạnnh OC chung
- Góc SOC = DOC = 150 độ
=> tam giác SOC = DOC (CGC) (3) => cạnh SC = DC
Xét tam giác SBC Cạnh SC = DC do (3) , DC =BC (hình vuong) =>=> tam giác SBC là tam giác cân có góc SCB = 90 - SOC-DCO=90-15-15=60 độ tam giác SBC là tam giác đều
(ở đây có bạn đã lầm vì nghĩ 3 điểm là thẳng hàng để thẳng hàng cũng phải chứng minh nó là góc bẹt)
Có bài này cũng hay lắm, các bạn giải cho vui nhé.
Cho 3 đường tròn tâm O1, O2, O3 với O1, O2, O3 không thẳng hàn. O1, O2, O3 cắt nhau từng đôi một tại các điểm M,N ; P,Q; S,T
chứng minh các cát tuyến MN, PQ, ST đồng quy.
Bài tán tổng quát hơn : cho 3 đường tròn đôi một không trùng nhau và tâm của chúng không thẳng hàng, chứng minh 3 trục đẳng phương của các cặp đường tròn nói trên đồng quy tại 1 điểm.
À nói thêm là bài này khá nổi tiếng nên các bạn đừng nên google nhé.
[QUOTE=laototphilao;182158]http://i689.photobucket.com/albums/v...untitled-6.jpg
các bác giải bài toán này cho vui nhé!
Hình vuông ABCD từ A và D kẻ hai đường thẳng A*0, D*1 cắt nhau tại điểm S sao cho hai góc SAD và ADS đều bằng 15 độ.
chứng minh tam giác BSC là tam giác đều.
Đây là bài lớp 7 khó tý nữa là bài sau
Mình giải thử ae xem nhé:
B1: CMinh BSC cân tại S
B2: Cminh cạnh bên bằng cạnh đáy
B1:
- gSAD=gSDA=15 độ nên Tgiac SDA cân tại S => SD=SA
- Xét 2 Tgiac SAB và SDC có SD=SA, DC=AB, góc SAB= góc SDC => 2 tam giác bằng nhau (cạnh góc cạnh) => SB=SC
- =>Tgiac SBC cân tại S.
B2:
Không nhớ rõ là toán lớp 7 đã học bài "sin đi học, cos không hư, tg đoàn kết, ctg kết đoàn" chưa. Mình tạm giải theo cánh này.
- Gọi chiều dài cạnh hình vuông là a.
- Từ S kẻ đường SO vuông góc với DC => SO=a.
- Tính chiều dài DO theo tgiac SOD: tangOSD=OD/OS => OD=tang15o*a/2
- Tính chiều dài SC theo tgiac SOC: ....
- SC=a=BC
- SBC là tam giác đều.
mình bận tí giải tiếp.
@newmember: đúng thế bro mình bớt đi 1 câu hỏi nữa là dựng đượng bao nhiêu mặt phẳng sao cho không quá 3 điểm nào cùng nằm trên 1 mặt phẳng
Mấy bài này bác nào 7x thì biết. chắc 100% không tìm thấy trên google luôn vì nó nằm trong tạp chí mat tem mát chen ka in sich cô la (tiếng Nga- Toán học trong nhà trường) hồi đó mình có :D (bạn giải cũng bằng cách tịnh tiến cũng hay đó)
@ Nhachoa bố cháu không dùng sin cos được đâu bọn lớp 7 đã được học đâu mà hình như sin, cos bài này không làm được vì 3 đường đó chứng minh được thẳng hàng thì đã ok rồi
nói về các bài toán nhất là bài Hình sơ cấp, gọi là sơ cấp nhưng thường là 1 trong các bài toán khó trong các đề thi HSG quốc gia và quốc tế, a em mình cứ đố vui là hay
Mình cũng rất thích Vật lý thiên văn, ngoài các cuốn của tác giả Trịnh Xuân Thuận, các bạn có thể tìm đọc cuốn " Vũ trụ - phòng thí nghiệm thiên nhiên vĩ đại '' tác giả Nguyễn Quang Riệu ( cựu HS trường Bonnal - Bình Chuẩn nay là trường Cấp 3 Ngô Quyền HP, từng là giám đốc đài thiên Văn Pari). Trong tài liệu đó tác giả đưa chúng ta đến 1 phòng thí nghiệm vĩ đại, nhờ các chuỗi Hữu cơ phát hiện có trong vũ trụ mà chúng ta cũng đang cố gắng tìm kiếm các bạn ở những hành tinh khác và gửi thông điệp đến họ về hành tinh nhỏ bé của mình. Hy vọng và chờ đợi.....
mình có 1 thắc mắc thế này, giả sử tốc độ max là 300k km/s như Einstein, cho 2 chất điểm di chuyển ngược chiều nhau A và B: mỗi thằng di chuyển với vận tốc 150k km/s, như vậy so với thằng B thì thằng A di chuyển với v=300k km/s vô lý, suy ra 150k km/s không thể đạt tới
tiếp tục làm như vậy n buớc... suy ra 1m/s không thể đạt tới?? Ai giải thích giùm
Tuy không chuyên về vật lý, nhưng tôi có thể giải thích như sau :
khi chứng minh một thuyết tương đối thì ta không thể lấy các công thức cơ học, vật lý học cổ điển để áp dụng được.
nếu coi C = vận tốc ánh sáng = sấp xỉ 300k km/s là số vô cùng lớn.
Thì ta có 2 * C vẫn chỉ = C mà thôi. tương tự 1/2*C = C.
nếu coi v = 150k km/s là số có thể đo đếm được thi 2 * 150 km/s vẫn phải < c rất nhiều.
còn nếu ta coi 150k km/s là số vô cùng lớn và = 1/2 C thì đương nhiên 150k km/s cũng sấp sỉ = C.
trích dẫn thêm cho bạn câu nói bất hủ của Albert Einstein :
Tốc độ ánh sáng trong chân không là một đại lượng không đổi trong tất cả các hệ qui chiếu quán tính.
như vậy thì dù lấy hệ quy chiếu là điểm B hay mặt đất, thì vận tốc C vẫn được coi như số lớn nhất (một số vô cùng lớn). vì vận tốc truyền ánh sáng là như nhau theo mọi phương nên không thể sử dụng công thức cộng vận tốc Galileo cho ánh sáng => các phép + - * / không có ý nghĩa gì.
Tổng kết lại : Cái này dân dan gọi là trong cái vô lý là cái có lý, trong cái có lý là cái vô lý. => mọi thứ chỉ là tương đối. thế nên mới gọi là thuyết tương đối (hehe, câu này chỉ là nói vui thôi nhé)
Bạn nào giải cũng hay quá ,tôi học hỏi đuợc nhiều .Hay nhất là ông nhachoa ,topic nào do ông tạo ra cũng vô cùng hấp dẫn thu hút mọi người Quái lạ ông uống rượu như hũ chìm thì phải mụ đi chứ , đàng này ngày càng sáng tạo Hehe sân chơi này mà vắng ông và ông 6789 (ông này cũng tài hoa vi vút đủ món hết nhe) thì đìu hiu biết mấy
Bài toán chứng minh hình tam giác đều thật là thâm. Từ hồi cấp 2 mình đã thấy khó bây giờ giải lại vẫn loay hoay.
Mình nhớ là xem trong sách Toán bồi dưỡng, họ giải theo phản chứng.
Cách giải của bạn trong bài trước bằng dựng hình, theo mình có lẽ là đẹp (elegant) nhất.
Bản thân mình già rồi nên sức sáng tạo có hạn, thôi thì giải cách trâu bò (brute-force). Từ điểm S dựng SH vuông góc AD. Cố chứng minh rằng tang của góc 15 độ = 2 - căn(3), từ đấy tính được SH theo a (cạnh hình vuông). Rồi dựng SK vuông góc BC để tính ra SK = a căn(3) / 2, chính là đường cao của một tam giác đều. Từ đó suy ra SBC là tam giác đều.
Trên này chắc nhiều bác dùng latop, một thời gian hay có hiện tượng liệt phím, chết các điểm bật tắt các bạn coi cách tháo và sửa trên video này
Bác 6789 hình như sài con vaio đúng không open and repair nó như ở đây :">
P/s khi tháo lắp chú ý theo thứ tự dùng tovit dao nẹp cẩn thận kẻo đứt mất cap vì nó rất nhỏ
Vấn đề nằm ở chổ : khi nói vận tốc của chất điểm A (B) là c/2 thì bạn phải nói rõ vận tốc đó là so với hệ qui chiếu nào. Và một điểm nữa cần lưu ý là theo thuyết tương đối thì công thức cộng vận tốc Galileo là không đúng mà phải áp dụng phép biến đổi Lorentz (công thức Galileo là trường hợp riêng của phép biến đổi Lorentz khi vận tốc là nhỏ).
Trong trường hợp thắc mắc của bạn, nếu chọn một hệ quy chiếu O nào đó trên phương chuyển động của A,B sao cho tốc độ của A so với O bằng c/2 và tốc độ của B so với O là -c/2 thì theo công thức Lorentz (không trích dẫn công thức được, có thể tìm trên google) tốc độ của A trong hệ quy chiếu gắn với B là 4c/5 chứ không phải là c như bạn nghĩ.
Lạm bàn tí cho mình cảm thấy bớt khô khan :)
Ngày 6/8/1991, địa chỉ trang web đầu tiên với ký tự www. xuất hiện, mở ra một cuộc đại cách mạng về chia sẻ thông tin trên Internet.
Nhiều người nhầm lẫn giữa Internet và World Wide Web. Khái niệm Internet ra đời từ năm 1974 nhằm mô tả một hệ thống máy tính toàn cầu được kết nối với nhau qua giao thức TCP. Còn Web được ví như một cái bắt tay, hay một phương pháp để con người giao tiếp với người khác. Tim Berners-Lee không kết nối máy tính trên toàn thế giới khi giới thiệu WWW vào năm 1991, mà ông phát triển 3 công nghệ (URL, HTML và HTTP) cho phép người sử dụng tìm kiếm và chia sẻ thông tin dễ dàng hơn giữa các hệ thống kết nối đã có sẵn này.
http://vnexpress.net/Files/Subject/3...3/59/web-4.jpg
Tim Berners-Lee, cha đẻ của World Wide Web.
- Địa chỉ trang web đầu tiên là Welcome to info.cern.ch.
- Tên miền - cơ sở của hệ sinh thái web - lại ra đời 6 năm trước khi trang web đầu tiên xuất hiện. Tên miền sớm nhất được đăng ký là Symbolics.com vào tháng 3/1985.
- Máy tính NeXT (công ty do Steve Jobs thành lập) là máy chủ web đầu tiên.
- Cuối năm 1992, toàn thế giới chỉ có 26 web server.
- Apache là máy chủ web phổ biến nhất thế giới và cũng là web server đầu tiên đạt mốc 100 triệu lượt cài đặt vào năm 2009.
- Google cũng sở hữu web server riêng gọi là Google Web Server (GWS). Vào tháng 7/2009, chỉ 14,2 triệu site sử dụng GWS còn hiện nay nó là web server phổ biến thứ tư thế giới.
- Nếu muốn biết vì sao việc đọc thông tin trên mạng được gọi là "lướt web", hãy hỏi Jean Armour Polly, người đưa ra cụm từ Surfing the Internet và là tác giả của nhiều cuốn sách về dịch vụ mạng.
- Khiêu dâm là một trong những nội dung lớn và thu hút nhất trên web, nhưng tên miền .xxx đầu tiên chỉ được xuất hiện từ tháng 8/2011.
- Theo trang Worldwidewebsize, tính đến 5/8/2011, thế giới có 19,68 tỷ trang web, gấp 3 lần tổng dân số toàn thế giới.
- Năm 1996, người Mỹ sử dụng trung bình chỉ 30 phút mỗi tháng để lướt web.
- Trình duyệt đầu tiên, cũng được Berners-Lee phát triển, là WorldWideWeb.
- Trình duyệt đầu tiên được phát triển cho người dùng PC và Mac là Mosaic do Trung tâm siêu máy tính quốc gia của Mỹ xây dựng vào tháng 2/1993. Đây là một trong những trình duyệt đồ họa đầu tiên và thúc đẩy sự bùng nổ trong việc sử dụng web.
- Ngày 30/4/1993 là ngày đặc biệt quan trọng bởi tổ chức CERN tuyên bố bất cứ ai cũng có thể sử dụng công nghệ WWW tự do và miễn phí.
- Ngày 26/5/1994, bữa tiệc Conference Dinner được tổ chức để trao thưởng cho những cái nhất của WWW (The Best of WWW).
- Dù "worldwide" (toàn thế giới) mới là từ viết đúng chính tả, Tim Berners-Lee quyết định viết tách rời để đỡ gây rắc rối trong việc sử dụng tại những cộng đồng không biết tiếng Anh.
- Hiện nay, người dùng không bắt buộc phải gõ www khi nhập địa chỉ web.
- Đường link màu xanh của trang web được chọn bởi cách đây hơn chục năm, màn hình máy tính chỉ hỗ trợ 16 màu và xanh da trời là màu đậm nhất không ảnh hưởng đến sự dễ đọc của văn bản.
- Theo đánh giá của đa số người dùng, Google.com là trang web quan trọng nhất trên Internet trong 20 năm qua.
- Mark Zuckerberg, ông chủ Facebook sinh năm 1984, là tỷ phú trẻ nhất thế giới nhờ cung cấp dịch vụ trên web.
- Cứ 8 cặp vợ chồng thì có một đôi quen nhau trên mạng.
(Source Somewhere In The Net)
Tiểu Đệ đã nhận được Bố Già do Ngọc Thứ Lang dịch từ Lâm Đệ ka ka. Xin cảm ơn tấm lòng của ka ka, huynh 6789 sẽ rất vui và xúc động khi biết đó . Chúc ka ka sức khỏe và trẻ lâu để tiếp tục yêu dài dài hi.
Ở thế kỷ 20, loài người đã khám phá được rất nhiều điều về vũ trụ hơn bất cứ giai đoạn nào trong lịch sử phát triển của mình. Cuối cùng chúng ta cúng giải đáp được nhiều bí ẩn mà bao thế hệ trước kia không thể nào hình dung nổi,khoảng ít nhất 200.000 năm. Nói như vậy tức là loài người đã thắc mắc về bầu trời từ rất lâu rồi.Và bản thân những bí ẩn đó đều là những điều tuyệt đẹp,quyến rũ hết mức. Chúng ta đã khám phá ra rằng tất cả mọi thứ xung quanh mình,những hành tinh,những đại dương,kể cả chiếc nhẫn vàng mà bạn đang đeo trên ngón tay mình...Tất cả đều được sinh ra từ những ngôi sao!
Vũ trụ của chúng ta đã hiện diện từ khá lâu ,theo các nhà khoa học nó đã tồn tại ít nhất được ~ 14 tỷ năm rồi và ít nhất nó sẽ tồn tại tiếp khoang 30 tỷ năm nữa. Nhưng điều quan trọng mà tôi muốn nói ở đây : Tất cả vũ trụ khổng lồ kia,tất cả các hành tinh,các ngôi sao,các thiên hà,thậm chí cả không gian,thời gian và các quy luật vật lý của nó đều sinh ra từ Hư Vô.
Loài người chúng ta có lẽ chỉ là loài cao cấp tiến hóa từ khỉ...sống trên một hành tinh nhỏ bé trong vũ trụ.Thế nhưng chúng ta lại có khả năng ngắm nhìn toàn bộ vũ trụ rộng lớn mà ,chúng ta đã may mắn đến không thể lý giải nổi,được vũ trụ sinh ra.Điều đó khiến loài người trở nên thật vĩ đại.
-Mục đích của tôi thật đơn sơ : tìm hiểu vũ trụ hoạt động thế nào,nó sinh ra từ đâu và sẽ đi về đâu.Hay ít nhất là :Tại sao vũ trụ lại tồn tại !
May mắn là manh mối có ở khắp mọi nơi. Nó ở ngay trên đầu chúng ta,trên khoảng không vũ trụ.
Khi chúng ta dùng kính viễn vọng ngắm nhìn các thiên hà trong vũ trụ,chúng ta sẽ thấy: những thiên hà càng xa chúng ta,chúng càng có màu đỏ nhiều hơn những thiên hà ở gần hơn.Chính màu đỏ này đã hé mở một chút về bí mật : sự ra đời của vũ trụ!
Chúng ta hãy làm một thí nghiệm vui như sau : ta đứng giữa một đoạn đừng cao tốc ,sau đó nghe tiếng động cơ của các xe ô tô đi tới gần rồi từ gần chúng ta chạy mất tiêu. Chúng ta thấy càng tiến gần chúng ta cường độ âm thanh phát ra từ động cơ càng tăng.Và khi nó càng rời xa chúng ta cường độ âm thanh càng giảm.Hiện tượng này gọi là sự thay đổi bước sóng biểu kiến (do hiệu ứng Doppler gây ra).Và điều này cũng đúng đối với ánh sáng.
Nếu mắt bạn cực kỳ nhạy cảm với ánh sáng,bạn sẽ nhận ra khi chiếc xe tiến gần đến chúng ta,nó sẽ có màu xanh lam.Còn khi rời xa chúng ta,nó càng trở nên đỏ hơn.Các quy tắc tương tự áp dụng trong không gian. Các thiên hà xa chúng ta có màu đỏ vì chúng đang rời xa chúng ta. Và thực sự thì vũ trụ đang giãn nỡ ra với tốc độ rất nhanh theo mọi phương hướng. Như thế rõ ràng nếu vũ trụ đang giãn nở ra thì trước kia mọi thứ phải càng ở gần nhau hơn.Vậy việc chúng ta cần làm là cho thời gian dừng lại và tua ngược về quá khứ,lúc mà mọi vật chất vẫn còn ở gần nhau...cho đến khi tất cả mọi thứ đều xuất phát từ một điểm. Từ điểm đó,mọi thứ đều được sinh ra...Đó chính là vụ nổ Bing Bang...
...Trước khi vụ nổ Big Bang xảy ra, không có một khái niệm nào tồn tại.Chưa có thời gian,chưa có ánh sáng,chưa có khoảng không. Chính vì thế chúng ta không thể biết Dị Điểm khởi nguồn đó ra sao,không thể quan sát nó từ bên ngoài,mà chỉ có thể tìm hiểu bên trong nó. Dị Điểm thực sự là một nơi rất khó hiểu,nó tập trung tất cả năng lượng và vật chất dồn nén vào một điểm cực lỳ nhỏ bé. Sau đó giản nỡ ra với tốc độ không tưởng : từ một điểm nhỏ hơn hạt nhân nguyên tử ,sau 1 đơn vị thời gian Plank (1x 10 lũy thừa -43 giây),nó đã nở ra to bằng quả cam. Điều đó tương đương với việc một quả cam sau 1x10 lũy thừa -43 giây nở to bằng trái đất. Tức là nhanh hơn vần tốc ánh sáng rất nhiều.
Một học sinh phổ thông cũng biết trong vũ trụ không có gì có thể đi nhanh hơn vận tốc ánh sáng.Nhưng các bạn nên nhớ rằng lúc đó vẫn là không có gì:chưa có một quy luật vật lý vũ trụ nào được sinh ra cả!
Sau khoảng 1 phút, Dị Điểm đã nở to bằng cả hệ mặt trời.Vũ Trụ bắt đầu được sinh ra,mở rộng và nguội dần.Năng lượng của nó bắt đầu hình thành vật chất.Một nửa trong số đó là các hạt Vật Chất,và một nửa là các hạt Phản Vật Chất.Khi Vật Chất và Phản Vật Chất chạm vào nhau,chúng sẽ hủy diệt nhau và sinh ra năng lượng.
Nếu số lượng Vật Chất và Phản Vật Chất hoàn toàn bằng nhau, chúng sẽ tiêu diệt hoàn toàn lẫn nhau và sẽ không còn gì cả.Nhưng theo thuyết Dao động lượng tử của Paul Dirac,bản chất tối cao của vũ trụ hay tiền vũ trụ là không cân bằng,không hoàn hảo.Chính vì vậy số lượng Vật Chất đã không biết bằng cách nào nhiều hơn Phản Vật Chất với tỷ lệ cực nhỏ,khoảng 1/ 1 tỉ.Và đó chính là điều may mắn cho chúng ta,bởi số dư 1/1 tỉ đó đã sống sót sau một cuộc giao chiến kinh hoàng và sau đó tạo nên tất ca vật chất trong vũ trụ mà chúng ta biết ngày nay.
....Quá trình nguội dần của vật chất kéo dàng khoảng 350.000 năm. Sau đó các hạt nhỏ nhất bắt đầu liên kết với nhau và tạo ra nguyên tố đơn giản nhất và nhẹ nhất mà chúng ta vẫn gọi là Hydro.
Hydro là đơn vị vật chất phổ biến nhất trong vũ trụ cho đến hay thời điểm hiện tại. Khi nhiệt độ vũ trụ nguội dần chúng mới có cơ hội được hình thành. Và lực hấp dẫn đã gom chúng lại từng khối với nhau qua thời gian, chúng tụ thành những khối lớn hơn, có lực hút mạnh hơn và hút những phần tử xung quanh lại cho đến khi đạt một khối lượng nhất định, nhiệt độ trong lõi của chúng nóng dần do áp suất và trọng lực...cho đến lúc nhiệt độ lõi đủ nóng để xảy ra phản ứng hạt nhân ,Hydro chuyển thành Heli và giải phóng ra một lượng nhiệt ,ánh sáng và các tia bức xạ.... Đó chính là sự ra đời của các ngôi sao!
Các ngôi sao vô hình dung đã trở thành những nhà máy khổng lồ trong tự nhiên sản sinh ra những nguyên tố mới thay vì Hydro. Đầu tiên là chúng kết hợp Hydro thành Heli,sau đó tiếp tục biến Heli thành Các bon, rồi Neon,Oxy...cho đến kim loại như sắt.Các ngôi sao càng nặng càng có khả năng tạo ra những nguyên tố nặng hơn bởi vì lõi của chúng nóng hơn những ngôi sao nhỏ và chỉ đủ nóng chúng mới tổng hợp được những nguyên tố nặng hơn...Đến khi chúng tổng hợp nguyên tố Sắt,một chuyện thú vị lại xảy ra :
Phản ứng hạt nhân tạo thành Sắt không sinh ra năng lượng. Chính vì vậy chúng không thể chống lại lực hấp dẫn của chính ngôi sao đó,và lúc đó Lực hấp dẫn chiếm thượng phong,bóp ngôi sao về lõi của nó và nổ tung.Vị nổ này là cực kỳ khủng khiếp phát ra nguồn năng lượng khổng lồ bắn tung tóe vật chất và bức xạ vào trong không gian xa hàng ngàn năm ánh sáng.Đó chính là hiện tượng Supernova- siêu tân tinh ....
...Có thể nói SuperNovas là tổ tiên của chúng ta. Tất cả các nguyên tử trong cơ thể chúng ta, chiếc nhẫn bạn đang đeo trên tay, dòng máu chảy trong cơ thể bạn,trái tim bạn đang đập ...tất cả đều được sinh ra từ các vụ nổ Supernovas trong vũ trụ.Có thể những phần tử của tay trái và tay phải bạn được sinh ra từ các vị nổ SuperNovas khác nhau... Đó là cách duy nhất có thể có,không có trường hợp ngoại lệ.
Nhưng không phải ngôi sao nào cũng có thể kết thúc bằng vụ nổ SuperNovas néu chúng không có khối lượng đủ lớn. Mặt trời của chúng ta là một ngôi sao cỡ trung bình trong vũ trụ,nó không đủ lớn để kết thúc cuộc đời cháy bỏng hàng tỷ năm bằng 1 vụ nổ SuperNovas. Nhưng điều đó không có nghĩa là nó kém ý nghĩa hơn những ngôi sao lớn khác ,mà trái lại chính vì có khối lượng hết sức chuẩn,nó mới có thể cháy 1 cách ổn định và bền bỉ,đủ để cho sự sống trên trái đất xuất hiện và tiến hóa...
Những ngôi sao càng lớn, tuổi thọ của chúng càng ngắn . Điều này mới nghe có vể không hợp lý,vì sao càng lớn nhiên liệu sẽ càng nhiều và phải cháy lâu hơn mới logic.Nhưng thực tế : những ngôi sao càng lớn chúng càng phải tiêu thụ nhiên liệu nhanh hơn, giống như một tỷ phú mỗi ngày tiêu hết 1 triệu và anh ta sẽ chỉ có thể tiêu hết tài sản của mình trong vòng 1000 ngày.Nhưng một anh chàng nghèo chỉ có 1 triệu đồng,anh chỉ dám tiêu 100 đồng 1 ngày và phải mất 10000 ngày anh mới hết tiền.
Mặt trời thân yêu của chúng ta có tuổi thọ xấp xỉ 10 tỷ năm và rất ổn định về mặt nhiệt độ và ánh sáng. Nếu không có kích thước hợp lý đến như vậy sự sống sẽ khó lòng xuất hiện trên trái đất.
Điều kỳ diệu thứ hai : đó là khoảng cách từ trái đất đến mặt trời. Trái đất nằm trong vùng Godilocks của mặt trời, tức là khoảng cách để cho nước trong các đại dương không bị sôi sùng sục cũng không bị đóng băng. Xa hơn hay gần hơn cũng sẽ không thể có sự sống.
Điều may mắn tiếp theo : trong hệ mặt trời chúng ta có người bạn tốt ,người hùng che chở cho trái đất : Sao Mộc. Sao Mộc có khối lương khổng lồ và ngay từ thuở ban đầu đã che chở cho chúng ta khỏi các trận mưa thiên thạch tấn công bằng cách hút những thiên thạch lớn,những sao chổi...để chúng không lao vào trái đất. Các nhà khoa học tính toán Sao Mộc đã ngăn chặn 99,9% mối đe dọa va chạm cho trai đất.Nếu không có Sao Mộc,trái đất chắc chắn đã no đòn và sự sống sẽ không có cơ hội xuất hiện...
Năm 2012 là một năm rất đặc biệt, bởi nó đang hứa hẹn một khám phá vĩ đại bậc nhất của trí tuệ nhân loại. Vào X-mas vừa qua,Các nhà khoa học làm việc tại CERN (phòng thí nghiệm hạt cơ bản lớn nhất thế giới)-Geneva đã thông báo một tin : họ đã có vẻ như dấu hiệu chứng minh sự tồn tại của hạt Higgs....
Tôi là Jim-Al-Khalili, nhà nghiên cứu vật lý. Tôi phải nói với các bạn rằng công việc nghiên cứu hạt Higgs là một trong những công cuộc khám phá tuyệt vời nhất của loài người. Trong năm 2012 ,nếu như điều bí ẩn này được làm sáng tỏ-nó sẽ là phát kiến vĩ đại nhất của cả cuộc đời tôi...Đó sẽ là bằng chứng bao hàm mọi khái niệm vật lý, là mấu chốt của việc lý giải nguồn gốc ra đời và cơ chế vận hành của cả vũ trụ...
(còn tiếp)
Nói chung lý thuyết BIGBANG rất là trừu tượng và mâu thuẩn với tất cả các lý thuyết vật lý hiện đại,người ta căn cứ vào số liệu vũ trụ đang giãn nở để suy đoán.Tất cả chỉ là lý thuyết,vật lý cần phải đợi thêm nhiều khám phá về hạt cơ bản,về vật chất tối năng lượng tối mới có thể thật sự là BIGBANG hay là một điều gì đó bí ẩn, GOD là một ý tưởng không tồi.
1.Một lít nước thực sự chiếm bao nhiêu khoảng không của 1000cm3 khoảng không?
Chắc nhiều người sẽ trả lời ngay là 1000 cm3 khoảng không! Không sai?
Thực tế 1 lít nước chỉ chiếm < 1% khoảng không có dung tích 1000cm3. Chúng ta đang sống trong một thế giới vật chất kỳ lạ mà hầu như mọi vật chất đều có khoảng 99,99% khoảng không bên trong mỗi nguyên tử.
2. Một chiếc áo màu đỏ có màu gì?
Màu đỏ chứ còn màu đỏ chứ còn màu gì, hỏi gì ngớ ngẩn vậy?
Thực tế một chiếc áo màu đỏ hấp thụ các ánh sáng khác và phản chiếu ánh sáng màu đỏ vào mắt chúng ta nên chúng ta thấy nó màu đỏ. Cũng như bầu trời chúng ta nhìn màu xanh nhưng nó không hề có màu gì cả!
3. Một vật thể có thể từ nơi này xuất hiện ở nơi khác mà không cần phải di chuyển qua khoảng cách giữa 2 nơi không?
Tất nhiên là không! Trong scale của chúng ta đang sống không hề có điều phi lý đó. Cho dù nhanh như ánh sáng cũng phải cuốc bộ tới nơi mình muốn tới một cách cẩn thận. Nhưng trong thế giới vi mô, một hạt Electron có thể bỗng nhiên biến mất ở 1 nơi này và xuất hiện ở một nơi khác mà không hề di chuyển qua quãng đường. Điều này làm cho đến cả A.Einstein cũng vò đầu bứt tai đến hói cả trán. Ông phải thốt nên rằng : Có 2 điều vô hạn : 1 là vũ trụ này và hai là sự dốt nát của con người. Thực tế đã chứng minh chúng ta đang sống ở trong một thế giới với vô số phép màu.
4. Không có gì là gì?
Các bạn thấy câu hỏi này ngớ ngẩn hay thông minh? Ngớ ngẩn chứ còn gì nữa.
Thật ra đây là một trong những câu hỏi thông minh nhất của loài người cho đến nay. Chúng ta đến bây giờ vẫn chưa hiểu sự trống rỗng, khoảng không bất tận là gì. Có phải chúng hoàn toàn không có gì. Khoa học đã nhận ra khoảng không không hề như chúng ta nghĩ. Khoảng không có năng lượng và sức mạnh . Khoảng không có thể giãn nỡ nhanh hơn tốc độ ánh sáng và đang đẩy mọi vật chất trong vũ trụ ra xa nhau về mọi phía.
oẳn tù tì với thằng Ba Ngón này thì chết chắc
Nhưng mà kỷ niệm thì có màu gì sao người ta bảo Mầu kỷ niệm
Lâm Huynh đã khỏe đến đâu rùi. Dạo này đệ buồn quá
Khoảng không có năng lượng và sức mạnh Câu này hay quá vài ngàn năm truớc Lão tử đã ca ngợi diệu dụng của khoảng không rôi .Thế mới thấy khoa học và triết học gần nhau đến thế nào Khoảng giữa trời đất như ống bễ, hư không mà không kiệt, càng chuyển động, hơi lại càng ra. Càng nói nhiều lại càng khốn cùng, không bằng giữ sự hư tĩnh. Đạo đức kinh
Thêm tin vui cho bác nhachoaloiviet và các bạn. Sau 30 năm tìm kiếm, thí nghiêm và thu thâp tài liệu về hat Higgs, US Tevatron hôm nay công bố kết quả về hat Higgs, và cho thấy rằng cơ hội có hạt Higgs rất cao. Trung tâm CERN sẽ công bố kết quả chính thức vào ngày mốt (ngày 4 tháng 7)
Theo tôi thấy nếu chứng minh được là có hạt Higgs thì rất hay, mức hiểu biết của con người về năng lượng, trọng lượng... sẽ được rõ ràng hơn, như bác nhachoa đã nói, là một khám phá vĩ đại bật nhất về trí tuệ con người.
Nhưng tôi nghĩ nếu chứng minh được là không có hạt Higgs thì cũng có cái hay của nó. nhưng chứng minh cái có tương đối dễ hơn là chứng minh cái không có. Vì khi mình tìm không thấy, không có nghĩa là nó không có ở đó, có thể là mình chưa tìm đúng cách để tìm. Nếu chứng minh được lả không có hạt Higgs thì những thuuết khác như supersymetry và vũ trụ đa chiều, hằng hà sa số vũ trụ... trở nên hợp lý hơn.
World awaits Higgs boson announcement News in Science (ABC Science)
Chúa có chơi xúc sắc không?
Bài giảng này là về liệu chúng ta có thể dự đoán được tương lai, hay tương lai là ngẫu hứng và không thể đoán biết. Vào thời cố đại, thế giới chắc chắn có vẻ khá khó đoán biết. Thảm hoạ như bão hoặc bệnh dịch xảy ra không có báo trước, và không có nguyên nhân rõ ràng. Người cổ đại quy những hiện tượng tự nhiên như vậy cho các vị thần, những nhân vật hành xử một cách rất ngẫu hứng và thất thường. Không có cách nào để dự đoán họ sẽ làm gì, và niềm hi vọng duy nhất là lấy lòng họ với quà cáp hoặc hành động. Ngày nay, nhiều người vẫn phần nào ủng hộ niềm tin này, và họ cố gắng thoả hiệp với vận may. Họ tình nguyện làm một số điều nhất định để hi vọng họ có thể có một điểm A trong một khoá học, hay đỗ kì thi lái xe.
Tuy nhiên, dần dần con người đã để ý một số quy tắc nhất định của thiên nhiên. Những quy tắc này thể hiện rõ nhất qua sự chuyển động của những vật thể trên bầu trời. Vì vậy, thiên văn học là ngành khoa học đầu tiên được phát triển. Hơn 300 năm trước, Newton đã chứng minh một nền tảng toán học vững chắc của thiên văn học, và ngày hôm nay chúng ta vẫn sử dụng định luật vạn vật hấp dẫn của ông để dự đoán sự chuyển động của hầu hết các hành tinh. Tiếp sau thiên văn học, các hiện tượng tự nhiên khác cũng đã được chứng minh là tuân theo một số quy tắc khoa học nhất định. Điều này đã dẫn tới sự phát triển của thuyết khoa học tiền định, lý thuyết đã được phát biểu công khai đầu tiên bời nhà khoa học người Pháp, Laplace. Ông đã nói, nếu tại một thời điểm, chúng ta biết vị trí và vận tốc của tất cả các hạt của vũ trụ, vậy chúng ta có thể tính toán hoạt động của chúng tại bất kì một thời điểm nào khác, trong quá khứ hay tương lai. Đã có một câu chuyện vui, rằng khi Napoleon hỏi Laplace Chúa đóng vai trò gì trong mối quan hệ này, Laplace đã trả lời: “Thưa ngài, tôi chưa bao giờ quan tâm tới giả thiết đó.” Tôi không nghĩ rằng Laplace ý nói rằng Chúa không tồn tại. Chỉ là Chúa đứng ngoài, để không phá vỡ các quy tắc của khoa học. Đó chắc chắn là quan điểm của mọi nhà khoa học. Một định luật khoa học sẽ không còn là một định luật khoa học, nếu nó chỉ áp dụng khi một đấng tối cao nào đó quyết định không can thiệp và để mặc mọi việc diễn ra.
Ý tưởng rằng trạng thái của vũ trụ tại một thời điểm quyết định trạng thái của tất cả các thời điểm còn lại đã trở thành một nguyên lí trung tâm của khoa học, kể từ thời của Laplace. Nó gợi ý rằng chúng ta có thể đoán được tương lai, ít ra là trên lý thuyết. Tuy nhiên, trong thực tế, khả năng dự đoán tương lai của chúng ta đã bị hạn chế một cách nghiêm trọng bởi độ phức tạp của các phương trình, và bởi việc các phương trình thường có một thành phần gọi là sự mất trật tự. Như những người đã xem bộ phim Công viên kỉ Jura sẽ hiểu, điều này có nghĩa là một sự rối loạn nhỏ ở một nơi có thể gây ra một thay đổi lớn ở một nơi khác. Một con bướm vỗ cánh cũng có thể gây mưa ở Công viên Trung tâm, New York. Vấn đề là, điều này không có tính lặp lại. Lần tiếp theo con bướm vỗ cánh, rất nhiều các yếu tố khác sẽ trở nên khác biệt, và những điều này cũng sẽ gây ảnh hưởng. Đó là lí do tại sao dự báo thời tiết lại không đáng tin cậy như vậy.
Bất chấp những khó khăn thực tiễn, thuyết khoa học tiền định vẫn là niềm tin chính thức xuyên suốt thế kỉ XIX. Tuy nhiên, vào thế kỉ XX, đã có hai sự phát triển chỉ ra rằng giấc mơ của Laplace để dự đoán trọn vẹn tương lai, không thể được thực hiện. Phát triển thứ nhất là ở cơ học lượng tử. Lý thuyết này lần đầu tiên được đề xuất bởi nhà vật lý học người Đức, Max Planck, như một giả thiết để giải thích một nghịch lý nổi tiếng. Theo những quan niệm của thời Laplace vào thế kỉ XIX, một vật thể nóng, ví dụ như một mảnh kim loại nóng đỏ, sẽ phát ra phóng xạ. Nó sẽ mất năng lượng ở dạng sóng vô tuyến, tia hồng ngoại, ánh sáng nhìn thấy, tia cực tím, tia X và tia gamma voi cùng một vận tốc không thay đổi. Điều này không chỉ có nghĩa là tất cả chúng ta sẽ cùng chết vì ung thư da, nó còn có nghĩa là tất cả mọi vật thể trong vũ trụ có cùng chung nhiệt độ, và điều này hiển nhiên sai. Tuy nhiên, Planck đã chứng minh chúng ta có thể thoát khỏi thảm hoạ này, nếu chúng ta từ bỏ quan niệm rằng lượng phóng xạ có thể mang bất cứ giá trị nào, và thay vào đó phát biểu rằng phóng xạ tồn tại duy nhất theo phần hay định lượng của một định mức nhất định. Điều này gần giống như việc nói bạn không thể mua đường bừa bãi trong siêu thị, mà phải mua theo từng cân. Năng lượng ở trong từng phần hay định lượng này sẽ cao hơn đối với tia cực tím và tia X, và thấp hơn đối với tia hồng ngoại và ánh sáng nhìn thấy. Vì vậy, trừ khi một vật thể có nhiệt độ rất cao, ví dụ như Mặt Trời, nó sẽ không có bao giờ có đủ năng lượng để phát ra một chút năng lượng nào ở dạng tia cực tím hoặc tia X. Đây là lí do vì sao chúng ta không bị cháy nắng vì một tách cà phê.
Planck coi ý tưởng về những phần hoặc định lượng này đơn thuần chỉ là một mẹo toán học mà không có bất cứ giá trị nào trong thực tế. Tuy nhiên, các nhà vật lý đang bắt đầu tìm thấy những hiện tượng khác chỉ có thể được giải thích dưới dạng các đại lượng mang các giá trị hằng số nhất định, chứ không phải những đại lượng biến thiên. Ví dụ, nghiên cứu đã chứng minh các hạt cơ sở hoạt động giống như những con quay, quay xung quanh một trục nhất định. Tuy nhiên vận tốc quay không thể nhận một giá trị bất kì. Nó phải là một bội số của một đơn vị nhất định. Vì đơn vị này là rất nhỏ, chúng ta thường không để ý một con quay thường quay chậm lại qua một chuỗi các hành động diễn ra rất chóng vánh gồm các bước riêng biệt, thay vì một quá trình liên tiếp. Nhưng với những con quay rất nhỏ như các nguyên tử, bản chất gián đoạn của sự quay này là rất quan trọng.
Chỉ một thời gian sau mọi người mới nhận ra mối liên hệ giữa lý thuyết về đơn vị năng lượng ở trên và thuyết khoa học tiền định. Năm 1926, Werner Heisenberg, một nhà vật lý học người Đức khác, đã chứng minh rằng chúng ta không thể xác định đồng thời vị trí và vận tốc của một hạt một cách chính xác. Để biết được một hạt đang ở đâu, nó phải được chiếu sáng. Nhưng theo kết quả nghiên cứu của Planck, chúng ta không thể dùng một lượng ánh sáng bất kì. Chúng ta phải sử dụng ít nhất một đơn vị năng lượng ánh sáng. Nhưng việc này sẽ làm ảnh hưởng tới hạt chúng ta đang nghiên cứu, và khiến nó thay đổi vận tốc một cách không thể đoán trước. Nó là một tình huống khá bất lực: chúng ta càng cố đo đạc vị trí của hạt một cách càng chính xác, chúng ta sẽ càng không thể đo được vận tốc của hạt, và ngược lại. Điều này đã được trình bày ở Nguyên lý bất định của Heisenberg; tích của tính bất định trong vị trí của hạt và tính bất định trong vận tốc của nó sẽ luôn luôn lớn hơn thương số giữa khối lượng của hạt và một đại lượng được gọi là hằng số của Planck.
Laplace hoài bão về thuyết khoa học tiền định đòi hỏi chúng ta phải biết tất cả các vị trí và vận tốc của tất cả các hạt trong vũ trụ vào bất cứ thời điểm nào. Vì vậy, nó đã bị phản chứng một cách nghiêm trọng bởi nguyên lý bất định của Heisenberg. Làm sao chúng ta có thể dự đoán được tương lai, khi chúng ta không thể đo đạc một cách chính xác vị trí và vận tốc của tất cả các hạt vào thời điểm hiện tại. Dù chúng ta có một hệ thống máy móc hiện đại đến đâu, nếu chúng ta chỉ có những dữ liệu sai lệch, chúng ta sẽ luôn nhận được những dự đoán sai lệch.
Einstein rất không hài lòng về tính bất định này của tự nhiên. Quan điểm của ông đã được thể hiện rất rõ qua câu nói nổi tiếng: “Chúa không chơi súc sắc.” Ông cảm thấy sự khó đoán biết chỉ là tạm thời: nhưng còn một kha năng ẩn đằng sau, khi tất cả các hạt sẽ được xác định chính xác vị trí và vận tốc, và khả năng này sẽ phát triển dựa trên thuyết khoa học tiền định của Laplace. Chúa có thể đã biết về thực tế này, nhưng bản chất lượng tử của ánh sáng sẽ cản trở chúng ta nhìn thấy nó, trừ khi là xuyên qua một thấu kính mờ mịt.
Quan điểm của Einstein đã trở thành điều mà ngày nay được gọi là một thuyết biến số ẩn. Thuyết biến số ẩn có lẽ là cách rõ ràng nhất để áp dụng nguyên lý bất định vào vật lý. Thuyết này dựng lên nền tảng của vũ trụ nhìn qua con mắt của nhiều nhà khoa học và triết gia khoa học. Nhưng thuyết biến số ẩn này là sai. John Bell, nhà vật lý người Anh người vừa qua đời cách đây không lâu đã chế tạo một thí nghiệm có thể nhận biết được các biến số ẩn. Khi thí nghiệm được tiến hành rất kĩ lưỡng, kết quả không phù hợp với sự tồn tại của các biến số ẩn. Vì vậy, nó trở nên rất rõ ràng rằng kể cả Chúa cũng nằm trong tầm ảnh hưởng của nguyên lý bất định, và Người không thể biết vị trí và vận tốc của một hạt. Vậy nên Chúa không thể không chơi súc sắc với vũ trụ. Tất cả các bằng chứng đều chỉ ra rằng Người là một con bạc không biết mệt mỏi, liên tục ném súc sắc bất cứ khi nào có cơ hội.
Các nhà khoa học khác có một quan điểm khá thoải mái so với Einstein trong việc thay đổi quan điểm khoa học tiền định của thế kỉ XIX. Một lý thuyết mới, được gọi là cơ học lượng tử, đã được giới thiệu bởi Heisenberg, nhà vật lí học người Úc Erwin Schroedinger và nhà vật lý người Anh Paul Dirac. Dù cơ học lượng tử đã có mặt gần 70 năm, thuyết này vẫn không được hiểu rõ hay được tôn trọng, kể cả từ phía những người sử dụng nó để tính toán các phương trình. Tuy vậy, tất cả chúng ta đều nên chú ý đến thuyết này, vì nó mang lại một bức tranh hoàn toàn khác biệt về vũ trụ hữu hình, và về thực tế. Trong cơ học lượng tử, vận tốc và vị trí của các hạt không được xác định rõ. Thay vào đó, chúng được biểu diễn bởi các hàm sóng. Đại lượng này mang một giá trị khác nhau tại mỗi điểm của vũ trụ. Độ lớn của hàm sóng cung cấp xác suất hạt đang nghiên cứu sẽ được tìm thấy tại một điểm. Vận tốc hàm sóng biến thiên từ điểm này tới điểm khác cung cấp vận tốc của hạt đó. Một hạt có thể có một hàm sóng đột ngột đạt cực đại trong một vùng nhỏ. Điều này nghĩa là tính khó đoán biết được tại vị trí đó là rất nhỏ. Nhưng hàm sóng sẽ biến thiên rất nhanh chóng ở gần đỉnh, lên ở một bên, và xuống ở bên còn lại. Vì thế tính khó đoán biết được của vận tốc sẽ trở nên rất lớn. Tương tự, một hạt khác có thể có một hàm sóng với tính bất định ở vận tốc rất nhỏ, nhưng tính bất định ở vị trí rất lớn.
Một hàm sóng cung cấp tất cả những điều chúng ta cần biết về một hạt: vị trí và vận tốc của nó. Nếu chúng ta biết hàm sóng tại một thời điểm, vậy giá trị của nó tại các thời điểm khác có thể được xác định bằng phương trình Schroedinger. Vì vậy, vẫn tồn tại một yếu tố tiền định nhất định, nhưng không chính xác như điều Laplace đã hình dung. Thay vì có thể dự đoán vị trí và vận tốc của các hạt, tất cả những gì chúng ta có thể dự đoán chỉ là hàm sóng. Điều này có nghĩa là chúng ta chỉ có thể dự đoán một nửa những gì chúng ta có thể dự đoán, theo như quan điểm của thế kỉ XIX.
Dù cơ học lượng tử dẫn đến sự không chắc chắn, khi chúng ta cố gắng dự đoán cả vị trí và vận tốc, chúng ta vẫn có thể dự đoán một cách chắn chắn một sự kết hợp của vận tốc và vị trí. Tuy nhiên, ngay cả khả năng chắc chắn này vẫn bị đe doạ bởi những phát hiện gần đây. Vấn đề nảy sinh vì trọng lực có thể làm cong không gian và thời gian, vì vậy sẽ tồn tại những khu vực chúng ta không thể quan sát.
Năm 1799, Laplace cũng đã viết một bài nghiên cứu về việc một số ngôi sao có thể có một trọng trường mạnh tới mức tới ánh sáng cũng không thể thoát ra ngoài, mà sẽ bị kéo trở về phía ngôi sao. Ông thậm chí còn tính toán được rằng một ngôi sao với kích thước tương đương với Mặt Trời, nhưng 250 lần lớn hơn, vẫn sẽ có tính chất này. Nhưng dù Laplace có nhận ra hay không, ý tưởng tương tự cũng đã được đề xuất 16 năm trước bởi một giáo sư từ Cambridge, John Mitchell. Cả Mitchell và Laplace nghĩ rằng ánh sáng được tạo nên bởi các hạt, giống như các quả đạn đại bác, vì vậy có thể bị làm giảm vận tốc bởi trọng lực, và bị kéo về phía các ngôi sao. Nhưng một thí nghiệm nổi tiếng tiến hành bởi hai người Mỹ, Michelson và Morley vào năm 1887 đã chứng minh rằng ánh sáng luôn luôn đi với một vận tốc là 186000 dặm một giây, không kể nó xuất phát từ đâu. Vì vậy trọng lực không thể làm ánh sáng di chuyển chậm lại, hay thậm chí là di chuyển ngược lại.
Điều này là bất khả thi, theo như những quan điểm được chấp nhận thời bấy giờ về không gian và thời gian. Nhưng vào năm 1915, Einstein đưa ra Thuyết Tương đối rộng. Ông chứng minh rằng không gian và thời gian không phải là những chủ thể tồn tại riêng rẽ và độc lập, thay vào đó, chúng chỉ là nhữg hướng đi khác nhau của một chủ thể chung gọi là không - thời gian. Không - thời gian không phẳng, mà bị bẻ cong bởi các vật chất và năng lượng ở trong nó. Để hiểu được điều này, chúng ta hãy hình dung một tấm cao su với một quả cân được đặt trên nó để đại diện cho một ngôi sao. Quả cân này sẽ tạo ra một chỗ lõm ở trên tấm cao su, và sẽ khiến những vùng gần quả cân bị bẻ cong, thay vì phẳng. Nếu chúng ta thả những hòn bi ở trên tấm cao su, hướng dịch chuyển của chúng sẽ bị cong, thay vì là những đường thẳng. Vào năm 1919, một đoàn thám hiểm người Anh đã tới Tây Phi đã quan sát ánh sáng từ các ngôi sao từ xa, băng qua Mặt trời trong một dịp nhật thực. Họ đã tìm ra rằng hình ảnh của các ngôi sao đã bị dịch chuyển nhẹ khỏi vị trí bình thường của chúng. Điều này phản ánh rằng đường đi của ánh sáng từ các ngôi sao đã bị bẻ cong bởi vùng không gian - thời gian bị bẻ cong xung quanh Mặt trời. Thuyết tương đối đã được chứng minh là đúng.
Hãy hình dung rằng chúng ta tiếp tục đặt thêm nhiều quả cân nặng hơn trên tấm cao su. Chúng sẽ làm tấm cao su tiếp tục bị oằn xuống. Cuối cùng, tới một trọng lượng và kích thước nhất định, chúng sẽ tạo thành một cái hố không đáy ở tấm cao su, một cái hố mà tất cả các hạt đều có thể đi vào, nhưng không hạt nào có thể đi ra.
Điều xảy ra trong không - thời gian theo Thuyết Tương đối cũng tương tự. Một ngôi sao sẽ bẻ cong và làm biến dạng không gian - thời gian xung quanh nó, và độ biến dạng sẽ tỉ lệ thuận với trọng lượng và độ rắn của ngôi sao. Nếu một ngôi sao khổng lồ, với tất cả nguyên liệu hạt nhân của nó đã bị đốt cháy, hạ nhiệt độ và co lại quá một kích thước nhất định, nó sẽ tạo ra một cái hố không đáy giữa không gian - thời gian, và ánh sáng không thể thoát khỏi cái lỗ này. Những cái hố này được gọi là Hố đen bởi nhà vật lý người Mỹ John Wheeler, một trong những nhà khoa học đầu tiên nhận ra tầm quan trọng cũng như những vấn đề hố đen mang lại. Cái tên này đã được lưu truyền nhanh chóng. Với những người Mỹ, nó gợi về một thứ gì đó tối tăm và bí ẩn, trong khi với người Anh, có một chút gì đó dư âm về Hố đen của Calcutta. Nhưng người Pháp nghĩ rằng cái tên này mang một chút gì đó khiếm nhã. Hàng năm trời, họ từ chối không sử dụng cái tên này, lấy lí do rằng nó quá thô tục. Nhưng cuối cùng, họ cũng phải đầu hàng. Ai có thể tảng lờ một cái tên nổi tiếng như vậy?
Ngày hôm nay, chúng ta đã thu thập được nhiều quan sát chứng minh sự tồn tại của hố đen trong nhiều sự vật, từ những hệ sao đôi, tới trung tâm những thiên hà. Vì vậy hôm nay số đông chúng ta chấp nhận rằng hố đen có tồn tại. Nhưng ngoài nguồn tài nguyên dồi dào cho các phim khoa học viễn tưởng, hố đen còn có một tầm quan trọng lớn đối với thuyết tiền định. Câu trả lời nằm trong một cái hình dán tôi có trong cánh cửa trước phòng làm việc: Không ai có thể quan sát hố đen. Không chỉ các hạt và các nhà du hành bất hạnh bị hút vào một hố đen không bao giờ ra ngoài nữa, cả những thông tin họ mang lại cũng bị thất lạc vĩnh viễn, ít nhất là đối với địa phận của chúng ta trong vũ trụ. Chúng ta có thể ném những ti vi, nhẫn kim cương, và kể cả những kẻ thù đáng ghét nhất của chúng ta vào một hố đen, và tất cả những gì cái hố đen sẽ ghi nhớ là tổng khối lượng, và trạng thái quay. John Wheeler gọi điều này là: “Một cái hố đen không có tóc.” Đối với người Pháp, câu nói này chỉ khẳng định những nghi ngờ của họ là đúng.
Khi chúng ta nghĩ rằng hố đen sẽ tồn tại mãi mãi, không mấy ai để tâm đến sự thất lạc thông tin này. Một người có thể nói rằng các thông tin vẫn tồn tại bên trong một hố đen. Vấn đề chỉ là chúng ta không thể xác định được nó từ bên ngoài. Tuy nhiên bức tranh đã thay đổi hoàn toàn, khi tôi phát hiện ra là hố đen không hoàn toàn đen. Cơ học lượng tử đã chứng minh chúng phải phát ra bức xạ và các hạt ở một tốc độ nhất định. Kết quả này là một ngạc nhiên hoàn toàn cho tôi và tất cả mọi người. Nhưng khi suy nghĩ lại, nó thật rõ ràng. Khi chúng ta nghĩ tới một khoảng không gian trống, nó không hẳn trống, mà chứa đầy những cặp hạt và phản hạt. Hai loại này tồn tại đồng thời ở một số điểm của không gian và thời gian, di chuyển ra xa nhau, sau đó đâm vào nhau và huỷ diệt lẫn nhau. Các hạt và phản hạt này xảy ra bởi vì một trường, ví dụ như trường có chứa ánh sáng và trọng lực, không thể mang giá trị bằng không. Điều này có nghĩa là giá trị của một trường sẽ có một vị trí nhất định (tại không) và một vận tốc nhất định của dịch chuyển (cũng là không). Điều này sẽ phản chúng lại nguyên lý bất định, cũng như một hạt không thể có đồng thời một vị trí nhất định và một vận tốc nhất định. Bởi vậy tất cả các trường đều phải có sự dao động chân không. Bởi vì bản chất lượng tử của tự nhiên, chúng ta có thể hiểu những dao động chân không này dưới dạng các hạt và phản hạt như tôi vừa miêu tả.
Những cặp hạt và phản hạt này xảy ra với mọi sự biến thiên của các hạt cơ bản. Chúng được gọi là các hạt ảo, bởi vì chúng xảy ra cả ở trong khoảng chân không, và chúng không thể được chính xác đo đạc bởi các thiết bị dò hạt..Tuy nhiên, kết quả gián tiếp của các hạt ảo, hoặc của các dao đọng chân không đã được quan sát thấy qua nhiều thí nghiệm, và sự tồn tại của chúng được chứng minh.
Với một cái hố đen ở gần, một phần tử của cặp hạt - phản hạt có thể bị hút vào hố, để lại phần tử kia không còn là một cặp. Phần tử này cũng có thể rơi vào hố, nhưng nó cũng có thể trốn một quãng xa khỏi cái hố, nơi nó sẽ trở thành một hạt thật, có thể được nhận dạng bởi các thiết bị dò hạt. Đối với một người ở rất xa hố đen, hạt này sẽ được coi như đã bị hố đen thải ra.
Giải thích về việc hố đen thực chất không thực sự đen này đã làm sáng tỏ rằng sự thải các hạt sẽ phụ thuộc vào độ lớn của hố đen, và tốc độ quay của nó. Nhưng bởi vì hố đen không có tóc, theo cách nói của Wheeler, phóng xạ sẽ không phụ thuộc vào những vật thể gì bị hút vào hố đen. Nó không tạo ra sự khác biệt nếu chúng ta ném vào đó ti vi, nhẫn kim cương, hoặc kẻ thù của chúng ta. Những thứ được thải ra sẽ luôn luôn giống nhau.
Mối liên hệ giữa những lập luận này và thuyết tiền định là những gì bài giảng này xoay quanh. Điều nó chỉ ra là có rất nhiều giai đoạn ban đầu, chứa ti vi, nhẫn kim cương, và cả con người, và chúng tiến hoá để trở thành cùng một trạng thái ban đầu, ít nhất ở bên ngoài hố đen. Nhưng ở trong Laplace viễn cảnh của thuyết khoa học tiền định, có một mối quan hệ một một giữa giai đọan đầu tiên và giai đoạn cuối cùng. Nếu chúng ta biết trạng thái của vũ trụ vào một thời điểm trong quá khứ, chúng ta có thể dự đoán tương lai. Tương tự, nếu chúng ta biết trạng thái của nó ở tương lai, chúng ta cũng có thể dự đoán trạng thái của nó trong quá khứ. Sự phát triển của thuyết lượng tử vào những năm 1920 đã giảm thiểu những khả năng chúng ta có thể dự đoán xuống một nửa, nhưng nó vẫn để lại một mối liên hệ giữa các trạng thái của vũ trụ ở những thời điểm khác nhau. Nếu chúng ta biết hàm sóng ở một thời điểm, chúng ta có thể tính toán nó tại bất kì thời điểm nào.
Tuy nhiên, với hố đen, mọi việc đều thay đổi. Chúng ta sẽ luôn kết thúc với cùng một trạng thái ở bên ngoài hố đen, bất chấp chúng ta ném vật gì vào, chỉ cần chúng có chung trọng lượng. Vì vậy, không tồn tại một mối quan hệ một một nào giữa giai đoạn đầu tiên, và giai đoạn cuối cùng bên ngoài hố đen. Nhưng vẫn tồn tại một mối quan hệ một một giữa trạng thái đầu tiên và trạng thái cuối cùng ở cả bên ngoài và bên trong hố đen. Nhưng điều đáng chú ý là sự phát ra các hạt và phóng xạ của các hố đen sẽ khiến cái hố này mất dần khối lượng, và trở nên nhỏ hơn. Cuối cùng, cái hố đen sẽ đạt mức không khối lượng, và sẽ biến mất hoàn toàn. Tới lúc đó điều gì sẽ xảy ra với tất cả những vật thể đã rơi vào bên trong hố, và tất cả những người đã nhảy vào, hay bị đẩy vào? Họ không thể ra ngoài được, bởi vị không còn đủ khối lượng hay năng lượng bên trong hố đen để gửi họ ra ngoài. Họ có thể được tới một vũ trụ khác, nhưng điều này không tạo ra một khác biệt lớn lao đối với chúng ta, những người đủ sáng suốt để không nhảy vào một hố đen. Ngay cả thông tin về việc những gì đã rơi vào bên trong hố đen, cũng không thể được tiết lộ khi hố đen biến mất. Thông tin không thể được vận chuyển một cách miễn phí, những người phải trả hoá đơn điện thoại sẽ hiểu điều này. Thông tin đòi hỏi năng lượng để lưu thông, và sẽ không còn đủ năng lượng còn lại khi hố đen biến mất.
Điều việc này chỉ ra là thông tin sẽ bị thất lạc khỏi miền của chúng ta trong vũ trụ khi hố đen được tạo ra và biến mất. Sự thất lạc thông tin này có nghĩa là chúng ta chỉ dự đoán được còn ít hơn chúng ta nghĩ, dựa trên thuyết lượng tử. Trong thuyết lượng tử, không ai có thể dự đoán một cách chắc chắn cả vị trí và vận tốc của một hạt. Nhưng vẫn còn một sự kết hợp của vị trí và vận tốc có thể được dự đoán. Trong trường hợp của một hố đen, sự dự đoán này đòi hỏi cả hai phần tử của một cặp hạt. Nhưng chúng ta chỉ có thể đo đạc hạt được thải ra. Không có cách nào trên lý thuyết để chúng ta có thể đo đạc được hạt đã rơi vào bên trong hố đen. Vì vậy, với tất cả những dự đoán của chúng ta, nó có thể mang bất kì hình dạng nào. Điều này có nghĩa là chúng ta không thể có một dự đoán chắc chắn nào về hạt được thải ra khỏi hố. Chúng ta có thể tính toán xác suất hạt này có vị trí này hay vận tốc nọ. Nhưng chúng ta không thể dự đoán một sự kết hợp nào của vị trí và vận tốc của chỉ một hạt, vì vị trí và vận tốc của hạt này sẽ dựa vào hạt còn lại, hạt mà chúng ta không thể quan sát. Vì vậy, có vẻ Einstein đã rất sai lầm khi ông nói Chúa không chơi súc sắc. Chúa không chỉ chắc chắn chơi súc sắc, ông còn thỉnh thoảng làm chúng ta hoang mang bằng cách ném những quân súc sắc vào những nơi chúng không thể bị nhìn thấy.
Rất nhiều nhà khoa học cũng giống như Einstein, ở việc họ có một sự gắn bó tình cảm sâu sắc với thuyết tiền định. Khác Einstein, họ chấp nhất sự giảm thiểu khả năng dự đoán của chúng ta đã được chứng minh bởi thuyết lượng tử. Nhưng điều đó đã là quá đủ. Họ không thích giảm thiểu hơn nữa, như những gì hố đen hàm ý. Vì vậy, họ nói rằng thông tin không thực sự bị thất lạc ở sâu bên trong hố đen. Nhưng họ cũng chưa tìm ra bất kì một cách thức nào để mang thông tin đó trở lại. Nó chỉ là một hi vọng phù phiếm khi tin rằng vũ trụ là tiền định theo cách Laplace đã nghĩ. Tôi cảm thấy những nhà khoa học này đã không học tập được từ những bài học kinh nghiệm của lịch sử. Vũ trụ không bao giờ hoạt đọng dựa trên những quan điểm chúng ta đã tiếp nhận. Nó luôn luôn làm chúng ta ngạc nhiên.
Một người có thể không nghĩ việc thuyết tiền định bị phản chứng ở gần hố đen là một việc có tầm quan trọng lớn. Chúng ta đã chắc chắn về ít nhất một vài năm ánh sáng từ một hố đen ở bất kì độ lớn nào. Nhưng Thuyết không thể biết hàm ý rằng mọi miền của vũ trụ đều chứa đấy những hố đen ảo tí hon, những vật biến mất rồi lại tái sinh liên tục. Một người có thể sẽ nghĩ rằng hạt và thông tin có thể rơi vào bên trong những hố đen này, và bị thất lạc. Vì những hố đen ảo này quá nhỏ bé, một trăm tỉ tỉ lần nhở hơn hạt nhân của một nguyên tử, tốc độ thông tin bị thất lạc sẽ rất nhỏ. Nhưng ở trong những điều kiện khắc nghiệt, ví dụ như ở vũ trụ sơ khai, hoặc ở trong một sự va chạm giữa các hạt mang lại nguồn năng lượng cao, có thể tồn tại những sự mất mát và thất lạc lớn về thông tin. Điều này sẽ dẫn tới việc sự tiến hoá của vũ trụ không thể dự đoán được.
Tóm lại, những điều tôi đang trình bày, là liệu vũ trụ sẽ tiến hoá ở một cách bất kì, hay nó là tiền định. Quan điểm cổ, đề xuất bởi Laplace, là những chuyển động trong tương lai của các hạt là hoàn toàn được định trước, nếu chúng ta biết vị trí và vận tốc của nó vào một thời điểm. Quan điểm này phải được sửa đổi, khi Heisenberg đề xuất Nguyên lý bất định, chỉ ra rằng chúng ta không thể biết cả vị trí và vận tốc của hạt một cách chính xác. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể dự đoán một sự kết hợp của vận tốc và vị trí. Nhưng ngay cả khả năng dự đoán nhỏ hẹp này cung đã biến mất, khi những hệ quả của hố đen được đưa vào vấn đề. Sự mất mát của các hạt và thông tin sâu bên trong hố đen có nghĩa là các hạt bị thải ra ngoài là hoàn toàn ngẫu nhiên. Chúng ta có thể tính toán các xác suất, nhưng chúng ta không thể có một dự đoán chính xác nào. Vì vậy, tương lai của vũ trụ không hoàn toàn bị kiểm soát bởi các quy tắc khoa học hay trạng thái hiện tại của nó như Laplace đã nghĩ. Chúa vẫn còn một số mẹo nữa trong tay Người.
Đó là tất cả những gì tôi muốn nói cho ngày hôm nay. Xin cảm ơn.
Stephen Hawking (1999)
Dịch giả: Phạm Quỳnh Chi (2011)
Em xin có ý kiến hi bác Tontu, Bác Dê, bác kt... ơi chúng ta vào topic này cho các bài viết về khoa học, thần học... các bài viết được ở chung 1 chỗ nha
Series này rất hay, nói về vũ trụ từ các ngân hà cho đến black holes. Season 1 (2010) có 8 tập tôi xem rồi, rất hay. Season 2 (2012) cũng có 8 tập tôi chưa xem vì chưa thấy trên Netflix. Nhachoaloiviet hay các bạn nào thích về thiên văn và vũ trụ, nhất định phải xem series này.
How the Universe Works
How the Universe Works (TV Series 2010–) - IMDb
Chào cả nhà
Tranh thủ vài phút vào đây vội drop vài hàng hỏi thăm cả nhà đây.
Bác Lâm sức khỏe ra sao vậy? Bác Lâm có khỏe không? Có gì cho cả nhà cùng biết nhé. Thanks.
Mình đang nợ bác CKD, và bác KT mỗi người một bài trong mục "Sức Khỏe", đang tranh thủ viết bài cho xong rồi sẽ quay lại mục "Khoa Học" của nhạchoa nhé. Còn vệ vụ Higg hiếc thì nhiều cái hay để lạm bàn lắm.
Những lời nhận xét của bác Lâm rất hay và mang nhiều màu sắc của Lão tử. Cái này thì nói đến tắt thở cũng không hết phải không bác Lâm? Chúc bác Lâm được nhiều sức khỏe.
Ok! Tối về mình vào đây sau. Thôi trở lại làm việc đây. Chào cả nhà nhé.
Thân,
Từ khi NASA đáp thành công chiếc Rover Curiosity trên Mars các nhà khoa học luôn háo hức chờ đợi những kết quả thử nghiêm mới bằng những máy móc tinh vi hơn được lấp gáp cho Curiosity. Curiosity mang theo bộ đồ nghề khá phức tạp, mục đích chính là phân chất các thứ nó tìm được trên Mars.
Vài hôm trước một khoa học gia chính trong chương trình này bật mí chút ít là tháng sau sẽ cho ra tin có tính cách lịch sử về những khám phá mới. Câu nói này làm rất nhiều người quan tâm và hầu hết đều nghĩ là Curiosity đã tìm ra được Organic Compounds (hỗn hợp hữu cơ?). Nếu đúng thế thì đúng là một tin rất lớn. Chứng minh rằng ngoài trái đất ra nơi khác như Mars đã hay đang có sự sống!
Thôi thì đành chờ đến ngày công bố vậy, chắc là khoảng ngày 2 đến ngày 7 tháng tới thì mình sẽ biết được tin nóng này thật sự có nóng không. ;)
Có vai nào cho tôi không bạn hiền, hihi.. hay cứ để tôi diễn vai tự chọn quỷ sa-tăng: sọt dưa và phản biện, hihi..
Giờ là 4h30, lại 1 đêm không ngủ, nhưng được xem bài giới thiệu 1 thuyết về sự hình thành thế giới quan cũng thỏa, bắt đầu cảm nhận cơ thể đang tiến hóa đến tuổi 40: giai đoạn các phản ứng vật chất trong cơ thể đang yếu dần vì chất xúc tác đã ít đi, hihi.. anh em từng trải, có kinh nghiệm nên mở topic CLB những điều cần biết dành cho quý ông tuổi 40 đi, hihi..
Vừa ra hàng 3 hút điếu thuốc, nhìn thấy 1 ngôi sao tắt chắc nó xa mặt trời, nảy ra ý tưởng viết bài tham gia đây, giải thưởng dành cho bài viết thuyết phục nhất được đề cử là bộ sw luyện tập chuẩn nhất nhé, hihi..: quỷ sa-tăng có trước hay đấng tạo hóa có trước? hihi..
Chúc anh em ngày mới tốt!
Bác RONGDA đừng cho sự phản biện là làm bác thành quỷ Sa tăng chứ! Phản biện là cái còn quan trọng hơn cả những lý thuyết đó bác. Phản biện có căn cớ là cách tốt nhất để thiểu số thắng được đa số. Cái lý đúng sẽ được thời gian đứng về phía mình, dù trăm vạn người không đồng ý, trước sau gì cái đúng cũng được sáng toả mà thôi.
Kêu đàn ông viết về cái yếu dần có khác nào kêu các bà viết về tàn phai nhan sắc! Khó viết quá hehe. Nhưng sự thật vẫn là sự thật, thời gian không kiêng nễ bất cứ một ai, nó cứ đến và cứ thế nó đem đến những cái băt buộc phải đến: Lão, bệnh và tử. Còn luân hồi hay không thì là một đề tài quá lơn tôi không dám bàn đến hehe
Tôi cũng thích tìm hiểu về lão hoá. Xưa nay người ta biết là cơ thể già lẹ nếu mình có nhiều lo âu và thiếu những chất dinh dưỡng cần thiết. Bây giờ người ta biết lão hoá nằm trong mỗi tế bào và trong gene của chúng ta. Như sw của bác đã được viết sẳn tính tự huỷ vậy (nếu sw bác cho có virus hehe). Về lĩnh vực này thì quá phức tạp, nơi đây có bác Tontu, người có kiến thức sâu rộng về Y học và có tính rất ân cần và tỉ mỉ khi bàn đến cơ thể con người và sức khoẻ của chúng ta. Mong bác ấy sẽ cho chúng ta biết thêm về tính lão hoá của cơ thể con người.
Có một ông chuyên về khoa học, nhưng ông nghiêng về phía khoa học kỹ thuật để duy trì tuổi thọ con người. Ông đang dùng chính thân thể ông để thí nghiệm các chất như là vitamins, antioxidants, homornes... để hy vọng là ông sẽ... bất tử! haha hằng ngày ông uống mấy chục viên thuốc, lúc đầu tôi nghĩ là ông này hâm hâm nhưng sau nhiều tháng, kết quả thử máu của ông cho thấy ông rất khoẻ! Lý do ông nghĩ là ông có thể sống mải là ông tin rằng khoa học kỷ thuật tiến bộ nhanh đến mức khi ông đến 90 thì đã có cách làm người sống tới 100, và khi ông đến 100 thì đã có cách làm người sống đến 110... và cứ thế ông sẽ sống mải!
Raymond Kurzweil một con người khá đặc biệt, có nhiều tư tưởng rất hay, đã từng sáng chế ra khá nhiều thứ. Tôi có cuốn này của ông Amazon.com: Fantastic Voyage: Live Long Enough to Live Forever (9780452286672): Ray Kurzweil, Terry Grossman: Books không biết quyển này có được dịch sang Việt ngữ chưa.
Còn về Sa tăng hay đấng tao hoá cái nào trước thì dĩ nhiên là tạo hoá có trước rồi! đáp án đã có sẳn trong từ TẠO HOÁ rồi. :) nếu thắng giải nhờ bác CKD lãnh dùm, tôi không chơi sw hehe