Hi hi, em nhầm, sorry bác Lâm nhe. :D .
Vẫn còn thức hả bác. Làm chung rượu chat rồi vỗ giấc để sáng ngày đi bộ với con cún nhe bác.
Printable View
Hi hi, em nhầm, sorry bác Lâm nhe. :D .
Vẫn còn thức hả bác. Làm chung rượu chat rồi vỗ giấc để sáng ngày đi bộ với con cún nhe bác.
Bâc Lâm nói chính xác nền văn minh phương tây, Pháp, Tây Ban Nha, Anh Quốc, Bồ là những nước sau cuộc thập tự chinh khoa học phát triển, sau đó họ cần nhân công và vật liệu đóng tàu đi tìm các miền đất khác tìm kiêm nhân công cà vật liệu, Pháp ở Việt Nam 80 năm họ đã xây được các nhà máy điện, đường xá. đến bây giờ vẫn đang được sử dụng.
khác với Trung Hoa tại sao dân số họ đông đên vậy bì khởi đế chế Hán xâm phạm các miền đất khác bằng con đường đồng hóa.
Trước đây em rất nhiều cơ hội di trú qua Châu âu bằng con đường học hành, nhưng tiếc là bản thân ưa nhàn tản, hoàn cảnh gia đình quá ít người ở Việt Nam. mấy anh em em gái lấy chồng xa lắc xa lơ, thằng em thì đang ở Nhật, nên bây giờ vẫn bằng lòng với những gì mình chọn.
Thời đó cũng nghĩ lung lắm, Mỹ, Châu âu là các nước họ quá phát triển rồi, quá nhiều nhân tài, tài sản của họ là cho con cháu họ, mình qua đó không đóng góp được gì cũng ái ngại!
Hehe .Nhưng mà cũng tùy ông Tab ơi,có lúc sướng ,lúc khổ ,biết đâu mà lần có bài này của nhà văn trẻ phản ánh thú vị lắm
Người Việt có một câu nói: Mỹ là thiên đường giới trẻ, địa ngục giới già. Nay tôi đã vào cái tuổi giữa 70, câu nói này thật là thấm thía. Mỹ có tất cả những sản phẩm dành cho thanh thiếu nhi: đồ chơi, phim ảnh, máy chơi điện tử thính thị, khu giải trí có chủ đề (theme parks). Còn đối với người già, thì chỉ có sự cô lập và nỗi cô đơn.
Căn bản nếp sống của người Việt dựa vào gia đình, cộng đồng, và khi ta mất những cái đó, ta mất đi một phần lớn cái tôi. Khi còn sống ở Việt Nam, tôi không bao giờ nghĩ đến việc sinh sống tại một nơi nào khác ngoài quê hương. Ta sống và chết nơi tiền nhân đã sống và đã chết. Ta có thân nhân, giòng họ; ta có gia đình, có những miếu đền.
Một khi ta đã quen miền đất với mồ mả tổ tiên, ta sẽ không còn sợ tử thần và cái chết. Nhưng tại Mỹ, lối sống cũ của chúng ta không còn nữa. Chúng ta bị buộc phải ra đi khi cuộc chiến kết thúc vào năm 1975, và chúng ta đã sống xa xứ từ lúc đó. Ngày nay, bạn bè và thân nhân của chúng ta tản mạn khắp nơi trên thế giới.
Tại Mỹ, càng già càng mất mát nhiều – bạn bè, thân nhân, trí nhớ, khả năng di chuyển, và ý nghĩ của chính mình. Chuông điện thoại kêu. Tôi nhấc ống máy. Đây là bà tên-này-tên-nọ ở Los Angeles. Bà mắc bệnh tiểu đường và mới bị cưa chân. Rồi chuông điện thoại lại reo nữa: Ông tên-ni-tên-nớ ở Georgia bị ung thư phổi, chỉ còn sống khoảng vài tháng. Ở Việt nam, chúng tôi đều là bạn thân. Nhưng với cái tuổi đời chồng chất như tôi, tôi làm sao đến thăm họ được khi họ hàng ngàn cây số cách xa? Làm sao ta tưởng tượng được đến việc gọi điện thoại cho người bạn thân khi họ nằm chờ chết trong bệnh viện, để nói lời xin lỗi là không thể tận mình đến viếng thăm được lần cuối. Ấy vậy, tôi làm điều này mỗi tháng, buồn lắm.
Tôi và chồng tôi, chúng tôi dự định đi một chuyến du lịch Âu châu vào kỳ hè tới đây. Chuyến đi này là chuyến đi cuối cùng, để nói lời giã biệt thân nhân bè bạn. Chúng tôi biết là sau chuyến đi này, chúng tôi sẽ không đi đây đi đó được nữa vì sức khỏe đã kém, sẽ không thấy mặt họ nữa. Tôi gần như không bước xuống được cầu thang nhà vì đầu gối chân rất đau. Nhà thì đã bán, giờ thì chúng tôi ở trong một chung cư có thang máy vì đó là điều kiện duy nhất mà chúng tôi có thể sống độc lập không nhờ vả đến ai bây giờ.
Điều mà tôi quan tâm nhất là trí nhớ suy sụp rất nhiều. Tôi là người giữ gia phả của giòng họ, nhưng tất cả đều nằm ở trong đầu. Biết ai liên quan với ai như thế nào trong họ là nghề đặc biệt của tôi, người con gái trưởng trong nhà. Nhưng không một đứa con nào của tôi biết được những mối dây liên hệ gia đình trong gia tộc, ngay cả đến những người em của chính tôi. Không có tôi, họ hàng thân thích sẽ trở thành kẻ xa lạ nếu tình cờ gặp nhau trên đường phố. Tôi có thể nhớ đến được những bà con cô dì chú bác ba đời của gia đình bên tôi và của cả bên chồng. Tôi phải viết xuống trước khi trí nhớ tôi lụt hết.
Thỉnh thoảng vào buổi sáng khi thức dậy, tôi lặng nhìn cây cối ngoài phố và tự hỏi tôi đang ở nơi nào. Đôi lúc, tôi đi sang khu chung cư kế cận, nơi có một số mèo hoang, và cho chúng ăn những thức ăn thừa. Khi tôi cất tiếng gọi, chúng nhận ra giọng nói của tôi và đổ xô lại. Bây giờ, chúng là những niềm vui nhỏ của tôi.
Đương nhiên những ngày hạnh phúc nhất là những ngày con cháu đến thăm. Nhưng chúng cũng có đời sống riêng, thỉnh thoảng chỉ đến chơi được một lúc rồi về, tôi làm gì cho hết những khoảng thì giờ trống trải sau đó?
Mẹ tôi, bà mất năm bà 97 tuổi, và mẹ chồng tôi, qua đời lúc 95 tuổi; cả hai người có sống chung trong một khu dưỡng lão nhiều năm. Tôi thường đi xe buýt đến thăm hai bà mỗi ngày, ngay cả khi còn đi làm. Từ lúc đó tôi đã biết cái thảm não của người già trên đất Mỹ, ngay khi tôi còn trẻ trung mạnh khỏe. Các nhân viên điều dưỡng ở đó thường nói với tôi là hai bà có phước lắm, thường có được con cháu đến thăm. Tôi trả lời: “Đó là lối sống của người Việt Nam”. Còn những người già khác, con cháu họ ít đến. Tôi có nhớ một số bà lão, ngồi trên những chiếc xe đẩy, ngóng trông con cháu hay người thân, ngày này qua ngày khác, nhưng chẳng thấy ai. Có cả một bà cụ, cụ còn sống lâu hơn những người con trai; mỗi ngày bà vẫn ngồi chờ trông mong hình ảnh người con trai bước qua khung cửa. Thật tội nghiệp khi người ta sống dai như vậy trong sự cô đơn!
Ở xứ Mỹ này, tuổi già đúng là tuổi lỡ thời; cả hai đều không được người ta kính nể hay cho một chút gì quan trọng. Ở quê nhà, các ông già bà lão thì được nể vì nhất, vì họ là những người chia xẻ túi khôn cùng kinh nghiệm cho những người đi sau. Điều đó không có ở đây. Không ai muốn nghe tiếng nói của người già. Họ cảm thấy bị cô lập ngoài vòng ranh giới của con cháu Mỹ hóa của họ. Chúng cười vang về nhiều thứ mà tôi không hoàn toàn hiểu được. Mỹ đúng là một quốc gia của giới trẻ hơn là giới già như tôi.
Vào những buổi chiều mùa đông, tôi ngồi nhìn những hàng cây trơ trụi lá, tâm hồn lạc lõng. Tôi nghĩ về cái thế giới mà tôi đã biết, nay đã bay xa, như làn khói hương trầm. Tôi nghĩ đến cố hương, đến những mùa lễ Tết ở Saigon, đến những đám cưới, đám hỏi, đến những chuyến du lịch, những lần tíu tít họp mặt gia đình, ai ai cũng có mặt, con nít chạy quanh, người lớn ngồi nói chuyện đời chuyện gẫu, đàn bà con gái quây quần chung lo việc bếp nước. Và tôi cảm thấy rất khao khát những ngày quá khứ xa xưa.
Andrew Lâm (Aging in a Foreign Land)
Nhưng rồi ai cũng phải tự mình bơi trong dòng vô tận thôi. Chẳng theo được ai và cũng chẳng ai theo mình.
Hơ hơ, sau khi update thì mấy bài com. cuối bị mất rồi. Không sao, ghi lại mấy hồi.
@ Alent, mình có người quen sẽ đi tham quan viết bài về sinh hoạt của Sapa cho nên tính hỏi các anh chị em có ai biết di chuyển từ Hà Nội lên Sapa bằng cách nào tiên lợi và... rẻ tiền nhất. Chỉ hỏi về phương tiện giao thông thôi. Khách sạn trên đó thì nghe nói đã đặt rồi.
Mình lúc nào có dịp ra Hà Nội sẽ ới bạn hiền làm 3 ván cờ ĐỘ đó nghen. Sợ chưa :battay .
Sư phụ ơi bản rain tear quật 1 lượt 6 dòng rồi chơi lộn lại từ đầu hã?
Hehe ông nhachoa học nhạc ở đâu mà thầy giáo chẳng dậy nhạc lí gì hết .Đánh lần thứ nhất tới hết dòng 5 có dấu ba chấm dọc cuối trường canh có nghĩa là quay lại từ đầu sau đó lần 2 đánh hết sáu dòng để kết thúc.Ông đã bao lần dùng lời ong buớm mê hoặc gái nay xin tặng ông bài này
Đúng 40 năm sau ngày ra đời (1973-2013), ca khúc tiếng Pháp vừa được tái bản với lối hòa âm mới và được phát hành nhân 25 năm ngày giỗ của Dalida, trên bộ toàn tập Les Diamants sont éternels (Kim cương ngời sáng muôn thuở), bao gồm tổng cộng là 25 cuộn CD. Bản nhạc tiếng Ý với tựa đề nguyên gốc là Parole Parole đã được phát hành vào năm 1972.
Nhạc sĩ Gianni Ferrio là người đã soạn ra giai điệu bài hát, còn lời ca là của hai tác giả Leo Chiosso và Giancarlo Del Re. Cả ba gương mặt này làm việc chung với nhau, hợp tác sản xuất chương trình ca nhạc nổi truyền hình quốc gia Ý (RAI). Được phát sóng lần đầu tiên vào năm 1964, nhưng Teatro Dieci không đủ ăn khách để trở thành một điểm hẹn hàng tuần với khán thính giả.
Sau nhiều lần bị gián đoạn, chương trình này chính thức kết thúc vào tháng Tư năm 1972. Chính trong cái bối cảnh đó mà nhóm sáng tác Ferrio – Chiosso – Del Re mới soạn nhạc phẩm Parole Parole cho nữ danh ca Mina và Alberto Lupo, một nam diễn viên nổi tiếng của làng điện ảnh truyền hình thời bấy giờ. Nhờ vào bản song ca mà chương trình Teatro Dieci kết thúc một cách rực rỡ, sự nghiệp ca hát của Mina cũng tăng thêm một bậc. Bản song ca trở thành tình khúc ăn khách nhất nước Ý mùa hè năm 1972.
Đến tháng 10 năm 1972, Dalida quyết định ghi âm bài này trong tiếng Pháp. Tác giả Jacqueline Misrahi, cũng xuất thân từ một gia đình gốc Ý sinh trưởng tại Ai Cập như Dalida, mới chấp bút soạn lời gần sát với nguyên tác tiếng Ý. Câu hỏi đặt ra vào lúc đó là người đàn ông nào sẽ ghi âm bài hát tiếng Pháp với Dalida ?
Các nhà sản xuất mới nghĩ tới một số nam diễn viên trứ danh. Dalida thì nhất quyết muốn ghi âm bài này với Alain Delon, ngôi sao màn bạc Pháp nổi tiếng nhất trên thế giới thời bấy giờ. Trong giới sản xuất, không ai tin rằng Alain Delon sẽ nhận lời, trước hết là vấn đề thù lao, kế đến nữa là lịch làm việc.
Cùng với Jean Paul Belmondo, Alain Delon là diễn viên ăn khách và sáng giá nhất từ thập niên 1960, cứ mỗi năm là có đến ít nhất bốn dự án quay phim. Vào đầu mùa thu năm 1972, Alain Delon đang bận đóng phim bên Ý (cuộn phim La Prima Notte di Quiete – Đêm yên tĩnh đầu tiên của đạo diễn Valerio Zurlini). Do vậy mà các nhà sản xuất nghĩ rằng dự án ghi âm của Dalida với thần tượng điện ảnh này sẽ khó mà hoàn thành.
Điều mà không ai biết được là Dalida và Alain Delon đã quen nhau từ gần 20 năm về trước. Lần đầu tiên hai người gặp nhau là vào năm 1955. Vào thời đó, Dalida chân ướt chân ráo đến Paris lập nghiệp sau khi đoạt chiếc vương miện hoa hậu Ai Cập năm 1954.
Dalida từng cho biết là cô mướn một căn hộ nhỏ bé trên con đường Jean Mermoz ở Paris quận 8, và anh bạn hàng xóm ở ngay bên cạnh không ai nào khác là Alain Delon. Dalida thành danh từ năm 1956 nhờ một loạt ca khúc ăn khách, còn Alain Delon đóng bộ phim đầu tay vào năm 1957, và chỉ thật sự nổi tiếng hai năm sau.
Theo lời kể của nhà sản xuất Eddie Barclay, người đã sáng lập hãng đĩa Barclay, thì Dalida và Alain Delon rất quý mến nhau. Một điều cũng khá dễ hiểu, vì cả hai khởi đầu sự nghiệp trong cùng một hoàn cảnh : diễn viên hay ca sĩ mới vào nghề đều khổ nhọc kiếm đồng lương, vất vả chạy show trả tiền nhà. Vì thế cho nên khi nhận được cú điện thoại của Dalida mời anh hợp tác ghi âm, Alain Delon liền nhận lời ngay.
Buổi ghi âm diễn ra trong bầu không khí ấm cúng thân tình, cả hai ngôi sao ít nói đến chuyện làm việc mà chủ yếu nhắc tới cái thuở hàn vi ban đầu. Tuy mỗi người sau đó đã chọn cho mình một hướng đi khác nhau, nhưng do từng trải cùng một hoàn cảnh, cho nên cả hai vẫn có cảm tưởng ngồi cùng một ghe, chèo cùng một thuyền.
Sau buổi ghi âm trong phòng thu vào tháng Mười năm 1972, Alain Delon chỉ có đủ thời gian để thực hiện các bức ảnh chụp với Dalida để làm hình bìa cho đĩa nhựa. Dự án quay một bộ phim ngắn với hai ngôi sao để minh họa cho ca khúc này rốt cuộc không thành. Nhưng sự hiện diện của Alain Delon, dù là ngắn ngủi chớp nhoáng, phủ lên trên ca khúc một lớp hào quang lộng lẫy.
Có nhân vật nào thời đó mà lịch lãm đào hoa hơn Alain Delon, hình tượng của người đàn ông đa tình lại càng nhấn mạnh cái ý tứ của tình nhân không chung thủy. Thời nay, việc hội tụ hai ngôi sao trên cùng một ca khúc thường là do quảng cáo tiếp thị tài tình. Thời của Dalida, đằng sau chuyện ghi âm với Alain Delon, lại có nhiều giai thoại đáng kể.
Được phát hành vào đầu năm 1973, làm ca khúc trích đoạn đầu tiên từ album thứ sáu của Dalida, nhạc phẩm Paroles Paroles phá kỷ lục số bán tại châu Âu do Giọng ca vàng Frank Sinatra nắm giữ từ năm 1966 nhờ ca khúc Strangers in the Night. Bài hát này cũng chiếm hạng đầu thị trường Nhật Bản và phá luôn kỷ lục của bài Tombe la Neige (Tuyết rơi) của Adamo.
Hàng loạt phiên bản trong nhiều thứ tiếng khác nhau lần lượt ra đời không lâu sau đó, kể cả tiếng Nhật, tiếng Đức, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Ba Tư hay Thổ Nhĩ Kỳ. Một số phiên bản dịch thẳng từ nguyên tác tiếng Ý. Một số khác chuyển dịch từ phiên bản tiếng Pháp và đôi khi có đến hai hoặc ba lời khác nhau như trường hợp của phiên bản tiếng Đức, tiếng Tây Ban Nha hay tiếng Việt (khác biệt trong tiếng Việt không nằm trong câu hát mà chủ yếu ở trong lời thoại).
Nếu như trong nguyên tác, bản nhạc tiếng Ý Parole Parole đã được viết với những ý tứ hóm hĩnh hài hước, thì phiên bản tiếng Pháp lại khai thác tâm trạng mất mát buồn bã của người đàn bà, khi họ bị lừa dối đến đỗi phải đột qụy vấp ngã.
Bản song ca tiếng Ý ban đầu được viết một tiết mục sân khấu truyền hình, qua đó, một người đàn ông đào hoa nói dối một cách trơ trẽn, tìm cách dỗ ngọt người yêu với bao lời thề thốt muôn đời chung thủy, nhưng người đàn bà ở đây không hề nhẹ dạ cả tin.
Về hoàn cảnh đời tư, thì vào đầu những năm 1970, Dalida yêu nhà văn nổi tiếng Arnaud Desjardins, ông là người đã giúp phổ biến ở Pháp triết học Ấn Độ và thuyết Phật giáo Tây Tạng. Sau ba năm quan hệ tình cảm từ năm 1969 đến năm 1972, hai người rốt cuộc đành phải chia tay nhau.
Mối bất đồng đến từ việc Arnaud Desjardins đã có gia đình và ông không chịu ly hôn với vợ để sống chung với Dalida. Một thời gian sau đó, Dalida làm quen với một người đàn ông khác là nam ca sĩ trẻ tuổi Richard Stivell. Sau vài tháng quen biết lui tới, Dalida tưởng rằng cô có thể làm lại cuộc đời, nhưng để rồi khám phá ra là tình nhân của mình (Richard Stivell) cũng là một người đàn ông đã có vợ.
Buồn tình, chán nản, thất vọng, Dalida vùi đầu vào công việc. Không phải ngẫu nhiên mà trên cùng một album phát hành vào năm 1973, Dalida ghi âm nhiều ca khúc nói về nỗi sầu tương tư hay tình buồn đơn phương là nhạc phẩm Je suis malade của Serge Lama, Il venait d’avoir 18 ans cũng như bài Rien qu’un home de plus với gợi ý là Dalida lại có thêm một người đàn ông bạc nghĩa trong đời.
Còn trong nhạc phẩm Paroles Paroles (Những lời mê hoặc), Dalida hóa thân vào vai một người đàn bà bị phản bội bỏ rơi, diễn đạt ca khúc với tâm trạng cay đắng bồi hồi, lời giả dối càng ngọt bùi, nỗi ngậm ngùi càng làm cho đau nhói. Số phận oan nghiệt đang đẩy dần người đàn bà đến sát gần bờ vực thẳm tội lỗi. Cho đến cái ngày định mệnh khi Dalida tự kết liễu cuộc đời để lại một lời di chúc, một bức tâm thư : “Hãy tha thứ cho tôi, cô đơn, tôi không còn chịu đựng nổi”. Một lời tạ tội nhức nhối cho bao mất mát thiệt thòi.
Có phải tình yêu sẽ phải có những kết thúc như định nghĩa của cố nhạc sĩ Văn Phụng. Và nghe nói bài này khoản vào năm 1992 cố nhạc sĩ Phạm Duy đã viết thêm ít nhạc sô lô cho ca sĩ Ý Lan hát . Lồng vào bài nhạc là những cảnh của Venice đẹp quá.
Về đêm thì Venice như chìm vào bóng tối, chỉ hắc hiu đó đây ánh điện mờ ảo như sợ ánh sáng sẽ phá tan đi cái yên tỉnh của thành phố trên biển này.
http://www.youtube.com/watch?v=04AuDQvcTB8
Tiếng đàn tình tứ quá
Nghe tình thật. Dạo này tập đánh dây buông không bác Thợ. Nhiều kỹ thuật khó nhưng tập rất khoái, nhất là tập lại những bài cũ tay phải mình đánh lưu loát và có lực hơn hồi xưa. Thầy nói giai đoạn này nhiều người chán nản bỏ dở vì cứ tập đi tập lại hoài.
Nghệ thuật giống như gái đẹp bác D ạ , càng kiêu kì khó chinh phục càng khoái ,đuợc rồi suớng tê mê .Những bài dễ tập tất cũng dễ chán ,một đoạn khó mà chạy lưu loát suớng không thể tả .Gái mà chưa kịp tán đã ...đây này.. Bác có chán không .Hôm nay xin tặng bác bài viết về Tango như một gửi gắm cho người bạn vong niên
Trong thể loại tango của Argentina, bản nhạc El Choclo là giai điệu nổi tiếng nhất nhì trên khắp thế giới, chỉ thua nhạc phẩm La Cumparsita (Vũ nữ thân gầy). Bản El Choclo từng được dịch sang tiếng Anh là Kiss of Fire (Nụ hôn rực lửa) và trong tiếng Việt là Tình như Mũi tên (lời của Anh Bằng). Nhưng ít có lời nào lột tả một cách trọn vẹn cái hồn của nguyên tác : ca từ thanh tao, ý tứ thô tục.
Vào cuối thế kỷ XIX, các bài tango chủ yếu là các giai điệu phổ biến trong giai cấp bình dân, thường là sáng tác tùy hứng, ít có cấu trúc bài bản.
Nội dung các ca khúc chủ yếu nói về cuộc sống về đêm, xoay quanh cái thế giới của các cô gái điếm. Trong những khu phố bình dân của vùng Rio de la Plata, có đủ mọi thành phần xã hội lui tới các nhà chứa : từ giới thượng lưu quý tộc, các doanh nhân tài phiệt, thành phần văn nghệ sĩ, các tay anh chị trong giang hồ, thổ dân da màu hay công nhân thấp hèn trong tầng lớp nhập cư … Thượng vàng hạ cám, khác biệt hay chăng là ở cái túi tiền mà khách làng chơi, giàu sang hay nghèo nàn, chịu bỏ ra để mua vui.
Khá nhiều bản tango đã ra đời trong cái bối cảnh đặc biệt của xã hội Achentina thời bấy giờ. Những bản nhạc thô tục nhất ít khi nào được ghi chép mà chỉ được truyền khẩu nên dễ bị mai một. Nếu có may mắn được lưu lại, thì bản nhạc cũng hiếm khi nào mà ghi tên tác giả.
Một điều cũng khá dễ hiểu vì chẳng có ai mà dám công bố mình là tác giả của những bài hát với lời lẽ thô tục, sống sượng đến như vậy. Những bản nhạc lưu truyền cho tới tận ngày nay, thường là những ca khúc dùng chữ thanh để nói lên cái tục : bài hát El Choclo vì vậy trở nên tiêu biểu cho các khúc tango hoan vui trụy lạc, lẳng lơ đĩ thõa.
Trong tiếng Tây Ban Nha, El Choclo có nghĩa đen là Trái Ngô, nhưng trong nghĩa bóng nên hiểu là ‘‘Của quý đàn ông’’ thì có lẽ đúng hơn. Khúc nhạc El Choclo do nhà soạn nhạc Angel Villoldo (tác giả của bài "El Porteñito") sáng tác vào khoảng những năm 1897-1898 và được diễn lần đầu tiên vào năm 1903. Theo sử sách, lời của bài hát đã được viết vào năm 1905. Trong phiên bản nguyên gốc, tác giả dùng những chữ thanh tao như :
Đầu đồng có trái ngô
Mịn râu kết hạt vàng
Rót vào hồn miên man
Giọt đam mê dịu dàng
Trong thực tế, "El Choclo" là biệt danh của một tên ma cô chuyên cò mồi, dắt khách vào nhà chứa. Dựa vào một nhân vật có thật, với mái tóc vàng như râu ngô, tác giả Angel Villoldo phác họa cảnh dục vọng ái ân giữa hai nhân tình cũng như quan hệ giữa tên ma cô và cô gái điếm.
Đến đầu những năm 1930, ca sĩ kiêm tác giả Juan Carlos Marambio Catan sửa đổi ca từ bài hát cho lần thu âm đầu tiên, nội dung trở nên tình tứ lãng mạn hơn, nói về tình yêu đôi lứa nhưng lại gạt qua một bên những hình tượng thanh tục. Phiên bản này sau đó rất ăn khách với giọng ca Angel Vargas. Trong ca từ, tác giả lược bỏ thủ pháp hoán dụ tài tình của bậc đàn anh là Angel Villoldo. Bản nhạc vì thế mà mất đi chiều sâu ban đầu do thiếu hẳn một cách đọc.
Đến năm 1947, bài El Choclo lại có thêm một lời thứ ba trong tiếng Tây Ban Nha. Nhà thơ Enrique Santos Discépolo với cách dùng chữ trang trọng trau chuốt, lái hẳn nội dung của nguyên tác về một hướng khác. Tác giả nói về tình quê hương, những kỷ niệm thời thơ ấu để gợi lên tình cảm gắn bó của ông với đất nước, quê nhà thông qua biểu tượng của dòng nhạc tango, từ lúc khai sinh cho tới khi trở thành hình ảnh tiêu biểu của một quốc gia.
Từ năm 1952 trở đi, bản nhạc El Choclo nổi danh trên khắp thế giới nhờ có thêm phiên bản tiếng Anh là Kiss of Fire (Nụ hôn rực lửa). Nhiều ca sĩ nổi tiếng quốc tế như Nat King Cole, Connie Francis, Louis Armstrong, Tony Martin, Georgia Gibbs … đều có thu âm bài này.
Những năm gần đây hơn thì có các phiên bản của Julio Iglesias, Helmut Lotti hay của Hugh Laurie. Còn trong tiếng Việt, nhạc sĩ Anh Bằng đặt lời cho bài này sau năm 1975, các phiên bản quen thuộc nhất là qua tiếng hát của Tuấn Ngọc phối theo điệu rumba, hay của Nguyên Khang phối theo tango.
Lối dùng ca từ trau chuốt của nhà thơ Enrique Santos Discépolo định hình khuôn thước của bài El Choclo, tất cả các phiên bản ghi âm trong tiếng Tây Ban Nha đều chọn lời thứ ba làm khuôn mẫu. Các bản dịch cũng ít nhiều gợi hứng từ lời này. Bài thơ của Enrique Discépolo được nhiều người tán tụng, trong đó có văn hào trứ danh Jorge Luis Borges khi ông cho rằng không có bài thơ nào viết về tango hay như bài thơ này.
Nhưng bên cạnh đó, cũng có ý kiến ngược lại, đánh giá rằng El Choclo đã hai lần bị kiểm duyệt : khi giai điệu cực kỳ quyến rũ của bài hát trở nên phổ biến, thì ca từ nguyên gốc của bài hát lại bị cắt xén, sửa đổi cho lọt tai đa số người nghe. Vào những năm 1930, khi các dàn nhạc thường xuyên biểu diễn bài này trong các buổi dạ hội dành cho giới thượng lưu, qúy tộc, thì ca từ khiêu gợi của bản nhạc nguyên gốc khó mà chấp nhận được.
Khi nhìn lại các bản nhạc tango viết vào những năm 1890, người ta sẽ thấy là có nhiều bài hát thô tục, thô trong cách tả chân, tục vì có sao nói vậy. Nhưng bên cạnh đó, cũng có nhiều bài đậm đặc chất thơ, trong đó các tác giả khuyết danh cũng như các nhà soạn nhạc lưu danh hậu thế nhờ trổ tài luồn lách, nói bóng nói gió, qua ẩn dụ hay hoán dụ, dùng chi tiết để nói lên tổng thể, dùng cận ảnh để phác họa toàn cảnh.
Thông qua những hình tượng như Una Flota (Ống sáo), Siete pulgadas (Bảy tấc hay là Dài như bảy đốt ngón tay), El Serrucho (Ổ khóa), El fierrazo (Nòng súng) hay El Choclo (Trái Ngô), các tác giả đánh vào tâm trí người nghe. Hình ảnh càng thanh, thì ý nghĩa càng tục : Chỉ cần một chút tưởng tượng thì người ta có thể hình dung ra được các tác giả đang muốn nói gì.
Không phải ngẫu nhiên mà tango từng được gọi là Vũ điệu của ác qủy, bời vì nó biểu hiện cho đam mê rực cháy lửa tình, con tim hừng hực dục vọng trong cái thời khai sinh, từ cái thuở nguyên thủy. Những giọng ca ‘‘thiên thần’’ sau đó nổi danh là ông vua hay bà hoàng của thể điệu này, biết lột tả cái hồn của tango do có kinh nghiệm từng trải với nỗi đau xác thịt.
Khi nghe các phiên bản sau này của bài El Choclo, cái bối cảnh hình thành của dòng nhạc tango trở nên mờ nhạt hơn. Trong nghĩa đen, ca từ nguyên gốc làm cho ta liên tưởng đến những ca khúc dân gian đồng án, còn trong nghĩa bóng, ý nghĩa của bài hát làm cho những tác giả thánh thiện đạo mạo phải thẹn thùng đỏ mặt.
Trong cách chơi chữ hình thanh mà bóng tục, bài hát Trái Ngô coi vậy mà lại khuynh đảo tư tưởng phải đạo, vì thế cho nên các tác giả thường dùng uyển ngữ để làm nhẹ đi ca từ. Khi lược bỏ thủ pháp hoán dụ, lưỡi kéo kiểm duyệt đã hai lần cắt ngang "Của quý Đàn ông".
Bác để ý người nghệ sĩ ngồi kéo cello lúc cô ấy dùng tay không búng trên thùng phát ra những tiếng tóc tóc chỏi nhịp nghe suớng thật
Bài này của bác Lâm làm cho em nhớ về những năm 76-77. Ngồi uống cà phê ở đường Hùng Vương Đà Nẵng, lại lắng nghe mấy bài hòa tấu này được phát ra từ cái loa to của phòng triển lãm ( lâu quá không nhớ tên ) bên kia đường. Ngày ấy có khi không có tiền phải đi uống ké cà phê với mấy thằng bạn.
Cảm ơn bác Thợ. Bác quả là đánh đúng vào đam mê của tôi rồi. Tôi mê Tango lắm. Giờ luyện guitar cũng để sau này chơi Tango hehe. Những bài Tango lúc trước bác chỉ down về tôi upload lên cloud hết để tránh mất dữ liệu. Sau này khi kỹ thuật kha khá sẽ thưởng thức dần dần. Nhiêu đó bài cũng đã đủ cho việc cất công học guitar rồi.
Bài này phải đọc kỹ để lên bàn nhậu "chém" với chiến hữu mới được. Rõ là thanh và tục rất sát nhau. Vui và buồn chỉ cách nhau một nốt nhạc. E và Em mang 2 màu đối lập mà chỉ khác nhau một nốt thôi.
Mùa giải cờ vua đến rồi mà ông Gió vẫn biền biệt chắc ông đang leo núi Nepal .Mong ông cẩn thận
Âm nhạc tựa như hương hoa, ẩn chứa những cảm xúc vô hình, tiềm tàng kỷ niệm mông lung khó tả. Mùi hương say đắm như ánh mắt, quyến luyến những vòng tay để rồi lan tỏa những câu chuyện tình lãng mạn. Dù nẩy sinh trong khoảnh khắc tâm can nhưng mùi hương vẫn chắp cánh vượt thời gian, không sợ tuổi già năm tháng, mà lại suốt đời miên man.
Câu nói của tác giả Osvaldo Farrés, khi ông nói về bí quyết soạn nhạc của mình, đã trở nên bất hủ để đời, cũng như khá nhiều bản nhạc bolero mà ông đã sáng tác lúc sinh thời. Nhắc đến tác giả người Cuba Osvaldo Farrés (1902-1985), người yêu nhạc trên thế giới đều biết đến ca khúc Quizás Quizás do ông viết vào năm 1947.
Có nhiều nguồn ghi chép sai một chi tiết quan trọng khi cho rằng bài Quizás Quizás là một bản mambo nổi tiếng. Thật ra, theo ông Radamés Giró, người đã soạn quyển Tự điển Bách khoa về Âm nhạc Cuba (Diccionario Enciclopédico de la Música en Cuba), nguyên tác của bài Quizás Quizás được viết theo thể điệu bolero. Lúc sinh tiền, Osvaldo Farrés từng được mệnh danh là ông hoàng bolero, vì trong số hơn 300 ca khúc mà ông đã cống hiến cho đời, phần lớn là những tình khúc du dương ngọt ngào, muôn thuở dạt dào làn điệu bolero.
Sinh năm 1902 tại thị trấn Quemado de Guînes, thuộc tỉnh Las Villas, bây giờ được gọi là Villa Clara, Osvaldo Farrés từ thuở thiếu thời đã có năng khiếu hội họa. Ở trường lớp, cô giáo thấy Osvaldo có tài vẽ tranh nên mới khuyên cậu học trò lên thủ đô để tầm sư học đạo. Sau cấp trung học, ông cùng với gia đình dọn nhà về thủ đô La Havana.
Theo lời khuyên của bố mẹ, ông chủ yếu học vẽ để kiếm sống và tự học đàn trong những lúc nhàn rỗi. Trước khi nổi danh là một tác giả, Osvaldo Farrés thời thanh niên đã làm đủ mọi nghề để kiếm sống : đạp xe đi giao hàng, họa sĩ vẽ tranh phong cảnh, nhân viên quầy ngân hàng, thợ lắp ráp cửa sổ, thợ chế tạo lò xo trong các xưởng sản xuất ghế nệm. Cái nghề ổn định duy nhất gần với những gì ông đã học, là nghề vẽ bích chương cho một công ty quảng cáo.
Hồi tưởng lại giai đoạn này, Osvaldo Farrés nói rằng : Ông chưa bao giờ nghĩ tới chuyện trở thành một nhà soạn nhạc, huống chi tưởng tượng rằng một ngày nào đó, ông có thể hái ra tiền, có được một cuộc sống sung túc dư giả, chỉ nhờ thành công trong sự nghiệp sáng tác. Điều đó giải thích vì sao tác giả người Cuba này nổi danh trễ hơn so với các đồng nghiệp cùng trang lứa.
Vận may đến với Osvaldo Farrés vào năm 1937, lúc đó ông đã ngoài 35 tuổi. Vào thời ấy, một hiệu bia nổi tiếng cần một đoạn nhạc để làm quảng cáo trên đài phát thanh thủ đô. Người vẽ bích chương quảng cáo không ai nào khác ngoài Osvaldo Farrés, cho nên ông mới đề nghị công ty nhà sử dụng một khúc nhạc của ông để làm nhạc hiệu quảng cáo. Bản nhạc Mis Cinco Hijos, soạn theo nhịp điệu guajira, một thể loại dân ca miền đông Cuba, trở nên ăn khách nhờ được phát sóng nhiều lần trên đài phát thanh thủ đô.
Cũng từ đó mà cái tài soạn giai điệu của nhạc sĩ Osvaldo Farrés lọt vào tai của các nhà sản xuất. Từ đầu những năm 1940 trở đi, ông bắt đầu nổi danh nhờ sáng tác nhiều ca khúc cho giới nghệ sĩ tên tuổi. Tiêu biểu nhất cho giai đoạn này có bài Acércate Más, cũng là một bản nhạc nổi tiếng ở châu Mỹ La Tinh.
Sông có khúc, người có lúc. Năm 1943, tức cách đây đúng 70 năm, là thời điểm định mệnh của một sự nghiệp sáng tác. Vào thời đó, nhà soạn nhạc Osvaldo Farrés chấp bút viết bài Toda Una Vida (Trọn một đời người), một trong những bài kinh điển nhất của dòng nhạc bolero.
Theo nhà nghiên cứu âm nhạc Cristóbal Díaz Ayala, tuy Osvaldo Farrés không được đào tạo bài bản, không tinh thông nhạc lý, tức là ông không biết đọc và ghi chép nốt nhạc, nhưng ngược lại ông có một lỗ tai khác thường. Ông sáng tác bằng cách mò mẫm, ngân nga một giai điệu, để rồi thu vào máy ghi âm, nhờ người khác (thường là nhạc sĩ Fernando Mulens) có kiến thức âm nhạc, ghi chép lại từng nốt trên các bản dàn bè.
Osvaldo Farrés biến sở đoản thành sở trường : ca từ mộc mạc trong sáng thường được viết dưới dạng đối thoại trực tiếp, ông đặt mình vào tư thế của một người đàn ông tỏ tình vuốt ve, mơn trớn người yêu. Người khác sáng tác nhạc bolero bài bản cúng cụ. Osvaldo soạn ca khúc để đánh trúng tim đen người nghe. Ông nén từng câu, vuốt từng chữ như đang ôm ấp tình nhân. Cảm giác gần gũi càng hiệu quả khi người diễn đạt dùng cách hát thì thầm, thủ thỉ bên tai.
Guitar đệm hay quá
Nhờ vào sự thành công của nhạc phẩm Toda Una Vida (Trọn một đời người), mà Osvaldo Farrés trở thành tác giả độc quyền của đài phát thanh thủ đô La Havana thời bấy giờ. Từ phát thanh chuyển sang truyền hình, ông trở thành người điều khiển và dẫn dắt chương trình Bar Melódico de Osvaldo Farrés (hiểu theo nghĩa Quán nhạc du dương).
Chương trình này được phát sóng mỗi buổi tối thứ Tư hàng tuần, xen kẽ các tiết mục biểu diễn ca nhạc với các cuộc phỏng vấn giới văn nghệ sĩ trong nước cũng như ngoài nước. Trong vòng 13 năm liên tục, nhiều nghệ sĩ quốc tế tên tuổi như Josephine Baker, Sara Montiel, Nat King Cole hay Maurice Chevalier lần lượt trở thành khách mời của chương trình này.
Vào năm 1947, tác giả Osvaldo Farrés đạt đến đỉnh cao danh vọng với nhạc phẩm Quizás Quizás, cột mốc quan trọng thứ nhì trong sự nghiệp sáng tác của ông, sau nhạc phẩm Toda Una Vida. Bài hát chẳng những thành công ngay lập tức trong tiếng Tây Ban Nha mà còn thịnh hành nhờ phiên bản tiếng Anh Perhaps Perhaps Perhaps, do tác giả Joe Davis đặt lời.
Với thời gian, bản nhạc Quizás Quizás chẳng những được chuyển dịch sang hàng chục thứ tiếng kể cả tiếng Hindi, Ả Rập hay Do Thái, mà còn được phối theo nhiều thể điệu khác nhau : từ mambo đến cha cha, từ salsa đến flamenco. Người Cuba thì chủ yếu hát bài này trong điệu bolero : tiết tấu chậm rãi nhịp điệu khoan thai, phá cách theo lối thoát nhịp chứ ít có đảo phách, nhấn mạnh nhịp lẻ.
Đối với một người mà ban đầu không nghĩ rằng mình có thể sống nhờ sáng tác, một tác giả không ‘‘tinh thông’’ nhạc lý, Osvaldo Farrés lại trở thành một trong những bậc thầy của dòng nhạc bolero. Từ lúc thành danh đầu những năm 1940 cho tới lúc ông qua đời năm 1985, sau một thời gian dài sống lưu vong ở Mỹ, để chạy trốn chế độ Fidel Castro, Osvaldo Farrés vẫn được xem là tác giả người Cuba nổi tiếng nhất ở nước ngoài.
Từ nhạc phẩm Tres Palabras cho tới Quizás Quizás, từ Esta Noche o Nunca cho tới Dime Si Te vas Conmigo, tác giả Osvaldo Farrés sáng tác theo ngẫu hứng, theo linh cảm. Ông diễn đạt được cái tâm hồn La Tinh theo cách nhìn của riêng mình : tình yêu tựa như mùi hương, vô hình mà thực tại, ta có thể dùng bút vẽ để phác họa chân dung, dùng ngôn ngữ để mô tả hình hài, chứ tận đáy con tim không thể nào mà lý giải.
Tôi phải tự học tiếng La Tinh thôi. Ít ra là để phát âm tên nhạc sỹ và tên bài hát cho đúng mới được :).
Bạn hiền CKD tính chuyển nghề hay sao :( . Ca sĩ bây giờ dể kiếm tiền tỉ lắm mà ha . Ban đầu thì tên và bài hát, sau dần rồi lời nhạc và .. hát luôn bài nhạc đó.
Ngày xưa quen nhau anh nói rằng.... . He he, bài này nghe đã quá. Trong thời gian mới tập tửng đi uống cà phê của tuổi mới lớn, quán cà phê nào mà cho phát những bài nhạc thế này ( ở Đà Nẵng )thì chắc chắn ngồi GỒNG mình cũng phải ngồi. Rồi thì Tình sử, mấy con búp bê không tình yêu, love story, hai khía cạnh cuộc đời........ . Có quán thì nhạc hòa tấu, có quán thì nhạc có lời. Mê lắm mấy điệu nhạc này. Cho đến bây giờ vẫn còn mê. Trong tôi lại như có nhiều những kỉ niệm cho từng mỗi bài. Cứ thế mà mỗi lần nghe một bài nhạc thì y như rằng kỉ niệm ngày cơ hàn lại hiện về rất rỏ. Thời ấy mình cũng thường mang luôn rượu vào quán cà phê ngồi uống. Rượu được châm vào cái bình trà làm bằng nhôm, và rót vào ly nhỏ ( loại ly uống nước trà ). Túm tụm mấy thằng bạn thân cùng nhau nghe nhạc và uống rượu trong quán cà phê với dĩa mồi đậu phộng muối, ngắm em ngồi két tuy trẻ tuổi nhưng trang điểm xanh hồng cũng đẹp ra phết. Lại miên man về ngày xưa.
Nghe ông Tý nhắc những bài hát trên xem ra ông cũng đã già rồi có thể chưa đến đầu sáu nhưng chắc cũng đầu năm .Ông cũng thích Hai khía cạnh cuộc đời ? Hồi ấy tụi tôi sống vừa đẹp lại vừa buồn ,chiến tranh mà ông ,hôm nay ngồi với nhau mai đã đuợc tin nó mất ,yêu đuơng hay bè bạn lần gặp nhau nào cũng như là lần cuối .Mọi thứ đều xót xa hư ảo như cảnh vật nhìn qua lớp kính mờ ,tôi vốn ham chơi nên mười lăm muời sáu đã lê la vũ truờng đuợc các chị vũ nữ già dậy cho từng buớc nhảy ,từng cái đánh chân ,lắc tay sao cho điệu nghệ .Bằng tuổi nhau người ta còn e ấp lãng mạn mà tôi đã hoang phí đời mình chốn ham vui .Vì thế các ông tha lỗi khi tôi hay thích post nhạc có kèm nhảy nhót như để nhớ lại cái thời vũ điệu trong bóng mờ
Điệu sầu quán vắng
Trong số những bản nhạc Tây Ban Nha rất nổi tiếng, mà nhiều người La Tinh cứ nghĩ rằng nguyên tác là một bài ca Trung Mỹ, có bài Cantinero de Cuba, với giai điệu nồng thắm mặn mà, tiết tấu mềm mại lụa là. Tựa đề nguyên gốc khiến cho người ta tưởng lầm đây là một bản tình ca ra đời tại La Havana. Nhưng bài này được viết tại Sevilla, thủ phủ vùng Andalucia.
nhạc phẩm Cantinero de Cuba (tạm dịch là Điệu sầu quán vắng) đã ra đời vào năm 1964, tức cách đây gần đúng nửa thế kỷ, dưới ngòi bút của nhà soạn nhạc Manuel Pareja Obregón (1933- 1995). Ông sinh trưởng tại vùng Andalucia, trong một gia đình quý tộc, thuộc dòng dõi bá tước Tây Ban Nha.
Gia đình ông Manuel Pareja Obregón còn có dòng máu nghệ sĩ, thừa hưởng năng khiếu từ song thân và nhờ được sống trong môi trường nghệ thuật thuận lợi. Ngoài âm nhạc, ông còn học hội họa và điêu khắc, bắt đầu sáng tác từ năm lên mười. Đến khi qua đời ở độ tuổi ngoài 60, ông để lại một di sản đồ sộ, với gần ba ngàn tác phẩm đủ loại.
Tuy nổi tiếng là một bản bolero, nhưng trong nguyên tác, bài Cantinero de Cuba ban đầu được viết cho thể điệu changuí. Đây là một điệu nhạc truyền thống của Cuba, còn được gọi là dân ca miền đông (Oriente) và là tiền thân của thể điệu ‘‘son cubano’’ gồm bốn nhịp chắc, và thường đánh với nhạc cụ dân tộc vùng cao nguyên.
Một dàn nhạc changuí chỉ gồm có ba nhạc khí : Đầu tiên là đàn hộp marimbula, kế đến là đàn dây ba cặp gọi là tres, giống như ghi ta nhưng kích cỡ nhỏ hơn và sáu dây đàn được chia thành ba bộ riêng biệt, cuối cùng là bộ trống đôi bongo, một cặp gồm hai chiếc gắn liền với nhau.
Bải nhạc Cantinero de Cuba được viết theo ý tứ này, tác giả dựng lên bối cảnh của một quán vắng, nơi mà người đàn ông uống rượu giải sầu, nhưng càng uống bao nhiêu thì càng khổ bấy nhiêu. Cách đặt ca từ trong bài này rất khéo vì bài hát không một lần dùng nghịch dụ mà vẫn nói lên được nghịch lý tình yêu.
Nhân vật trong bài hát cố tình uống cho say, nhưng người hầu rượu (cantinero) càng rót, thì người uống càng chua xót. Uống để làm tê đi cơn đau nhức nhối, uống để quên hết những mất mát trong đời. Nhưng tất cả đều phản tác dụng : Say cũng không xong, uống cũng bằng thừa.
Âm thanh mượt trầm của cặp trống bongo rất tiêu biểu cho changuí. Các nghệ sĩ sau này chuyển thể điệu changuí thành điệu ''son cubano'' khi sử dụng thêm kèn đồng và trống thiết. Khi đánh theo điệu rumba hay bolero, các nhạc sĩ sử dụng trống đơn quinto nhiều hơn là trống đôi bongo.
Có người cho là khi sáng tác bài Cantinero de Cuba, nhà soạn nhạc Manuel Pareja Obregón đã vay mượn thủ pháp của bài Moliendo Café, do tác giả Hugo Blanco người Venezuala sáng tác vào năm 1958. Bài này sau đó chiếm hạng đầu thị trường Nam Mỹ và Nhật Bản vào năm 1961.
Ở đây, hình tượng cà phê xay nhuyễn thay thế cho rượu mạnh (aguardiente). Người đàn ông thất tình chán nản, dù không uống cà phê nhưng vẫn không sao tìm được giấc ngủ, cả đêm thức trắng nên phải ngồi dậy làm việc (xay cà phê) quần quật, dùng công việc chân tay để cho tâm trí không còn tưởng nhớ đến bóng hình người yêu.
Nhưng làm sao để quên những gì ta không quên được. Trí óc đi một đằng, con tim đi một nẻo. Bài Moliendo Café trở nên tiêu biểu cho nghịch lý tình yêu. Hai tác giả dù ở hai phương trời khác nhau nhưng vẫn có cùng ngẫu hứng đồng cảm trong cách đi tìm hình tượng. Rượu ru điệu sầu hoang vắng, cà phê say đêm thức trắng. Đằng sau nụ hôn tình nồng thường nấp bóng đam mê vết cắn. Thuốc độc dưới cái vỏ bọc ngọt ngào còn đáng sợ hơn cả mật đắng.
Bác Thợ đúng là Thất Thập Nhi Tùng Tâm Sở Dục Bất Du Củ, kiến văn quảng bác, từng trải sự đời. Nghe ông Tý miên man những bài hát mà đoán trúng phóc tuổi của ông. Lạ cái ông Tý này cứ bắt tôi kêu bằng anh mới chịu, kêu bằng chú ông la chết.
He he, bác Lâm đoán không sai tí nào. Em khâm phục bác thật rồi đây. Tính chối quanh chối co một hồi, không dè bạn hiền CKD của mình không hổ danh Thật Như Đếm khai luôn ra rồi làm mình không còn cửa.
Hồi đó cứ mỗi buổi tối mà được ngồi quán cà phê để nghe nhạc thì niềm hạnh phúc của tôi đây rồi. Lâu dần các bài nhạc ấy tự đi sâu vào đầu lúc nào không biết. Nhưng chung quy thì cứ như đi đêm chỉ hướng theo ánh sáng phía trước. Hôm nay đọc bài của bác Lâm viết về tác giả, xuất xứ, cấu tạo nội dung .v.v.. của mấy bài đó cảm thấy sướng thiệt. Như được thắp lên mấy bóng đèn.
Em rất thích lời của bài nhạc hai khía cạnh cuộc đời đó bác Lâm. Vào cái lúc mới lớn mà ngẫm lời bài này thì mới thấy rằng, ôi không có gì tuyệt đói.
Bạn hiền CKD gọi mình bằng chú thì mình sẽ thấy là già lắm lắm .
Truớc đây tôi không biết bài này tình cờ cuối tháng 6 năm ấy ngồi trong Latin Club chờ thằng bạn Venezuela tới uống một bữa từ biệt mai nó về xứ rồi biết bao giờ gặp lại .Hôm đó cũng buồn mới đầu còn kêu từng li otra vez riết rồi xách luôn cả chai Tequila uống cho đã ,bạn mình không đến cứ ngồi uống tì tì một mình ,quán vắng chỉ lác đác vài cặp .Ban nhạc sắp breaktime ,định bụng uống li cuối đi đái cái rồi về .Chợt có con bé ca sĩ ra hát bài này, vừa nghe câu đầu đã nổi da gà .Quái sao có bài hay thế nhỉ ? Sau này đuợc xem phim nữa thì chao ôi ! đúng là Tuyệt diệu hảo từ Phải tặng bài này cho Đại sư Huyền người trẻ mà rành nhạc số một trên đây
Trong số các bài bolero từng được chọn làm chủ đề nhạc phim, bài Piensa En Mi (Hãy nhớ đến ta) của tác giả người Mêhicô Agustín Lara có lẽ là bản nhạc quen thuộc nhất. Bài hát do tác giả Agustín Lara ghi âm lần đầu tiên vào năm 1937, nhưng không thành công vượt bực như mong đợi.
Mãi đến gần nửa thế kỷ sau, khi đến phiên Luz Casal ghi âm lại bài hát cho bộ phim của Almodovar, thì lúc đó bài Piensa En Mi mới phá kỷ lục số bán : 5 triệu đĩa đơn trong vòng 6 tháng. Piensa En Mi (Hãy nhớ đến ta) là ca khúc chủ đề của bộ phim Tacones Lejanos (Gót người xa vắng), phát hành vào tháng 10 năm 1991.
Theo lời kể của nhà đạo diễn Tây Ban Nha Pedro Almodovar, thì trước khi khởi quay, ông đã chọn sẵn những bài hát mà ông muốn đưa vào bộ phim, trong đó có bản bolero khá xưa đề tựa Piensa En Mi của tác giả Agustín Lara. Tuy nhiên, trong số những phiên bản ghi âm mà Almodovar có trong tay, không có bài nào thật sự làm cho ông vừa ý. Vì thế ông quyết định thực hiện một phiên bản mới, nhưng vẫn chưa biết là sẽ thu thanh với ca sĩ nào.
Sáu tháng trước ngày ra mắt cuộn phim, cả đoàn làm phim vẫn còn loay hoay trong giai đoạn tiền kỳ : tác phẩm vẫn chưa có tựa đề chính thức, kịch bản còn đang chỉnh sửa. Trong thành phần diễn viên, người duy nhất vừa được tuyển lựa là Marisa Paredes, nổi tiếng trong làng điện ảnh Tây Ban Nha từ giữa những năm 1970. Trong bộ phim sắp quay của Almodovar, bà thủ vai một ca sĩ ở độ tuổi tứ tuần.
Bà có một đứa con gái ruột (do Victoria Abril thủ diễn), nhưng thời còn trẻ, sự nghiệp sân khấu khiến cho bà có cuộc sống nay đây mai đó, không được gần gũi với con. Đứa bé vì thế cảm thấy bị bỏ rơi hất hủi, đến khi trưởng thành, cô gái có vẻ ghét người mẹ ruột nhiều hơn là thương.
Kỷ niệm thơ ấu duy nhất đọng lại trong tâm trí cô gái là tiếng động giữa đêm khuya của bà mẹ đi giầy cao gót. Ý tưởng này sau đó được thu gọn trong tựa đề chính thức của bộ phim là Gót người xa vắng (Tacones Lejanos). Quan hệ giữa hai mẹ con lại càng phức tạp hơn khi hai người đàn bà này cùng yêu một người đàn ông : tình nhân khi xưa của bà mẹ nay lại là người chồng của cô con gái. Đời lắm cảnh trớ trêu, tình cớ sao oan trái.
Mối tình tay ba dẫn đến án mạng. Cô con gái bị tình nghi là đã giết chồng nên bị bắt giam. Mặc cảm tội lỗi dày vò lương tâm ray rức trái tim bà mẹ. Khi bà bước lên sân khấu biểu diễn, bà hát bài Piensa En Mi, không phải cho khán giả, mà để gửi gấm những lời nhắn nhủ cho đứa con gái ở trong tù. Bà mẹ hát cho con tất cả những lời yêu thương, mà trong suốt cuộc đời bà chưa từng nói.
Khi viết kịch bản, đạo diễn Pedro Almodovar thừa hiểu đây là màn quan trọng nhất của bộ phim : nút thắt càng khó tháo gỡ càng tạo thêm sự hồi hộp căng thẳng khiến khán giả phải chú tâm theo dõi cho đến hồi kết. Bản nhạc Piensa En Mi vì thế mà trở nên mấu chốt. Đạo diễn Almodovar muốn tìm ra một giọng ca có đủ hai tiêu chuẩn cực kỳ quan trọng.
Thứ nhất là khả năng diễn đạt, để lột tả trọn vẹn ý tứ của bài Piensa En Mi trong bối cảnh cuộn phim, tức là con hãy nhớ mẹ, chứ không phải là đôi lứa nhớ nhau. Thứ nhì, giọng ca này phải gần giống với giọng nói bình thường của nữ diễn viên Marisa Paredes. Một sự khác biệt quá lớn giữa giọng ca thu âm và giọng nói của người diễn có nguy cơ làm cho cảnh quay mất sức thuyết phục.
Theo lời kể của đạo diễn Almodovar, ông mời Luz Casal hợp tác ghi âm ca khúc chủ đề bộ phim sau khi tình cờ khám phá giọng ca này trên đài truyền hình. Sở trường của Luz Casal là hát nhạc rock, với chất giọng trầm khàn theo phong cách của Joan Jett và Chrissie Hynde của nhóm Pretenders.
Nhiều người trong đoàn làm phim cho rằng cách hát nhạc rock của Luz Casal sẽ không hợp với các bản tình ca thâu cho bộ phim. Bản thân cô ca sĩ cũng rất ngạc nhiên khi được nhà đạo diễn mời ghi âm bản nhạc bolero Piensa En Mi.
Công việc thu đĩa diễn ra vào ngày 12 tháng Tư năm 1991 tại một phòng ghi âm thủ đô Madrid. Ngoài các kỹ thuật viên và nhà đạo diễn, còn có nữ diễn viên Marisa Paredes, bởi vì bà muốn gợi hứng từ cách hát của Luz, để tìm ra điệu bộ và phong cách diễn vai.
Ngược lại, Luz Casal thay đổi cách hát, từ lối nhã chữ cho đến cách đặt giọng ca làm sao cho mượt mà trầm ấm chứ không khô khan khàn đục, cách uốn giọng vẫn trở nên gai góc chai sạn khi cần, một lối diễn đạt chầm chậm mà vẫn thôi thúc mãnh lực nội tâm. Kết quả rất ấn tượng, đạo diễn Almodovar rất hài lòng sau buổi ghi âm.
Trong phiên bản Piensa En Mi của mình, Luz Casal có một cách hát bolero rất tinh tế, khá tân kỳ, khác với những gì ta thường nghe ở thể điệu này, một giọng ca nén từng câu, vuốt từng chữ mà mỗi từ vẫn đầy đặn cả độ dài lẫn âm sắc, cô không lạm dụng cách rung giọng, chỉ luyến láy khi cần thiết, tức là trong những đoạn lâm ly nhất. Người hát bolero khi lạm dụng vibrato, khiến cho nhịp điệu thêm nặng nề, lê thê.
Thường thì trong phim truyện, ca khúc hay nhạc nền được dùng để minh họa hình ảnh. Nơi đạo diễn Pedro Almodovar, bài hát được dùng để dẫn dắt câu chuyện, để phản ánh trạng thái hay nói lên diễn biến nội tâm của các nhân vật. Điều đó giải thích vì sao đạo diễn này thường hay chăm chút khâu âm nhac.
Ông thường chọn ca khúc trước khi quay phim, dòng nhạc La Tinh hay các ca khúc lãng mạn trữ tình thường gợi cho ông ý tưởng cảnh quay. Chính ông đã viết lời Tây Ban Nha cho bài Un Ano de Amor, trong nguyên tác là một ca khúc tiếng Pháp, bài C’est Irréparable của Nino Ferrer mà Dalida và Mina đều có ghi âm. Nhiều bản nhạc tình khác như bài Curucucu Paloma cũng được ông đưa vào các bộ phim sau đó.
Dựa vào ca khúc, đạo diễn Almodovar xây dựng cảnh quay. Màn biểu diễn của bà mẹ trên sân khấu mở đầu với lối quay toàn cảnh, chầm chậm từ xa rồi dần dần xích gần lại, xen kẻ hình ảnh của bà mẹ đang cất tiếng hát, dư âm vang vọng đến người con gái đang ngồi trong tù. Càng về sau, đạo diễn càng dùng nhiều hình tượng cận ảnh, vết son môi để minh họa cho nụ hôn tội lỗi, nước mắt xuất hiện trên bờ mi sau bao ngày dồn nén câm nín, để rồi đạt tới đỉnh cao, khi đẫm lệ tuôn trào, nhỏ giọt nức nở xuống sàn diễn nhẹ rơi.
Do khéo chọn lựa, nên phim và nhạc cộng hưởng với nhau để tạo thêm sức cuốn hút. Người xem có cảm tưởng bài hát Piensa En Mi đã được viết riêng cho bộ phim này : bản bolero vô cùng thích hợp, cảnh quay lại càng ăn khớp. Vào tháng 10 năm 1991, bộ phim Tacones Lejanos ra mắt khán giả.
Tác phẩm này sau đó rất ăn khách tại châu Âu và tại Nam Mỹ, đoạt giải César dành cho phim nước ngoài và nhận đề cử Quả cầu vàng. Nhờ bộ phim mà cả đạo diễn, lẫn diễn viên và ca sĩ đều có được một sự nghiệp quốc tế. Nhờ bộ phim mà người Mêhicô khám phá lại bài bolero Piensa En Mi của tác giả Agustín Lara.
Sinh thời, ông Agustín Lara đã viết hơn 700 ca khúc, trong đó có các bài rất nổi tiếng như Vera Cruz, Granada hay Solamente Una Vez, còn bài Piensa En Mi chỉ trở nên kinh điển từ đầu những năm 1990 trở đi. Bản bolero này có khúc đàn dạo đầu vươn vấn khiến tâm hồn ray rức bâng khuâng, lối thể hiện nhập tâm xuất thần khiến cảnh phim trở nên tột cùng gay cấn, giai điệu nghe biết bao lần mà vẫn cực kỳ mùi mẫn.
Lão ơi nhachoa sắp đánh dc bản rain rồi hehe, lão kiếm tiếp cho nhachoa hoa một bản nữa hay ngang ngửa và de như thế dc ko
Khúc đàn La Playa mang đậm ảnh hưởng của dòng nhạc La Tinh nhưng thật ra bản nhạc này lại do một nhà soạn nhạc người Bỉ tên là Jo Van Wetter viết vào năm 1963, tức cách đây vừa đúng nửa thế kỷ. Tác giả bài hát tên thật là Georges Joseph Van Wetter, sinh trưởng trong một gia đình gốc flamand, nhưng cha mẹ ông đến lập nghiệp tại vùng Wallonie chủ yếu nói tiếng Pháp ở Bỉ.
Tuy không xuất thân từ một gia đình có dòng máu nghệ sĩ, những từ thuở nhỏ ông đã có năng khiếu âm nhạc. Thời niên thiếu, dù chưa được đào tạo bài bản, nhưng Jo Van Wetter chịu khó tự học đàn. Ông tham gia vào khá nhiều ban nhạc trẻ chuyên đi diễn tại các liên hoan địa phương và chủ yếu chơi lại các ca khúc thịnh hành từ những năm 1940 đến thập niên 1950.
Đến khi trưởng thành, ông Jo Van Wetter dời nhà về thủ đô nước Bỉ, và bắt đầu học đàn ghi ta cổ điển tại Nhạc viện thành phố Bruxelles. Ông học cùng một lớp với tay đàn ghi ta Charles Danielli. Cả hai về sau này đều mở lớp dạy nhạc, trong số những học trò của họ có Philip Catherine, một trong những tay đàn ghi ta nhạc jazz lừng danh nhất nước Bỉ.
Công việc dạy đàn không đủ sống, cho nên Jo Van Wetter sau khi tốt nghiệp nhạc viện thủ đô, tham gia vào rất nhiều nhóm nhạc lớn nhỏ để kiếm tiền qua các vòng lưu diễn tại các quán nhạc hay vũ trường. Trong nhiều năm liền, ông chủ yếu đi biểu diễn với các dàn nhạc hoà tấu dưới sự điều khiển của Jean Omer và nhất là của nhạc trưởng Henri Segers. Bên cạnh đó, ông cũng thường xuyên xuất hiện trong khá nhiều dự án ghi âm của giới nghệ sĩ trẻ thời bấy giờ như Frédéric Rottier hay ban nhạc The Cousins.
Năm 1963, một trong những album ăn khách nhất thị trường quốc tế là tập nhạc cover của nữ danh ca người Mỹ Julie London, qua đó cô ghi âm lại hầu hết các bản nhạc tình La Tinh kinh điển phối theo điệu cool jazz. Khi được nghe album này, Jo Van Wetter mới ngẫu hứng sáng tác khúc đàn mà ông đặt tên là La Playa. Khúc nhạc này trở nên thịnh hành nhờ các bản hòa tấu, song tấu hay độc tấu Tây Ban Cầm (chẳng hạn như phiên bản của Claude Ciari).
Lúc đầu, ông định soạn khúc đàn này theo thể điệu bossa nova (ra đời vào năm 1958), vào lúc mà phong trào này đang trở nên cực thịnh tại các nước Âu Mỹ, sau thành công ngoạn mục của bài Manha de Carnaval, ca khúc chủ đề của bộ phim Orfeu Negro. Rốt cuộc, ông lại phối theo nhịp điệu rumba, nhưng với lối chơi đàn ghi ta thùng rất mộc, chứ không phối với một dàn nhạc theo kiểu nhạc khiêu vũ hay theo phong cách easy listening.
Tác giả người Pháp Pierre Barouh, nghe được khúc đàn La Playa khi anh vừa từ Brazil trở về Paris. Pierre Barouh là người sáng tác sau này nhạc phẩm Samba Sarava (1966) và hát ca khúc chủ đề của bộ phim Un Homme et Une Femme (Câu chuyện một người đàn ông và một người đàn bà) của đạo diễn Claude Lelouch, mà hầu hết mọi người chỉ nhớ mang máng câu hát mở đầu. Cảm thấy hứng thú, Pierre Barouh mới đặt lời ca tiếng Pháp cho giai điệu. Khúc đàn trở thành một bài hát và được ca sĩ Marie Laforêt ghi âm vào năm 1964.
Sau thành công của ca khúc tiếng Pháp, nhiều phiên bản chuyển dịch khác lần lượt ra đời, kể cả tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Còn trong tiếng Việt, bài La Playa có ít nhất hai lời. Bài này từng được tác giả Phạm Duy phóng tác thành nhạc phẩm Dòng sông quê cũ do nhiều nghệ sĩ như Ngọc Lan, Kiều Nga hay Thanh Lan ghi âm lại. Lời Việt thứ nhì, theo một số nguồn ghi chú, là của tác giả David Hà, có tựa đề là Biển vắng Thiên đàng.
Bài hát La Playa ăn khách đến nỗi người Brazil nghĩ rằng ca khúc A Praia bằng tiếng Bồ Đào Nha là một giai điệu của xứ họ. Còn tại Puerto Rico hay Nam Mỹ, không ai tin rằng La Playa trong nguyên tác là một khúc đàn của một tác giả người Bỉ gốc Hà Lan. Theo dòng đời năm tháng, tay đàn Jo Van Wetter đã chìm dần vào quên lãng nhưng khúc nhạc dịu dàng mà ông đã soạn lại trở nên bất hủ, vượt thời gian.
Cha này soạn cũng được thôi không hay lắm nhưng dễ đánh
http://htmlimg3.scribdassets.com/n2f...cce8053e8c.jpg
http://htmlimg2.scribdassets.com/b1w...a8de75459f.jpg
con bé này chơi thường thôi nhưng để cậu tập .Chiều cậu lắm mới đi kiếm những thứ này chứ tôi lâu lắm rồi không chơi
Quán cà phê là đây rồi. Những bàn nhạc hay cũng ở đây. Với những bản nhạc thế này đã gợi nhớ về một thời tuổi trẻ.
Cái tuổi mới lớn với những ngày tháng đóng đô ở quán 333 đường Hoàng Diệu. Đứa thì xe, đứa thì vấn, những điếu thuốc bốc mùi tỏa ra. Và sau đó là tiếng nhạc như ngấm vào tận xương tủy.
He he, đã quá. Phải như vậy mới đã. Để nghe bài nhạc với tất cả các nhạc cụ đang chơi. Mà phải cùng một lần nghe tất cả. Tiếng bụp bụp hay tiếng chju..ụp chji..ì, láy luyến của nhạc công, rồi giọng ca... . Nghe luôn cả tiếng quậy cà phê của bàn bên cạnh và họ đang nói chuyên gì nữa. Đôi mắt thì nhắm nghiền hoặc đang lơ đảng nhìn lên cái loa trên tường. Bộ thần kinh nghe lúc này như đang làm việc hết công suất. Không một ai trong đám muốn nói gì. Chỉ cần ly nước trà và vài hạt lạt rang là đủ lắm rồi. Cứ thế hết bài này đến bài khác. Và đêm này mới là đêm thưởng thức nhạc tuyệt vời nhất của đời người. Đôi khi nhớ lại mới cảm thấy sao thời ấy mình hư thế nhỉ.:tea
Ông Tý cũng rất đam mê,cái đam mê phải ở trong thế hệ đó mới hiểu đuợc ,tương lai là zero chỉ còn âm nhạc cứu mình qua những năm tháng thoi thóp buồn đến kinh người .Ngày ấy nghe ABBA ,Boney M ,Carpenter cứ ao uớc về một vùng trời mơ uớc .Có những buổi sáng ngồi quán đến trưa mỗi lần chuyện trò hứng thú là lại thét gọi bình trà uống đến căng bụng rồi đi đái xoành xoạch ,chỉ khổ chủ quán ,bất mãn quá mà không dám nói
Nghe bài này hồi đó tôi cứ muốn khóc ,bạn bè , người tình chỉ mới vài tháng truớc đó thôi mà đã xa như nghìn năm
Cho đến một đêm tối trời như một con chuột lặng lẽ băng qua đuờng không hề biết đến cái gì sắp xảy ra .Tôi lái cái ghe nuớc nhỏ xíu mang theo vài thằng bạn ráp nối với ghe lớn ở cửa biển .Thế là
Mọi kỉ niệm đã bỏ lại sau lưng ,đến nơi xa lạ lạc lõng như thằng nhỏ này ,nhưng đời sống tuyệt vời quá đến bây giờ mình cũng còn tri ân .Rốt cuộc tôi học đuợc một điều .Cứ cố gắng chịu đựng rồi sự đau khổ có lúc sẽ nở hoa
Quả không sai bác ạ. Phải có cái thời đam mê ấy. Đã qua rồi, nhưng mãi mãi không bao giờ phai, nơi tâm tưởng.
Hồi ấy nhạc của thế hệ 60, 70 rất nhẹ nhàng. Rồi thì 80, với video nhạc. Mê lắm. Tiếc là thằng em không biết nhiều về về ngoại ngữ. Bà chị nói rằng: mầy phải hiểu ngoại ngử thì mới thấy bài nhạc hay thế nào. Chị có học ngoại ngữ, còn em thì biết có chú xíu thôi. Đành chiụ vậy. Nhắc tới ngoai ngữ có ngôi thứ ba. Có câu hỏi đặt ra là: tiếng việt ngôi thứ hai ví dụ là anh, vậy thì ngôi thứ ba tiếng việt gọi là gì ?.
Ngày ấy có những câu đố ở quán cà phê rất vui. Có câu đố: làm sao với một ngón tay để đưa cái cái ruột hộp quẹt từ bàn này qua bàn kia. Hay là làm sao lấy tờ giấy của gói thuốc để dưới ly nước ra mà không đụng tới cái ly. vv.. . Lại nhớ đến ngày xưa rồi. Lại còn người xưa nữa....
Và The Eagles với bài nhạc mà hầu như chúng ta ai cũng phải gật gù mỗi khi được nghe.
http://www.dailymotion.com/video/x851ft_the-eagles-hotel-california-live-in_news
Có một điều lạ không hiểu tai sao? . Là cứ mỗi khi nghe nhạc qua radio lại thấy có vẻ như hay hơn, kh bài nhạc đó mình đã quá quen thuộc.
Hic, không thể nhập nhiều nhạc như bác được nên thằng em đành gởi từng bản một.
http://www.youtube.com/watch?v=XpqqjU7u5Yc
Nhớ lại ngày xưa chúng ta có ca sĩ Cao Lâm với giong ca khàn cao như thế này. Nhưng chỉ xuất hiện một thời gian ngắn.
http://www.youtube.com/watch?v=nREV8bQJ1MA
Các ông nghe nhạc đã nhiều giờ đến lúc phải nghe Pháp
Có nhiều truyền thuyết giải thích tại sao núi Linh Thứu còn có tên là “đỉnh kên kên”. Có thuyết cho rằng tôn giả A-nan, một vị học trò thân cận của Phật, trong lúc thiền định trong động đá bị ma quỷ hiện thành chim kên kên dọa nạt. Tôi không hiểu nếu hiện hình con gì thì còn có người sợ chứ chim thì mấy ai sợ. Lại có người cho rằng nơi đây chim kên kên hay đến làm tổ. Cũng có kẻ nói rằng đá núi nơi đây có hình chim kên kên, thuyết này xem ra đứng vững hơn cả.
Như ta đã biết, trong hơn bốn mươi năm giáo hóa, Đức Thích-ca đã giảng nhiều bài kinh quan trọng tại Linh Thứu. Cuối đời mình, nơi đây Ngài đã dùng Báo thân để giảng bộ kinh Diệu pháp liên hoa cho thiên nhân cũng như loài người, bộ kinh Đại Thừa nổi tiếng mà Phật tử Việt Nam hay gọi là kinh Pháp Hoa.
Cũng trên đỉnh Linh Thứu này, ngày nọ, Đức Thích-ca không nói gì, lẳng lặng đưa một cành hoa lên cao. Hội chúng chẳng ai hiểu gì cả, chỉ có một đại đệ tử của ngài là Đại Ca-diếp mỉm cười, cũng chẳng nói năng gì. Hành động “niêm hoa vi tiếu” này là đầu nguồn của Thiền tông, một tông phái chủ trương “tâm truyền tâm”, đạt giác ngộ không cần và không thể sử dụng ngôn ngữ văn tự mà dùng tuệ giác vốn có sẵn nơi tâm mà tiếp cận với thực tại. Linh Thứu là quê hương của Thiền tông, đây cũng là suối nguồn của nhiều tông phái quan trọng khác. Đại Ca-diếp được xem như Tổ thứ nhất của Thiền tông Ấn Độ. Về sau Đại Ca-diếp truyền cho A-nan, rồi cứ thế mà dòng truyền thừa Thiền tông tiếp diễn liên tục đến gần ba mươi đời sau, trong đó có Long Thụ là truyền nhân đời thứ 14 mà ta đã biết.
Khoảng tám trăm năm sau khi Đức Thích-ca nhập diệt có một kẻ lữ hành từ Trung Quốc đến thăm Linh Thứu. Người đó là một vị tăng sĩ, tên gọi là Pháp Hiển, sinh khoảng cuối thế kỷ thứ tư. Năm 399, Pháp Hiển lên đường thăm Ấn Độ, thăm các thánh tích quan trọng của Đức Thích-ca và mười lăm năm sau mới về nước, mang theo vô số kinh điển. Theo tập ký sự còn lưu lại, Pháp Hiển mang nhang đèn đến Linh Thứu, vừa dâng hương, “đèn tự cháy sáng”. Pháp Hiển, “buồn đến phát khóc”, ở lại trong núi một đêm và tụng đọc kinh Lăng Nghiêm để nhớ lại vị đạo sư đã giảng kinh này tại đây.
Sau Pháp Hiển hơn hai trăm năm, một đại sư Trung Quốc lừng danh khác là Huyền Trang, biệt danh Đường Tam Tạng cũng đến chiêm bái Linh Thứu. Trên đỉnh núi Linh Thứu ngày nay còn một nền đá ghi lại ngày xưa Đức Thích-ca đã trú nơi đây và ngàn năm sau Huyền Trang đã nghỉ lại qua đêm. Vị tăng sĩ Việt Nam đầu tiên đi Linh Thứu có lẽ là Đại Thặng Thăng, sinh trong thế kỷ thứ bảy. Đại Thặng Thăng với ba vị tăng sĩ Việt Nam khác cùng đi với nhà sư Trung Quốc Nghĩa Tịnh (635-713) bằng đường biển đến Ấn Độ, đến tham bái Linh Thứu và các thánh tích khác, cuối cùng chẳng may bỏ mình tại xứ người.
Không phải chỉ có lữ khách từ xa đến Ấn Độ, ngược lại tăng sĩ Ấn Độ đi các nước khác cũng rất nhiều mà con người đầy huyền thoại nhất thời đó là một tăng sĩ mặt đen, râu rậm, tướng mạo như một võ sư. Đó là Bồ-đề Đạt-ma, có lẽ sinh năm 470. Bồ-đề Đạt-ma chính là truyền nhân đời thứ 28 và là đời cuối cùng của Thiền tông Ấn Độ, bắt đầu với Đại Ca-diếp và A-nan. Năm 520 Bồ-đề Đạt-ma lên đường đi Trung Quốc bằng đường biển, theo một tài liệu thì có ghé Việt Nam trước khi đến Nam Kinh gặp nhà vua Trung Quốc Lương Vũ Đế. Gặp Vũ Đế, Bồ-đề Đạt-ma khai thị yếu tính Thiền tông rất rõ ràng nhưng vua không lĩnh hội vì lòng còn bị các quan niệm thiện ác, tốt xấu chi phối. Bồ-đề Đạt-ma thấy cơ duyên chưa tới, đi về hướng Bắc Trung Quốc, vượt sông Trường Giang đến Lạc Dương, lên núi Tung sơn, ở chùa Thiếu Lâm, chín năm tọa thiền quay mặt vào vách.
Tưởng Thiền tông như thế là đứt đoạn, tổ Thiền thứ 28 đã rời Ấn Độ đi Trung Quốc, ở Trung Quốc thì quay mặt vào vách không nói năng gì. Nhưng không phải, trong một ngày đầy tuyết nọ, có người rút dao tự chặt cánh tay tỏ lòng thành khẩn, xin Bồ-đề Đạt-ma khai thị. Người đó là Huệ Khả (487-593). Chỉ nghe một câu “an tâm”, Huệ Khả đại ngộ, trở thành truyền nhân của Bồ-đề Đạt-ma, đời sau gọi là nhị tổ của Thiền tông Trung Quốc. Huệ Khả truyền cho Tăng Xán, vị tam tổ này sinh ra lúc nào không rõ chỉ biết tịch năm 606. Tăng Xán sau đó truyền cho Đạo Tín (580-651), rồi vị này truyền lại cho Hoằng Nhẫn (601-674).
Các vị truyền nhân này đều sống một cuộc đời kỳ dị, giác ngộ qua những câu vấn đáp xem ra ngớ ngẩn, mỗi người mỗi khác nhưng giống nhau ở chỗ lấy “tâm truyền tâm, thấy tánh thành Phật” làm gốc. Đến đời thứ sáu, với Lục tổ Huệ Năng (638-713) thì tính cách “bất lập văn tự” mới đạt tột đỉnh vì Huệ Năng mới đầu chỉ là một anh chàng tiều phu mù chữ. Về sau, Huệ Năng không có truyền nhân chính thức, thiền Trung Quốc được xem là có sáu vị tổ, như thiền Ấn Độ có 28 vị. Thế nhưng Huệ Năng là người khai sáng Thiền Trung Quốc rực rỡ hơn ai hết, để lại cho hậu thế vô số thiền sư xuất chúng và một dòng truyền thừa mãnh liệt đến thế kỷ thứ 11 và cả đến ngày nay.
Thiền tông không dừng ở Trung Quốc. Tổ thứ ba Tăng Xán vốn có ít học trò, trong đó có một vị tên là Tì-ni-đa Lưu-chi [38]. Vị này sinh năm nào không rõ, chỉ biết tịch năm 594. Sau khi ngộ pháp xong, Tì-ni-đa Lưu-chi đi về phương Nam, đến Giao Chỉ, ngụ ở chùa Dâu ngày nay, thuộc tỉnh Hà Bắc Việt Nam. Tại đây Tì-ni-đa Lưu-chi khai sáng dòng Thiền Việt Nam, truyền 19 đời, đến thế kỷ thứ 13, có ảnh hưởng mạnh lên đến các vua thời Lý.
Song song, trong số học trò sau mấy đời của Huệ Năng có một vị nói năng rất ít, được gọi tên là Vô Ngôn Thông. Năm 820, Vô Ngôn Thông về phương nam đến tỉnh Bắc Ninh Việt Nam ngày nay, khai sáng một dòng Thiền mới, truyền 17 đời, cũng đến thế kỷ thứ 13.
Trong thế kỷ thứ 11 một vị thiền sư Trung Quốc tên gọi là Thảo Đường, không rõ vì duyên cớ gì đi lưu lạc tận Chiêm Thành. Thảo Đường bị vua Việt Nam là Lý Thánh Tông bắt làm tù binh trong một trận chinh phạt nước này năm 1069. May thay cho Thảo Đường, Lý Thánh Tông là một nhà vua trọng đạo lý. Biết Thảo Đường là môn đệ của thiền sư Tuyết Đậu Trùng Hiển, Lý Thánh Tông phong làm Quốc Sư, tự nhận mình làm học trò. Cũng lại là một điều mà chỉ ngày xưa mới có. Sau đó, Thảo Đường khai sáng dòng Thiền thứ ba của Việt Nam, truyền được sáu đời, kéo dài đến cuối nhà Lý.
Khác với Thiền Trung Quốc chia thành “ngũ gia thất tông”, hầu như ba thiền phái Việt Nam chỉ đợi ngày hợp nhất. Qua đầu thế kỷ thứ 13, ba dòng Tì-ni-đa Lưu-chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường nhập lại một dòng duy nhất. Không rõ cơ duyên nào mà lịch sử Việt Nam lại sản sinh nhiều nhân vật lỗi lạc trong các thế kỷ 12,13 của đời Lý Trần. Dưới ảnh hưởng của Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ, ba dòng Thiền đó tập hợp thành một, xuất phát từ núi Yên Tử, hiện nay thuộc tỉnh Quảng Ninh, gọi là phái Thiền Yên Tử. Tại Việt Nam núi Yên Tử trở thành đỉnh cao vòi vọi của một dòng Thiền vừa rất quí tộc vừa rất nghệ sĩ.
Giữa thế kỷ thứ 13, một nhân vật kiệt xuất ra đời, đó là Trần Nhân Tông (1258-1308). Vừa làm vua chăm lo bảo vệ bờ cõi, vừa là thiền sư đạt đạo, Trần Nhân Tông trở thành tổ thứ sáu của dòng Thiền Yên Tử. Nhưng vì nhân cách của Trần Nhân Tông quá rực rỡ, đời sau tôn ông làm sư tổ, lấy hiệu Trúc Lâm của ông đạt tên làm phái Thiền Trúc Lâm, một dòng Thiền có tính nhập thế. Năm 1304, Trần Nhân Tông đích thân đi cả nước tìm truyền nhân, gặp ngay một thiếu niên “có đạo nhãn”, liền truyền pháp cho, người đó là Pháp Loa (1284-1330), tổ thứ hai của Trúc Lâm.
Đến năm 23 tuổi, Pháp Loa gặp một nhân vật kỳ dị, lúc đó đã 51 tuổi, tên gọi là Huyền Quang. Huyền sử chép rằng, mẹ của Huyền Quang là Lê Thị, ba mươi tuổi mà chưa có con, hay đến chùa cầu nguyện. Đầu năm 1254, trụ trì chùa là sư Tuệ Nghĩa mơ thấy trong chùa “đèn đuốc sáng choang, Đức Thích-ca chỉ tôn giả A-nan mà bảo, ngươi hãy tái sinh làm pháp khí Đông Độ và nhớ lại duyên xưa”. Năm đó Lê Thị sinh Huyền Quang. Gặp Pháp Loa, Huyền Quang tôn làm thầy mặc dù thầy trẻ hơn mình gần ba mươi tuổi.
“Duyên xưa” là duyên gì? Đông Độ Việt Nam thật ra là có duyên với đạo Phật, Việt Nam đến với đạo Phật sớm hơn cả Trung Quốc. Trong thế kỷ thứ nhất sau công nguyên, tại Việt Nam đã hình thành một trung tâm đạo Phật là Luy Lâu, thuộc Bắc Ninh ngày nay. Luy Lâu phát triển song song với hai trung tâm của Trung Quốc là Lạc Dương và Bình Thành [39]. Thiền Việt Nam đã xuất phát cả trước khi Bồ-đề Đạt-ma đến Trung Quốc. Trong thế kỷ thứ ba, tăng sĩ Khương Tăng Hội người Giao Chỉ đã viết luận giải về Đại Thừa và Thiền tông cho nên nhiều người cho rằng Khương Tăng Hội chính là người sáng lập Thiền Việt Nam, không phải đợi đến lúc Thiền Trung Quốc du nhập.
Người đời sau tôn ba vị Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang là “tam tổ” Thiền Việt Nam, xứng danh ngang hàng với sáu vị Tổ Thiền Trung Quốc và 28 vị Tổ Thiền Ấn Độ. Núi Yên Tử của Việt Nam, Tung sơn của Trung Quốc và Linh Thứu của Ấn Độ là nơi sản sinh các dòng Thiền đó.
Suốt bảy thế kỷ sau Trần Nhân Tông, trong vô số những người đã đến thăm Linh Thứu, có một đứa con cháu lạc loài của ông đứng ngẩn ngơ trên núi chiều nay. Ôi, con người đích thực của bao vị thánh nhân hầu như chìm trong bóng tối của lịch sử. Thường người ta chỉ biết Trần Nhân Tông là một nhà vua giỏi bảo vệ bờ cõi, nào ngờ là một đại sư đạt đạo mà học thuật và nhân cách của ông đã truyền thừa cho các thế hệ đến ngày nay.
Tưởng Huyền Trang chỉ là một nhân vật huyền thoại, sư phụ hiền lành của Tôn Hành Giả, nào ngờ là một nhà dịch kinh tác tuyệt về văn chương và nội dung, sáng lập cả một tông phái đại thừa tại Trung Quốc. Tưởng Bồ-đề Đạt-ma chỉ là tổ sư võ công Thiếu Lâm, nào ngờ là kẻ đã khai sáng Thiền tông miền Đông Á, mở đường cho vô số người cầu hiểu biết. Tưởng Đức Thích-ca là một ông bụt hoang đường, nào ngờ là một con người từng sống, từng hoạt động, từng chết trên trái đất này.
Rời Linh Thứu với lòng u hoài chiều hôm đó, tôi chỉ có thể nhắc lại đây lời của Schumann: “Chuyến hành trình theo dấu chân Đức Phật là một niềm vui, đồng thời là một cảm hoài xao xuyến, vì phần lớn các nơi Ngài đã đặt chân đến, ngày nay người ta chỉ còn tìm thấy sự đổ nát và hiu quạnh. Nhưng tính vô thường của vạn sự há chẳng phải là thông điệp của Ngài ư? Ngài chẳng đã nói rằng Pháp sẽ có ngày bị quên lãng, nhưng sẽ được khám phá lại một cách mới mẻ ư? Có thể Ấn Độ đã quên người con trai vĩ đại của mình, nhưng tại các nơi khác ở châu Á, mà cũng trong các tâm hồn tại châu Âu và Mỹ, thì thông điệp của Ngài vẫn còn sinh động. Chúng ta hãy mừng vui rằng, có một đầu óc ưu việt đã thấu hiểu cái Khổ và nguyên nhân của nó và đã chỉ rõ cách giải thoát nó nằm ngay nơi chúng ta”.
Tôi vẫn muốn một ngày nào đó đến Cuba ,hiện nay hơi khó vì thủ tục còn căng .Đến đây không phải để chiêm ngưỡng cái đất nuớc nghèo khó khốn khổ này mà chính vì con người nơi đó ,mỗi người dân là một nghệ sĩ .Họ chơi đùa hòa nhạc với nhau tự nhiên như hơi thở .Ca sĩ có thể là một bà già răng đã sún hết Những người thợ sửa xe , chặt mía ,họ là những nhạc công chơi trompet , contrebass, guitar điêu luyện .quyện vào nhau đầy đam mê sôi nổi ,đôi mắt đau khổ của người phụ nữ từ đó ứa ra những giọt lệ đen như lời bài hát
Bản này mà chơi piano hòa chung với dàn nhạc thì hết ý
Có bài thơ hay và lạ ,ông nào thuở trẻ thầm yêu trộm nhớ ,rụt rè không đến đuợc với nhau chắc sẽ thấm
“Chẳng có khoảng cách nào giữa các vì sao mà ánh sáng kia không tới.
Nhiều vô cùng gần lại trong tầm tay
Nhà thiên văn có thư*ớc đo cực tiểu
Để đi hết không gian
chiều rộng
chiều dài!
Nh*ưng em!
Chẳng ở đâu trong thiên thể.
Chỉ cách anh lối phố, con đường.
Thế mà anh chưa một lần đến được.
Dù tốc độ trái tim nhanh hơn ánh sáng hàng tỷ năm!
Thế mới biết,
Tình anh chỉ là thoáng chốc
Trước tình em
vĩnh viễn thời gian!
Dễ dàng chi trong đời đi hết?
Khoảng cách
Từ trái tim người
đến trái tim tôi!”
Thơ của Đỗ Hoàng
Tuổi trẻ ( nhất là các ANH )chắc hẳn ai cũng có ít là một vài mối tình rụt rè. Tôi thì hồi đó là năm hoc lớp tám. Đã sơ ý yêu một em học lớp sáu. Hic. Ẻm là con của bạn Mẹ tôi. Năm ấy tôi đi bộ qua cầu Mới ( sông Hương ) mỗi ngày , học sinh trường Hàm Nghi. Em thì đi bộ ngược chiều, học sinh Đồng Khánh. Và cứ mỗi lần đi ngang qua là trao nhau một nụ cười. Đi một đoạn thì quay lại nhìn nhau. Cứ thế cho hết niên học. Năm sau tôi đổi vào trường Phan Chu Trinh Đà Nẵng. Không kịp ( hay không dám ?) nói lên lời tạm biệt. Và cũng từ đó tôi xa em.
Bác Lâm đăng bài thơ này, em nhớ lại đôi mắt người xưa quá.:buon
À, bác Lâm cho em hỏi, tháng 12 này bác có ở thành phố ngày nào không? Nếu có thì em xin gởi bác chút quà đặc sản. Nhìn chung là ăn được ( không cao đường hay cao mở ). Của ít lòng không ít, hy vọng bác không chê.
Tôi đang cố thu xếp anh Tý hehe về thì phải có cái La coste xịn cho anh chứ để chúng nó gạt anh mặc áo giả hoài hehe
Dạ em xin cám ơn bác trước. Bác cho em thì em ,xin bác vậy. Lacoste Polo cũng là hàng xịn. Mình không có hàng thiệt xài, đi xài hàng dỏm bị các anh các bác cười cho thì phải :( ráng chịu chứ không phàn nàn trách ai :D . Giá một con sấu Polo tại Mỹ chí ít cũng tầm trong ngoài trăm đô. Lúc xài nó em thấy tiếc tiếc thế nào ấy bác ơi. Có chăng là xài nó để đi tiệc, lại sợ ăn uống vương vải vào cái áo thì lòng đau như cắt. Thôi thì xài đại mấy con sấu copy cho đở tủi. Mà em nghĩ cũng lạ nhe bác. Mấy con sấu của em là hàng châu âu cầm tay, còn bình nước thơm là hàng Maycy's chính hiệu ( mua tại Maycy's Phoenix ). Vậy mà cũng bị lầm thì thiệt là.. .
Tháng 12 năm nay nếu bác về thì bác cho em xin vài trăm gram date palm của Phoenix hay califonia là được rồi bác. Có dịp em sẽ mời bác loại date palm made in Iran để so sánh coi. Hôm trước em đi Phoenix nhưng chưa có dịp thưởng thức qua. Em dự định tháng sau đi thành phố một chuyến, sẽ ới bạn hiền CKD làm một chầu. Nếu có dịp gặp được bác một lần thì tốt quá cho em rồi đó.
Dạ em xin cám ơn bác trước. Bác cho em thì em xin bác vậy. Lacoste Polo cũng là hàng xịn. Mình không có hàng thiệt xài, đi xài hàng dỏm bị các anh các bác cười cho thì phải :( ráng chịu chứ không phàn nàn trách ai :D . Giá một con sấu Polo tại Mỹ chí ít cũng tầm trong ngoài trăm đô. Lúc xài nó em thấy tiếc tiếc thế nào ấy bác ơi. Có chăng là xài nó để đi tiệc, lại sợ ăn uống vương vải vào cái áo thì lòng đau như cắt. Thôi thì xài đại mấy con sấu copy cho đở tủi. Mà em nghĩ cũng lạ nhe bác. Mấy con sấu của em là hàng châu âu cầm tay, còn bình nước thơm là hàng Maycy's chính hiệu ( mua tại Maycy's Phoenix ). Vậy mà cũng bị lầm thì thiệt là.. .
Tháng 12 năm nay nếu bác về thì bác cho em xin vài trăm gram date palm của Phoenix hay Califonia là được rồi bác. Có dịp em sẽ mời bác loại date palm made in Iran để so sánh coi. Hôm trước em đi Phoenix nhưng chưa có dịp thưởng thức qua. Em dự định tháng sau đi thành phố một chuyến, sẽ ới bạn hiền CKD làm một chầu. Nếu có dịp gặp được bác một lần thì tốt quá cho em rồi đó.
Hehe cõi đời này chân giả khó lường hơi đâu mà quan tâm anh Tý .Cái thân này cũng còn là giả thì quần áo hay nuớc thơm nào là thật ? .Ông hỏi tôi rượu tôi còn biết chứ date palm thì phải hỏi một hồi té ra nó là thức ăn như seed hé hé tôi nhà quê quá Ừ ở đây có nhiều loại nut và seed ngon tuyệt vời như Brazilian nut ,almond cũng rẻ thôi ông ạ có mười mấy đồng 1 pound
Ủng hộ Bác Lâm về bằng 02 tay và 02 chân luôn, e đặt 01 chỗ trước xin được đón tiếp Bác 01 ngày mát trời ông địa luôn!
Cám on bác BenTre ,nhớ hồi đó tôi xuóng Tiền Giang qua phà Rạch miễu BenTre vuợt biên tính ra cửa Vàm láng nhưng cuối cùng bị CA Tiền Giang bắt đưa về trại giam Mỹ Phước nhốt vài tháng ,lúc đó mấy ổng còn nói .May cho mấy ông chứ bị Bentre bắt là mút chỉ hehe trong trại suốt ngày đan lát ,tối đến nhảy điệu Lâm thôn của kampuchea rình rịch suốt đêm vui lắm ,lại còn hát .chưa có hôm nào đẹp như hôm nay non nuớc thanh bình lòng ta mê say
Tôi đã thấy qua Bến Tre nhưng chưa bao giờ được đi đến nơi này. Hồi nhỏ Ba tôi có chở tôi xuống biển Long Toàn để nhìn theo chiếc tàu CL199 rời Việt Nam (năm 1979) đường đi xuống Long Toàn dọc theo con sông cái, bên này là Trà Vinh còn bên kia là Bến Tre. Lúc nhìn theo chiếc tàu ra khơi, Ba tôi rầu lắm vì mọi người đều chê là tàu chở nặng quá gần chìm! May là 9-10 ngày sau có tin tàu đến bến bình an.
Hồi đó nghe bài Dáng Đứng Bến Tre này trên radio hoài luôn, bọn nhóc tôi chế câu "ai đứng như bóng dừa" thành câu "ai đái nghe cái xè" ;)
Các bác dạo này đưa lên nhiều bài hay quá, làm nhớ lại một thời tập làm người lớn, nghe nhạc, hút thuốc.