Lão Tab thuộc làu kinh sử từ cổ chí kim,môn nào củng giỏi,cái gì củng biết chỉ có một thứ là không biết..:cuoihihitlcdv
Printable View
Hôm trước tôi có thấy tổ trưởng Sáu nói về chuyện ớt yết làm loãng cà cà phê :)) . Rồi bức tai bức tóc. Có lẻ vì ông ấy không thích cay, hoặc thích ngọt thế nào ấy tôi cũng không biết. Cho nên cây ớt nhà tôi cứ ra lá rất đẹp, mà trái thì từ từ rụng hết :( . Tôi cũng mong có vài trái để so hàng với ông, hy vọng quán cà phê chi nhánh IV thì tôi có hình.
ĐẮNG và CAY là mùi vị rất phổ biến trong đời thường, khó thể tách rời. Cũng như cà phê đắng nên đi kèm với trái ớt cay vậy. Nghĩ là tổ trưởng Sáu cũng đồng ý với tôi về điểm này :) .
https://www.youtube.com/watch?v=4mkv6bg4-0M
Ớt ông trồng phải công nhận đẹp. Có cay như ban đầu không vậy ông?. Bên này tôi mua về chừng chục trái cho mỗi tháng. Chỉ ăn vỏ, hạt và cuống để laị khô luôn. Có lần bà xã kho cá, tôi cho 2 chùm hạt vào nồi, cay tóe khói ông ơi.
Ông thử lấy 2 trái để nguyên luột chín rồi giã nhuyễn ăn thử coi sao nhé. Coi chừng lúc gĩa nó bay vô mắt thì phiền.
Tôi thật lòng có sao nói vậy thôi bác Tom.Bởi vì thấy bác nói chuyện từ Đông chu liệt Quốc tới Tam quốc diễn nghĩa,rồi thì từ chó cảnh tới các loại cây cảnh ,rồi các công việc từ nhỏ tới lớn và ăn chơi từ Ý tới Anh bác Tom đều chém ngọt lừ... nên tôi nói thế-bd:tlkdhh
Bác Aty cứ nói về bưởi là anh Sáu tổ trưởng tổ dân phố thế nào củng khoái nhá:lolz4
Bác Sáu sợ ớt cay hay ko ăn ớt là một điều lạ ah nha. Em nghĩ bác ý đùa vui với mọi người thôi đúng không :) , bữa cơm không có bát nước mắn dầm ớt là không được rồi . Bac ấy còn dầm cả một hũ dấm ngâm ớt tỏi nữa cơ ạ, nói chung mấy anh em bác cháu trên này em thấy ăn ớt giỏi cực luôn.
@ Bác Lâm .
Cháu không biết về cách tạo âm trong Ghitar điện như vậy thật :-?? . Bác nói cháu mới tìm hiểu về nó, lúc đầu cháu tưởng một dụng cụ nào đó tạo tiếng vang. Tại cháu hay nghe radio nên những bài hát chả biết tên là gì, hôm rồi nghe một bài cũng có cách tạo âm giống vậy cháu nhớ ngay đến " If " .
Hôm nay cháu tặng bác Lâm bài này, Hôm nay là ngày cháu nghe bác ạ :binglaklu .
Nhiều người cho rằng nhạc không lời dùng để ru ngủ, nhưng bản này nó tạo nên không khí lạc quan hơn cho cuộc sống bác nhỉ , hình ảnh lại đẹp nữa chứ ạ :dancing .
He he oze, nghe nói bưởi có nhiều vi-ta-min C nên cũng khối người thích. Tôi cũng vậy :)) .
Vừa hôm nay đi thăm đại khái... là người quen, lúc chuẩn bị cho bửa ăn thì chợt nghe trong nhà bếp có ai đó nói , nguyên văn: dú của em hôm nay to hơn dú của chị. Và sau đó là lùm bà xùm lên, nhiều lắm không nhớ hết.
Và đây là " dú của em "
Bầy ngựa tung vó chạy trên thảo nguyên đẹp quá .Trời se lạnh chắc cháu lại chạnh lòng cố quốc như Ngựa Hồ hí gió bấc
Ngựa Hồ là ngựa ở nước Hồ. Nước này ở về phương bắc nước Tàu mà ngày xưa người Tàu thường cho là nước man rợ hay cũng gọi là Phiên quốc. Ngựa Hồ cao lớn, leo núi rất giỏi, chạy rất nhanh. Người Trung Quốc thường mua về làm ngựa chiến trận. Nước Hồ vốn là xứ lạnh. Khi đông về, gió bấc thổi, tuyết rơi lả tả, gió lạnh tê tái.
Ngựa Hồ tuy về Trung Quốc, là nơi tương đối ấm áp nhưng vẫn nhớ đến đất Hồ tê lạnh, mỗi độ đông về. Vì thế khi có gió bấc là gió phương bắc thổi đến, tuyết rơi lả tả nơi đất Trung nguyên thì ngựa cất tiếng hí lên thê thảm tỏ lòng nhớ cố quốc.
Có sách lại chép: nước Hồ đem ngựa cống vua Hán ở Trung nguyên. Ngựa được nhốt vào chuồng cho ăn uống thật ngon và được chăm sóc rất kỹ. Nhưng khi gió bấc thổi đến thì ngựa lại bỏ cả ăn uống, ngóng về phương bắc hí vang lên những tiếng bi thảm.
Trong lịch sử hội họa Trung Quốc, chúng ta thấy có nhiều họa sĩ nổi tiếng về vẽ ngựa như Tào Bá, Hàn Cán (đời Đường), Lý Công Lân (đời Tống), Triệu Mạnh Phủ (đời Nguyên), và gần đây có Từ Bi Hồng, Lương Đỉnh Minh, Diệp Túy Bạch và Thi Khánh. Nhưng trong các nhà danh họa ấy, Hàn Cán là người nổi tiếng nhất.
Hàn Cán là người Tràng An, sinh năm 720 và mất năm 780 đời Đường, nhà nghèo, hồi nhỏ phải đi làm thuê cho một cửa hàng bán rượu, nơi Vương Duy vẫn thường mua chịu. Một hôm, Hàn Cán đến nhà Vương Duy để thu tiền và trong lúc chờ đợi đã nghịch ngợm vẽ những hình con ngựa trên mặt đất. Vương Duy khi ra cửa nhìn thấy lấy làm ngạc nhiên cho là một kẻ có thiên tài nên mới chu cấp cho đi học vẽ.
Đến niên hiệu Thiên Bảo thứ nhất, khi ấy Hàn Cán đã có chút tiếng tăm thì vua Đường Minh Hoàng cho lệnh triệu vào nội đình. Nhà vua truyền cho Hàn Cán chịu khó theo học Trần Hoành, một họa sĩ của cung đình, chuyên vẽ hình những con ngựa quý do các chư hầu dâng cống để lưu vào tàng viện. Nhưng thấy chàng ta không chú tâm gì vào việc học tập cả, nhà vua mới hỏi vì sao lại chểnh mảng như vậy. Hàn Cán bèn tâu lên rằng: “Thần đã có những thầy riêng để theo học, không nhất thiết phải theo học Trần Hoành. Hiện tại, các thầy học của thần chính là những con ngựa quý của bệ hạ nuôi ở trong các chuồng ngựa”.
Nhà vua cho là phải. Nhưng thực ra Hàn Cán đã học được rất nhiều ở Tào Bá, một danh họa chuyên vẽ về ngựa rất nổi tiếng thời bấy giờ và Đỗ Phủ đã phải hết lời ca tụng trong bài Đan thanh dẫn-丹 青 引(*) mà có đoạn kể rằng: “…Con ngựa Ngọc hoa của đức tiên đế/ Biết bao thợ vẽ đã chẳng giống hình nó/ Hôm đó được dắt đến dưới thềm son/ Nó đứng sững lại, cửa cung bỗng như nổi cơn bão táp/ Vua xuống lệnh cho tướng quân trải tấm lụa trắng/ Ông tập trung tinh thần như người thợ chăm chú dụng công/ Bỗng giữa chốn cửu trùng con long mã thật xuất hiện/ Gạt hết mọi loài ngựa tầm thường xưa nay/ Con Ngọc hoa bỗng đứng lên trên sập nhà vua/ Nhìn ngựa trên sập giống hệt ngựa trước sân/ Đức vua mỉm cười giục thưởng vàng cho ông…” (…Tiên đế thiên mã Ngọc hoa thông/ Họa công như sơn mạo bất đồng/ Thị nhật khiên lai xích trì hạ/ Quýnh lập xương hạp sinh trường phong/ Chiếu vị tướng quân phất quyên tố/ Ý tượng thảm đạm kinh doanh trung/ Tư tu cửu trùng chân long xuất/ Nhất tiển vạn cổ phàm mã không/ Ngọc hoa khước tại ngự tháp thượng/ Tháp thượng đình tiền ngật tương hướng/ Chí tôn hàm tiếu thôi tứ kim… 先 帝 天 馬 玉 花 驄/ 畫 工 如 山 貌 不 同/ 是 日 牽 來 赤 墀 下/ 迥 立 閶 闔 生 長 風/ 詔 謂 將 軍 拂 絹 素/ 意 匠 惨 淡 經 營 中/ 斯 須 九 重 眞 龍 出/ 一 洗 萬 古 凡 馬 空/ 玉 花 卻 在 御 榻 上/ 榻 上 庭 前 屹 相 向/ 至 尊 含 笑 催 賜 金...).
Đỗ Phủ còn cho biết, Hàn Cán về sau tuy vẽ ngựa giống hệt như in nhưng không làm nổi bật được cái khí thế của con thần mã mà chỉ có tướng quân Tào Bá vẽ mới thật có tinh thần.
Không biết tướng quân Tào Bá đã vẽ con ngựa có tinh thần đến thế nào mà nó đứng dậy được trên sập của nhà vua. Chuyện này cũng không khác gì chuyện của Hàn Cán cưỡi ngựa vượt ra khỏi bức tranh để phi mất. Đó chẳng qua là những lời ngoa truyền để đề cao thiên tài của Tào Bá và Hàn Cán mà mọi người đều thán phục. Tiếc rằng, các bức tranh vẽ ngựa của Tào Bá đã không còn giữ được, chỉ có mấy bức được truyền là của Hàn Cán như bức tranh trong bộ sưu tập của Sir Percival và Lady David ở Luân Đôn bên nước Anh.(tranh 1)
(tranh 1)
http://upload.wikimedia.org/wikipedi...by_Han_Gan.jpg
tranh 2
http://upload.wikimedia.org/wikipedi...ar_Han_Gan.jpg
Bức này có vẽ một con ngựa bị buộc vào một cái cọc, trông nó có vẻ dữ tợn, bờm dựng đứng như muốn chồm lên, đầu ngửa cao, miệng hí. Cả tinh thần được diễn tả ở phần đầu và cổ còn phần mông và chân thì kém tinh xảo, có thể vì là những chỗ bị hư đã được người sau sửa lại và rồi quên mất cả vẽ cái đuôi! Thế nhưng, người ta chỉ chú ý vào phần đầu và cổ để đánh giá tác phẩm, coi là một kiệt tác. Trên bức họa này, chúng ta nhận thấy có nhiều dấu triện của các danh nhân như Trương Ngạn Viễn, Mã Phế và cả dấu triện của vua Càn Long.
Còn một bức họa khác của Hàn Cán cũng nổi tiếng không kém, đó là bức tranh vẽ một viên kỵ mã ngồi trên lưng con ngựa trắng và dắt theo một con ngựa đen. Người kỵ mã trông rất uy phong với bộ râu rậm và hai con ngựa trông cũng rất hùng mạnh. Bộ y phục thì được vẽ khá mềm mại. (Tranh số 2)
Cũng có người nghi ngờ về niên đại của tác phẩm ấy. Và tại sao một nhà danh họa và thư pháp nổi tiếng như vua Huy Tông lại phải ghi là “Hàn Cán chân tích”. Có thể bản gốc tàng trữ ở trong cung lâu ngày đã bị hư hỏng và nhà vua đã truyền cho một họa sĩ khác vẽ lại nên nhà vua mới ghi như vậy.
Đến nay giá trị của bức họa ngày càng tăng cao và càng chứng tỏ kỳ tài của Hàn Cán về tài vẽ ngựa.
_____
Nói đến Sài Gòn phải tặng ông Gió .Hoàng tử Bé ngày xưa
SÀIGÒN DĨ VÃNG ....
Sàigòn một thuở là Hòn ngọc Viễn Đông, một Paris lấp lánh khắp cõi Châu Á, tới hôm nay, đã mang tên khác, nhưng người ta vẫn quen gọi tên cũ chính danh là Sàigòn. Một thành phố mãi mãi vẫn mang tên là Sàigòn. Sàigòn của muôn đời. Sàigòn trong trái tim người đang sống ở thành phố đó hay lưu lạc khắp năm châu thế giới..
Người Sàigòn không nhất thiết phải sinh ra tại đó, có bao nhiêu đời Ông Bà Cha Mẹ từng lập nghiệp lâu năm bền vững. Một người, bất cứ ai, cũng có thể nhận chính mình là dân Sàigòn, dù chỉ ở đây một ngày, một tuần hay một tháng, một năm. Chỉ sống một ngày ở Sàigòn, nhưng yêu Sàigòn mãi mãi, và mang Sàigòn ở trong tim, như một phần của thân xác, linh hồn mình. Chỉ như vậy thôi, người ta có thể ngẩng cao đầu, tự hào vỗ ngực tuyên xưng, tôi chính là dân Sài gòn.
Tóm lại, Sàigòn là của tất cả mọi người suốt giải giang sơn, từ Bắc qua Trung tới Nam. Sàigòn như một hiền mẫu, dang vòng tay ôm thương yêu quảng đại tới con người tứ xứ, không phân biệt Bắc, Trung, Nam và ngay cả người ngoại quốc nữa.
Một người Pháp sinh ra ở Paris, bỗng dưng một hôm tuyên bố, từ nay tôi không còn là một Parisien, cư dân ở Paris nữa. Tôi là người Sàigòn và sẽ ở lại đây cho tới cuối đời. Thế là dân Sàigòn bèn gọi chàng Tây là anh Hai, hoặc anh Tư gì đó. Tinh thần người Sàigòn là như vậy đó, thiệt là cởi mở và phóng khoáng.
Một nhạc sỹ sáng tác nhạc gửi: “Sàigòn ơi! Ta hứa rằng ta sẽ trở về” . Rồi chàng cũng đã trở về thật, sau hơn chục năm xa cách. Nhưng chàng khám phá ra mình thực sự mất Sàigòn trong thực tại. Thế nên, nếu có sự trở lại, thì chỉ còn một hành hương về Sàigòn trong quá khứ với ngọc ngà dĩ vãng..
Hãy cùng trở về Sàigòn từ một ký ức xa tắp mù khơi. Sàigòn của những thập niên 1950 từ hơn nửa thế kỷ trước. Sàigòn với các hộp đêm, sòng bài Đại Thế Giới, Chợ Lớn, một Las Vegas thu nhỏ. Tại đây có đủ loại sòng bài và cách chơi khác nhau, lại có chỗ giải trí như xe nhỏ chạy bằng điện húc nhau đùa rỡn, hiện nay Las Vegas vẫn còn trò chơi này. Khu văn nghệ khác như phòng trà vũ trường. Con đường Trần Hưng Đạo Galliéni, Đồng Khánh chạy dài từ Sàigòn tới Chợ Lớn dài vun vút dẫn khách tới sòng bài, lưu thông hàng ngàn chiếc xe hơi nối đuôi nhau, đèn pha sáng chói, chẳng khác gì đại lộ Champs Elyseé tại Paris.
Đường Phan Đình Phùng quả thật văn nghệ với quán cà phê Gió Nam nỗi tiếng vì cô hàng café tuyệt sắc giai nhân. Nàng có nước da trắng xanh liêu trai với mái tóc thề ngây thơ nữ sinh. Nhân vật đã đi vào truyện Duyên Anh, qua bao chàng trai say đắm, tranh đua nàng, từ trí thức đến du đãng yên hùng. Cũng tại đường Phan Đình Phùng với quán phở Con Gà sống thiến cùng hai kiều nữ con chủ quán, nổi danh tài sắc. Yến Vỹ cùng chị, cả hai để mái tóc bồng rối như minh tinh Brigitte Bardot. Bao thực khách đến chẳng phải phở ngon, nhưng vì Yến Vỹ đẹp lại hát hay. Thì ra ngoài quán café, nhà hàng phở giai nhân cũng khiến một chàng Cử Văn Khoa phải vào nhà thương điên vì tình si. Phan Đình Phùng còn thêm café quán Luật Khoa và cơm gà Xing Xing, với những giai nhân lai Pháp, càng làm thêm Sàigòn có một chút Paris.
Sàigòn by night đã là những phòng trà ca nhạc và vũ trường khiến màn đêm Thành Đô trở nên lung linh ảo huyền, như một ngàn lẻ đêm huyền thoại. Nổi bật nhất từ cuối thập niên 50 là phòng trà ca nhạc Anh Vũ. Nơi đây khởi đi cho nhiều danh ca sau này. Thanh Thúy ở tuổi mượt mà thanh xuân đôi tám đã hát từ Anh Vũ, làm mê say bao tao nhân mặc khách. Người ta mê Thanh Thúy vì có lối trình diễn độc đáo bên giọng ca trầm buồn. Thanh Thúy vừa hát vừa đưa tay vuốt làn tóc buông rơi, sau đó gây chú ý là tự vuốt đôi chân ngọc tuổi dậy thì, có lúc nàng lại vưốt cây micro nữa, khiến các chàng trai sởn da gà vì sốt nóng lạnh. Ban CBC thuở Anh Vũ đã là ban nhạc kích động nhỏ nhất thế giới, với tuổi khoảng sáu, bảy mà thôi. Thảm kịch cũng xảy ra cho phòng trà Kim Điệp Sàigòn, khi một chàng Tây lai bị giết. vì dám cặp kè với người đẹp Tuyết Không Quân. Tuyết là một giai nhân nổi tiếng sát phu qua hai đời chồng bị tử nạn trong chiến tranh. Phòng trà Kim Điệp sau vụ ấu đả vì ghen tuông. bị đóng cửa để trở thành Nhà sách.
Quán café trà thất đẹp nhất Sàigòn phải kể là Quán Gió, sau thành “Hầm Gió”, thiết trí sâu dưới đất, như một hầm rượu bên Âu châu. Người đẹp ngồi cash, bên một thùng rượu làm thành cái bàn khá ngoạn mục. Ca sỹ Thanh Lan thường có buổi trình diễn tại đây
Chính những phòng trà đêm Sàigòn đã đưa nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn lên đỉnh cao. Nhiều ca khúc phản chiến cấm hát ở Đài phát thanh nhưng tại phòng trà thì vẫn được trình diễn tự do.
Vũ trường, phòng trà Sàigòn còn ghi lại một thiên tình sử đẫm lệ.
Đêm Sàigòn bạc vàng, bạc triệu với Lệ Thu và Khánh Ly, những tiếng hát vàng ròng cả nghĩa trắng lẫn nghĩa đen, vì lương tháng hai nữ danh ca này lên tới một triệu. Trong khi đó, lương một Đốc sự, Phó Quận trưởng tới năm 1975 chỉ có 33 ngàn đồng một tháng.
Vũ trường thơ mộng nhất Sàigòn là Mỹ Phụng ngay tại bến Bạch Đằng. Thuở đó cuối thập niên 50 đầu 60, người ta thích đi Mỹ Phụng vì ban đêm có gió sông Sàigòn mát dịu lại thêm nữ danh ca Lệ Thanh. Nàng chuyên hát những tinh khúc ướt át, trong điệu slow tắt đèn, mờ ảo như “Dang dở ”, “Nỗi Lòng”. Tiếng hát mê đắm Lệ Thanh đã thu hồn một Bác Sỹ trở thành phu quân của nàng.
Đêm Sàigòn ngọc ngà dĩ vãng khiến người ta khó quên được vì những dạ vũ Bal Famille có khi kéo dài từ đêm suốt sáng. Ai có ngờ cô bé Mai đen 16 tuổi, thường đi với bé Phú, sau này lại trở thành ca sỹ Khánh Ly nổi danh cho tới nay. Phú mệnh danh là Phú chuột, trắng trẻo, mũm mĩm xinh như thỏ con, thường nhảy cùng Mai với đám bạn trai. Mai nhảy có khi bỏ cả giày cao gót giữa đêm vui đã gần rạng sáng.
Thuở ấy, người đi dạ vũ phải trầm trồ khen ngợi tài nhảy của Tony Khánh, thường nhảy cặp với vợ. Mỗi lần Khánh cùng phu nhân ra sàn nhảy, mọi người đều ngừng khiêu vũ để thưởng thức tài nghệ bậc sư biểu diễn. Sau đó là pháo tay nổ ròn như ngày Tết.
Hòn ngọc Viễn Đông Sàigòn từ thập niên 50 nay đã trên nửa thế kỷ, Sàigòn đã đổi tên. Người Sài Gòn đã bay xa, lập thành bao nhiêu Little Sàigòn rải rác khắp hải ngoại . Và dân Sàigòn năm xưa, những chàng trai hào hoa phong nhã, bao giai nhân ca sỹ lừng danh, nay đã thất thập cổ lai hy, hay gần mấp mé tuổi hạc. Thế nhưng trái tim chằng bao giờ già. Bởi vậy nói như Thi sỹ Thanh Tâm Tuyền ta gọi tên ta, Sàigòn cho đỡ nhớ. Hỡi những Đêm Mầu Hồng, Queen Bee, Arc En Ciel, Mỹ Phụng, Tự Do . . . Những đêm vui thắp sáng kỷ niệm, những ngày xuân mãi mãi xanh tươi, để làm thành một Thủ Đô Sàigòn bất tử, ta yêu lắm và yêu mãi mãi. Sàigòn trong lời nhạc của Ngô Thụy Miên, thì dù Em của ta có đi khắp thế giới Paris, Vienne, cũng chẳng thể tìm đâu đẹp hơn Sàigòn của ta ngày hôm qua dĩ vãng cũng như Sàigòn mai sau.
http://gdb.voanews.com/F2128C7D-2F0F...A7_w268_r1.jpg
Ngày 9 tháng 10 năm 2012, trên một chiếc xe buýt, Malala Yousafzai (sinh năm 1997) và các bạn cùng nhau chuyện trò và hát hò với các thầy cô giáo. Vừa mới thi cuối học kỳ, ai cũng vui vẻ. Nhưng khi chiếc xe vừa ra khỏi thành phố Mingora, Pakistan thì có hai người đàn ông cầm súng chận lại. Chúng bước lên xe, hỏi: “Đứa nào là Malala Yousafzai?” Mọi người đều im lặng, nhưng một cách tự phát, một số em quay nhìn Malala. Theo hướng mắt ấy, hai tên sát thủ nhận diện ra ngay được Malala. Không nói không rằng, một tên giơ súng lên, chĩa thẳng vào em. “Đoành! Đoành”. Hai phát súng vang lên khô khốc. Một phát trúng đầu và một phát trúng cổ. Sẵn trớn, tên sát thủ bấm cò, bắn thêm hai phát nữa vào đám bạn của Malala khiến hai em bị thương. Xong, chúng xuống xe. Và tẩu thoát.
Hai tên sát thủ ấy thuộc nhóm Hồi giáo cực đoan Taliban vốn hoạt động rất mạnh trong khu vực Mingaro, Pakistan.
Vấn đề là: Tại sao các tên Hồi giáo quá khích lại muốn giết một nữ sinh mới 15 tuổi như vậy? Lý do: Taliban ra lệnh cấm toàn bộ phụ nữ đến trường và tham gia các hoạt động xã hội. Với chúng, phụ nữ, từ trẻ em đến người lớn, không cần biết chữ và chỉ được phép quanh quẩn trong nhà. Mà Malala lại không chấp nhận điều đó. Em vẫn bướng bỉnh đến trường, hơn nữa, còn cổ vũ các bạn nữ của mình đến trường.
Việc cổ vũ của Malala có tầm ảnh hưởng rất rộng, khi em, vào năm 2009, lúc mới 12 tuổi, nhận viết blog cho đài BBC tại Anh. Trong các bài viết, Malala mô tả cuộc sống tại quê nhà của em, Swat Valley, nơi Taliban đang chiếm đóng.
Em hô hào việc phổ cập giáo dục cho phụ nữ, một điều trái với chủ trương của Taliban. Năm sau, báo New York Times cử phóng viên Adam B. Ellick sang Pakistan làm một bộ phim tài liệu về cuộc đời của em, từ đó, tên tuổi em vang dội khắp nơi như một nhà hoạt động nhân quyền, đặc biệt nữ quyền trong một quốc gia Hồi giáo. Chính vì thế, Taliban xem em như một kẻ thù và ra lệnh phải hạ sát em. Bản án tử hình em được đăng tải rộng rãi trên báo chí địa phương, thậm chí, còn được nhét dưới cửa nhà em. Cảnh giác, nhưng Malala không hề sợ hãi. Em vẫn tiếp tục đến trường và tiếp tục vận động các bạn gái của mình đi học. Hậu quả là em bị bắn trên chuyến xe buýt của trường.
May, dù bị trọng thương nhưng em vẫn không chết. Các bác sĩ Pakistan đã tận tình cứu chữa cho em qua khỏi cơn nguy hiểm ban đầu. Nhiều bệnh viện lớn ở Tây phương hứa sẽ điều trị cho em. Gia đình em chọn bệnh viện Queen Elisabeth Hospital Birmingham ở Anh, nơi nổi tiếng điều trị các quân nhân bị thương tật. Sau mấy tháng nằm viện, sức khoẻ của em được khôi phục. Đầu năm 2013, em đi học trở lại tại Birmingham. Hơn nữa, em lại tiếp tục cuộc vận động cho quyền được đi học của phụ nữ. Tháng 7 năm 2013, Malala được mời nói chuyện tại trụ sở Liên Hiệp Quốc về vấn đề phổ cập giáo dục; tháng 5, 2013, em được nhận bằng Tiến sĩ danh dự của trường University of King’s College tại Halifax, Canada; mấy tháng sau, nhận được giải Sakharov về tự do tư tưởng của Quốc hội Âu châu. Dần dần em trở thành một thiếu niên (teenager) nổi tiếng nhất trên thế giới. Khẩu hiệu “Tôi là Malala” (I am Malala) xuất hiện trong hầu hết các cuộc vận động giáo dục cho nữ giới, kể cả chiến dịch phổ cập giáo dục do Uỷ ban Giáo dục Toàn cầu của Liên Hiệp Quốc tổ chức. Báo Times, số ra ngày 29 tháng 4 năm 2013 xếp Malala vào danh sách 100 người có ảnh hưởng nhất thế giới, ở đó, hình của em được đăng ngay trên trang bìa.
Và bây giờ, em nhận được giải Nobel Hoà bình (cùng với Kailash Satayarthi, người Ấn Độ). Ở tuổi 17, em là người nhận giải Nobel trẻ nhất trong lịch sử hơn trăm năm của giải thưởng có uy tín nhất thế giới này.
Qua báo chí Tây phương, người ta nhận thấy phản ứng đối với Nobel Hòa bình năm nay khá tốt. Hầu hết đều cho Malala (và Kailsh Satayarthi) xứng đáng. Em không những thông minh và dũng cảm mà còn là người có viễn kiến về một tương lai nhân loại bình đẳng, nơi mọi trẻ em, bất kể nam hay nữ, giàu hay nghèo, đều có cơ hội học tập. Nhưng quan trọng hơn hết, qua việc trao giải thưởng này, tấm gương của Malala càng sáng rực, trở thành nguồn ý thức và nguồn cảm hứng cho nhiều người thuộc nhiều tầng lớp khác nhau.
Thứ nhất, nó nhắc nhở mọi người về tội ác dã man của Taliban, nhóm Hồi giáo cực đoan lâu nay vẫn gieo rắc kinh hoàng ở khắp nơi. Thường, người ta vẫn biết tội ác của nhóm này. Nhưng cũng thường, bận bịu với những lo toan trong đời sống hàng ngày, người ta dễ quên bẵng đi. Taliban dường như thuộc về một thế giới khác. Cách đây hai năm, trước sự việc một cô bé ngây thơ, mới 15 tuổi đầu, bị bắn một cách tàn nhẫn như vậy, người ta mới sững sờ và thấm thía hơn về tính chất man rợ của những kẻ cuồng tín.
Càng thương Malala bao nhiêu, người ta càng căm ghét Taliban cũng như các lực lượng Hồi giáo cuồng tín bấy nhiêu. Lần đầu tiên tại Pakistan, tất cả các đảng phái chính trị cũng như các tôn giáo đều thống nhất với nhau trong việc lên án hành động vô nhân đạo của Taliban và cùng cầu nguyện cho em Malala. Phát biểu trước bệnh viện Birmingham ở Anh trong chuyến thăm viếng Malala đang được điều trị, ông Yousafzai, bố của Malala, tuyên bố: “Khi Malala ngã xuống, nước Pakistan đứng dậy và cả thế giới trỗi lên.”
Bây giờ, với giải Nobel hòa bình dành cho Malala, người ta càng nhận ra nhu cầu đoàn kết với nhau để chống lại những kẻ cuồng tín và chà đạp lên những quyền căn bản của con người.
Thứ hai, tấm gương của Malala khuyến khích giới phụ nữ lên tiếng để tranh đấu cho quyền lợi và phẩm giá của họ. Ở vào thời điểm đầu thế kỷ 21, ở khá nhiều quốc gia, phụ nữ vẫn bị bóc lột và áp bức không khác gì thời trung cổ. Sự đàn áp phụ nữ, ở nhiều nơi, mang màu sắc tôn giáo. Người ở ngoài lên tiếng phê phán dễ bị cho là kỳ thị. Malala thì khác: Em theo đạo Hồi. Tiếng nói của em là tiếng nói của người trong cuộc, do đó, dễ có sức thuyết phục hơn.
Cuối cùng, không chừng quan trọng nhất, tấm gương của Malala cổ vũ cho những người trẻ tuổi tự tin hơn trong việc dấn thân vào các hoạt động làm thay đổi xã hội, thậm chí, thế giới. Malala hiện nay mới 17 tuổi. Em tham gia vào hoạt động tranh đấu cho quyền đi học của nữ giới lúc mới 11, 12 tuổi. Dạo ấy, có lẽ hiếm có người tin tưởng là em có thể làm nên được việc gì. Vậy mà em lại làm được. Hơn nữa, em hoàn toàn không có điều kiện thuận lợi nào cả. Sinh ra ở một miền quê nghèo khổ, để tranh đấu, em phải đối diện với bao nhiêu nguy hiểm. Vậy mà em vẫn vượt qua được.
Malala Yousafzai là nguồn cổ vũ lớn cho giới trẻ ở khắp nơi trên thế giới, trong đó, có cả Việt Nam.
Thời sự trên TV cũng đưa tin về Malala Yousafzai nhận giải Nobel Hoà bình, còn báo chí thì toàn thấy 'Sao chảnh' và 'Đại gia hot'.
Những tư tưởng như Malala Yousafzai và Alyssa Carson dưới đây thật đáng để suy ngẫm !.
Bé gái 13 tuổi luyện tập với ước mơ lên sao Hỏa
Một cô bé người Mỹ đã tham gia nhiều khóa học để trở thành phi hành gia và mong muốn trở thành người đầu tiên đặt chân lên sao Hỏa.
Alyssa Carson, 13 tuổi, đến từ bang Louisiana, Mỹ, đang tham gia một khóa đào tạo trong vòng 9 năm để trở thành phi hành gia. Cô bé là người đầu tiên tham dự cả ba đợt huấn luyện toàn cầu của Cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ (NASA), News cho hay.
http://m.f29.img.vnecdn.net/2014/10/...1412996640.jpg
Alyssa Carson muốn trở thành người đầu tiên đặt chân trên sao Hỏa. Ảnh: Twitter.
Alyssa có thể nói tiếng Anh, Tây Ban Nha, Pháp và Trung Quốc và khả nổi tiếng trên các mạng xã hội. Alyssa nói với BBC rằng, em muồn truyền cảm hứng cho những trẻ em cùng trang lứa đạt được ước mơ.
"Em đã nghĩ về nhiều thứ khác, nhưng trở thành một phi hành gia vẫn là sự lựa chọn hàng đầu. Em không muốn gặp chướng ngại nào trên đường đến sao Hỏa của mình. Thất bại không phải là sự lựa chọn", Alyssa nói.
NASA cũng ủng hộ cô bé theo đuổi ước mơ. Paul Foremantold, đại diện Cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ với BBC: "Cô bé đang ở độ tuổi hoàn hảo để một ngày không xa trở thành nhà du hành đầu tiên đến sao Hỏa. Alyssa đang làm mọi thứ rất tốt, được đào tạo bài bản, từng bước trở thành phi hành gia thực thụ".
Bret Carson, cha của Alyssa, cho biết ông đã nói chuyện với con về khả năng cô bé không bao giờ trở về từ sao Hỏa, nhưng cô bé không lo lắng về điều đó.
"Chúng tôi có khoảng 20 năm để chuẩn bị lên kế hoạch, gia đình chúng tôi biết những gì con gái đang làm. Alyssa sẽ trở thành người đầu tiên tham gia nhiệm vụ bay đến sao Hỏa vào năm 2033. Có thể con gái tôi đi và không quay trở lại, chúng tôi đã nói về vấn đề đó nhưng dù thế nào Alyssa vẫn muốn đi", cha của Alyssa nói.
Lê Hùng (theo báo mạng).
Chi tiết anh bán rau xin con châu chấu vẽ thêm thú vị quá .Thảo nào danh hoạ không kết bạn vong niên với hắn
Tề Bạch Thạch là bậc danh họa lớn chuyên vẽ tranh thủy mặc của Trung Quốc. Người ta biết về ông, kính trọng ông, không chỉ qua những tuyệt tác nghệ thuật trong di sản hội họa đồ sộ ông để lại, mà còn vì nhân cách ngay thẳng, lối sống đời thường rất bình dân của ông.
Với một sự nỗ lực không mệt mỏi, tên tuổi Tề Bạch Thạch ngày một nổi trội trong họa đàn, ngay thường dân của thành Bắc Kinh cũng biết đến tiếng tăm ông. Ngoài sáng tác hội họa, ông còn thích thú với việc bếp núc, và thường xuyên tự đi chợ để mua thức ăn.
http://home.thuhoavn.com/wp-content/...00-445x562.jpg
Một buổi sớm, ông Tề lại xách giỏ đi mua rau. Giữa chợ, thấy hàng rau cải trắng của một chàng nông dân trông to bắp mà tươi rói, ông liền hỏi: “Cải trắng này anh bán bao nhiêu một cây?” anh chàng nông dân vừa định trả lời, thì đã kịp nhận ra Tề Bạch Thạch, anh ta liền cười ranh mãnh và nói: “Cụ muốn mua rau à, cháu không bán đâu.” Ông Tề nghe vậy thấy hẫng, ông hỏi: “Không bán thì anh ra đây làm gì?” anh ta trả lời: “Cụ muốn ăn rau của cháu thì phải đổi lấy bằng tranh vẽ.”
Tề Bạch Thạch hơi ngớ ra, nhưng rồi hiểu ngay, biết anh chàng đã nhận ra mình, ông liền nói: “Đổi bằng tranh ư? Được thôi, nhưng không biết sẽ phải đổi bằng cách nào?”. Anh ta trả lời: “Cụ vẽ cho cháu một cây rau cải trắng, cháu sẽ biếu cả xe rau này cho cụ”.
Tề Bạch Thạch cười khoái chí: “Anh bạn trẻ ơi, như vậy là anh bị hớ to rồi!” – “Không, không có hớ đâu, cụ vẽ là cháu đổi ngay.” “Được!” Tề Bạch Thạch cũng đã hứng chí, “Mau đem giấy bút đây!” Chàng trai hớn hở chạy đi mua giấy tuyên với bút mực, rồi dọn mượn một chiếc bàn, và mời Tề Bạch Thạch tác họa. Ông Tề nhấc bút vung tay, vẽ tranh ngay giữa công chúng….
Chỉ một lát sau, một bức thủy mặc tao nhã thanh đạm, vẽ rau cải trắng đã thành hình trước sự trầm trồ thán phục của người xem. Tề Bạch Thạch buông bút nói với người bán rau: “Anh bạn trẻ, tranh này là của anh, còn rau kia nay đã thuộc về tôi rồi.” “ Vâng, vâng, xe rau này là của cụ cả đấy ạ!” Tề Bạch Thạch nhìn xe rau đầy ự, nói: “Anh bạn ơi, đống rau tú hụ thế này tôi biết vác về cách nào đây?”.
Anh chàng nghĩ ngợi rồi nói: “Thế này vậy, cụ vẽ thêm cho cháu con châu chấu lên tranh rồi cháu xin biếu cả chiếc xe này cho cụ.” chẳng nói chẳng rằng, ông Tề cầm bút vẽ luôn một chú châu chấu sống động, to bự lên tranh. Chàng bán rau nhìn tranh và không ngớt lời khen đẹp, anh ta vừa cẩn thận cất tranh vừa nói: “Xin cụ đợi chút, cháu đưa rau đến nhà cụ ngay đây ạ”.
Dọn dẹp qua loa, rồi anh chàng nhấc càng xe đi liền. Tề Bạch Thạch vội ngăn lại, ông tiện tay lấy một cây rau bỏ vào trong giỏ, và nói: “Anh bạn trẻ, rau cải trắng nên một đổi lấy một thôi, chỗ còn lại anh cứ để mà bán!” Anh ta nghe thế vội nói: “Đâu có được, đã giao kèo trước rồi, rau và cả xe này đều là của cụ rồi.” Tề Bạch Thạch nói: “Nhưng làm sao mà nhà tôi ăn hết được ngần này rau kia chứ?” “Cụ cứ để ăn dần.” “Không được…..”
Hai người cứ thế tranh chấp mãi, rồi chàng trai đột nhiên buông xe xuống, ôm một đống cải trắng, vừa bỏ vào làn giỏ của những người chung quanh, vừa lớn tiếng: “Cầm giúp, xin cứ cầm giúp, bữa nay cụ Tề mời mọi người ăn rau cải trắng vừa tươi vừa bự này đây!”.
Chỉ một lát, xe rau đã chẳng còn lại bao, Anh ta cười tươi tắn và nói với Tề Bạch Thạch: “Bây giờ thì không nhiều nữa đâu nhé, để cháu đưa về cho cụ đây!” Nhìn vẻ mặt hiền hậu chân chất của anh nông dân trẻ tuổi, Tề Bạch Thạch chỉ còn biết cười và cùng anh ta đi về phía ngõ nhỏ nhà mình.
Từ đó, cứ cách vài hôm là anh chàng lại đưa một ít rau tươi lên biếu Tề Bạch Thạch, và ông Tề cũng tặng lại anh ta một vài bức tranh. Lâu dần, hai người đã kết bạn vong niên.
Tên bán rau này không phải hạng tầm thường như cái công việc hắn làm mà là một cao nhân heh. Vừa khôn vừa khéo. À mà nhachoa ko hiểu sao bọn Tàu lại thích bày cả bắp cải trong nhà trang trí, hoặc là dắt bắp cải đi chơi phố...Sư phụ có thể giải thích rùm không he
Hôm nay , em chở con bé đi lên tham quan Giải cờ tướng, được anh Như tặng cho một chiếc áo thun của sơn Nero tài trợ. Áo trắng dày , rất đẹp.
Ông Nhachoa còn chơi guitar chứ. Tôi đuợc thầy cho tập 2 bài đồng thời: Lagrima và Mazurka. Một bài chậm một bài nhanh. Tôi khoái bài chậm nhưng thầy sợ đánh chậm riết bộ não nó ngủ nên cho tập kèm bài nhanh là vậy.
Bây giờ tai khoái nghe bè trầm quá. Tập xong bài 36 đánh ra được bè trầm nghe sướng thật thầy cho luôn bài Lagrima bảo là "cho cậu học vượt 1 năm".
Em vẫn chơi bác ạ nhưng ít hơn trước. Bài lagrima của bác trước em cũng nghe bạn chơi rồi, nó ngắn ngắn nhưng cũng khá khó đúng ko bác
Về hội hoạ đời Thanh mình không hiểu nhưng thơ Đường thì mê tít rồi. CẦM - KỲ - THI - HOẠ đi với nhau, thời nay ít ai am hiểu đủ 4 món !
Đau lắm ư ? Có hạnh phúc nào mà không tả tơi ,không đắng cay
Mường Mán
Qua Mấy Ngõ Hoa đăng lần đầu tiên trên tuần báoTuổi Ngọc ở Sài Gòn vào đầu thập niên 1970, được đông đảo bạn đọc miền Nam thời ấy yêu mến, được một số chàng trai trẻ dùng làm tặng vật tỏ tình, nói hộ nỗi lòng, để rồi được yêu, được duyên đôi lứa. Mãi đến sau này tôi mới được biết các cuộc hôn phối đẹp ấy, mới được gặp họ ở quán Ruốc khi tóc họ đã ngả màu muối tiêu. Kẻ xa về từ Châu Âu, Châu Mỹ, người gần thì ở quanh đây. Bạn phải nghe các anh chị ấy bồi hồi nhắc kể về thời học trò, lõm bõm hoặc vẫn còn thuộc làu đọc lại từng câu thơ Qua Mấy Ngõ Hoa với mắt - và hẳn cả lòng - ngời sáng mới có thể biết niềm vui của tôi vô giá ngần nào
Sau năm 1975, ngoài những cuộc gặp bất ngờ thú vị ấy, nhiều bạn đọc trẻ hồi đó nay ở độ tuổi trung niên - trong và ngoài nước - đã trực tiếp hoặc gián tiếp yêu cầu tôi cho chép lại Qua Mấy Ngõ Hoa,hay đính chính giùm những câu chữ thiếu chính xác do " tam sao thất bổn". Phải chăng, nói như nhà văn Ngụy Ngữ : Với tất cả họ, thơ Mường Mán đã là một phần của tuổi thanh xuân cần được nâng niu giữ gìn!? Nếu quả đúng như thế thì hạnh phúc cho tôi xiết bao !
Bài thơ được viết một mạch 18 đoạn trong tâm thế "nhập đồng", sau lắm mùa xuân hạ thu đông " thất tình đại hiệp" khoác mưa, đội nắng, cõng trăng, nuốt gió, ngậm sương lê mòn chẳng biết bao nhiêu đôi guốc mức dọc những ngã đường trong ngoài thành nội, qua đò về đò Thừa Phủ, Cồn Hến, xuôi Vỹ Dạ ngược Kim Long... mơ có ngày được cùng o nớ o tê theo nhau về như sáo sang sông, nhu chuồn chuồn có đôi có cặp. Bài tình đầu ngỡ ngây ngô ngượng ngùng ngập ngừng ngớ ngẩn không ngờ được lắm bạn đọc đồng cảm, tin cậy, đón rước, cho chọn lòng mình làm quê hương lâu đến thế
Thoáng chốc mấy mười năm đã trôi qua,bài thơ vẫn còn nán lại như hạnh phúc của bao đôi lứa do nó bắc cầu mãi còn đó, mong bạn xem Qua Mấy Ngõ Hoa nhu là món quà tác giả riêng tặng những mối tình đầu nghìn lần thơ dại, vạn lần trong trẻo của bao đôi lứa đã,đang và sẽ đi qua mặt đất muôn màu này.(Mường Mán)
QUA MẤY NGÕ HOA
chim vỗ cánh nắng phai rồi đó
về đi thôi o nớ chiều rồi
ngó làm chi mây trắng xa xôi
mắt buồn quá chao ơi là tội
tay nhớ ai mà tay bối rối
áo thương ai lồng lộng đôi tà
đường về nhà qua mấy ngõ hoa
đừng có liếc mắt nhìn ong bướm
có chi mô mà chân luống cuống
cứ tà tà ta bước song đôi
đi một mình tim sẽ mồ côi
tóc sẽ lệch đường ngôi không đẹp
để tóc rối cần chi phải kẹp
nắng sẽ chia nghìn sợi tơ huyền
buộc hồn o vào những cánh chim
bay lên đỉnh lòng anh ngủ đậu
cứ mím môi rứa là rất xấu
o cười tươi duyên dáng vô cùng
cho anh nhìn những hạt răng xinh
anh sẽ đổi ngàn ngày thơ dại
mi khẽ chớm nghĩa là sắp háy
háy nguýt đi giận dỗi càng vui
gót chân đưa guốc mộng bồi hồi
anh chợt thấy trần gian quá chật
không ngó anh,răng nhìn xuống đất
đất có chi đẹp đẽ mô nờ?
theo nhau từ hôm nớ hôm tê
anh hỏi mãi răng o không nói
tình im lặng:tình cao vời vợi
hay nói ra sợ dế giun cười
sợ phố ghen đổ lá me rơi
sợ chân bước sai hồi tim nhip ?
cứ khoan thai rồi ra cũng kịp
vạn mùa xuân chờ đón chung quanh
vạn buổi chiếu anh vần lang thang
vẫn theo o về giờ tan học
từ bốn cửa đông tây nam bắc
tới bốn mùa xuân hạ thu đông
theo nhau về như sáo sang sông
như chuồn chuồn có đôi có cặp
chim chìa vôi chuyền cành múa hát
trên hư không ve cưới mùa hè
o có nghe suốt dọc đường về
sỏi đá gọi tên người yêu dấu
hoa tầm xuân tím hoang bờ giậu
lòng anh buồn chi lạ rứa thê!
nón nghiêng vành nắng chết đê mê
anh mê sảng theo chiều tắt chậm
chiếu đang say vì tình vừa ngấm
hai hàng cây thương nhớ mặt trời
chiều ni về o nhớ thương ai
chiều ni về chắc anh nhuốm bệnh
thuyền xuôi dòng ngẩn ngơ những bến
anh như là phố đứng trông mưa
anh như là quế nhớ trầm xưa
sợ một mai o qua mất bóng
một mai rồi tháng năm sẽ lớn
o nguôi quên những sáng trời hồng
o sẽ quên có một người mong
một kẻ đứng dọc đời trông đợi
còn nhớ chi ngôi trường con gái
lớp học sầu, ô cửa, giờ chơi
cặp sách quăng mô đó mất rồi
vì o bận tay bồng tay bế
chuyện hôm nay sẽ thành chuyện kể
những lúc chiều đem nắng sang sông
o bâng khuâng nhè nhẹ hỏi lòng
mình nhớ ai mà buồn chi lạ!
chim vỗ cánh nắng phai rồi đó
về đi thôi o nớ chiều rồi
ngó làm chi mây trắng xa xôi
mắt buồn quá chao ơi là tội
Ông Thợ có đọc cuốn Vân Đồ Lục Truyện (Cloud Atlas) chưa ? Tôi đang đọc. Nhưng hình như thể loại này ông chắc không thích.
Các hồn linh qua lại thời gian như phù vân lang thang trong trời rộng. Phù vân hình tướng sắc thái luôn đổi thay, vẫn là mây đi rong. Linh hồn cũng vậy. Ai nói được chổ đi đứng của mây, hoặc linh hồn sẽ là ai sau này?
(Vân Đồ Lục Truyện)
Souls cross ages like clouds cross skies, an’ tho’ a cloud’s shape nor hue nor size don’t stay the same, it’s still a cloud an’ so is a soul. Who can say where the cloud’s blowed from or who the soul’ll be ‘morrow?
(Cloud Atlas)
Thú thực là chưa ông Gió ạ .Nhưng tôi có tham dự một buổi trực tiếp xem tinh linh nhập vào một người ở Tibet ,tinh linh thú nhận là đã lang thang trong cõi này 5000 năm rồi mà chưa siêu thoát
Tôi có đặt câu hỏi là ở một cõi mà không có ý niệm gì về thời gian sao biết được 5000 năm .Tinh linh không trả lời .Thực ra thời gian có lẽ chỉ là ý niệm .Borges một trong bốn trụ cột văn chuơng Châu Mỹ La tinh có viết một truyện ngắn rất sâu sắc .Mở đầu bằng giai thoại thiền
Có vị thiền sư trong lúc nấu cơm chờ cơm chín bèn ngồi nhập định
.Khi ông xả thiền để ăn cơm có biết đâu rằng đã 300 năm trôi qua
hihi... ông hỏi câu quá căn bản lám sao tính linh trả lời được :) Ông mánh thật. Có một vị thầy kể tôi ông gặp một vong hồn cô gái nào đó (trong lúc mơ hay định tôi không nhớ rõ) cô ấy kể chuyện bị chết, ông thầy nghe xong rồi hỏi -- nếu cô chết rồi thì sao vẫn còn đây?
Vâng, tôi cũng rất nghi ngờ thời gian chỉ là ý niệm.
Bác Thợ làm nhớ tới câu Có nụ hôn nào tim không đau. Xưa ở cùng phòng với anh bạn là kiến trúc sư yêu một cô có cái tên rất độc: Trần Đình Ngô Mây. Mẹ cô ấy đặt tên con với ý nghĩa một đám Mây nhà họ Ngô đáp vào nhà họ Trần (nghe anh ấy giải nói vậy).
THẺ VÀNG
Có một lần anh ngỏ ý yêu em
Mới nửa nụ hôn, cờ trọng tài đã thổi
Em quay đi anh biết mình đã quá vội
Cứ ngu ngơ như vừa nhận thẻ vàng.
Chín mươi phút trên sân
Có giây nào dành để kêu oan?
Sáu mươi năm yêu thương
Trái tim rỗng nên bao giờ cũng dại
Để đời người nhàu nát những ăn năn.
Thà rằng anh bị đuổi thẳng ra sân
Thôi chạm phải, thôi va vì bóng không tròn nữa.
Hết giận, hết yêu vì trái tim đã vỡ
Nhưng giữ cho mình một nửa nụ hôn.
Đằng này anh như kẻ mất hồn
Sợ tỏ tình như sợ tranh cướp bóng
Không phải vì anh không yêu em cháy bỏng
Mà sợ vụng về nhận thêm thẻ thứ hai
Em là em. Còn anh là ai?
Sao tình yêu lại quá nhiều luật lệ
(Một quả bóng nhiều người tranh đến thế?
Cướp được rồi có giữ được đâu?)
Thảm cỏ bình yên tiềm ẩn trận ba đào
Bạo lực – chấn thương – thẻ vàng – thẻ đỏ
Có tình yêu nào không sóng gió?
Có nụ hôn nào tim không đau?
Anh một cầu thủ mới toe, có rõ hiểu luật đâu
Chỉ đến với em bằng nhiệt thành và khát khao
Còn tình yêu như trọng tài sẵn sàng thổi phạt
Biến anh thành kẻ khác, chẳng phải anh
Phạm lỗi một lần, tình yêu quá mong manh
(Chắc em hiểu vì sao anh lo sợ)
Khán giả ơi, tôi chẳng còn xông xáo nữa
Vì bị thẻ ngay từ phút đầu tiên…!
Nguyễn Trung Kiên
Bài này hồi sinh viên cô ấy tặng anh ấy, anh ấy tặng tôi rồi tôi đem tặng lại cô bồ (sau khi bị cô ấy đá... hè hè)
Tình yêu thuở ban đầu sao mà e ấp, lo ngại. Lúc nào cũng nghĩ rằng mình nói ra không chừng sẽ mất. Nàng: sao anh không nói anh yêu em sớm hơn ?. Chàng: anh sợ nói ra rồi em không chấp nhận thì anh sẽ mất luôn em. Và hôm nay thì nàng đã bước lên xe hơi về chốn xa. Chàng chỉ còn đứng nhìn theo mà lòng thấy ngơ ngác.
Đâu có nhiều người may mắn làm quen 1 phát là tra gông vào cổ ngay :)
https://www.youtube.com/watch?v=UWemMnrH528
Ông mà cũng còn nỗi niềm này hay sao ? Tưởng đã quá quen với những thề thốt chim chuột thì làm sao còn có cái cảm giác ấy
https://1-ps.googleusercontent.com/s...Q5zFSp814.webp
Ra đi hay trở về con tàu đều ngừng lại trước sân ga. Sân ga cũ bạc màu theo thời gian vẫn còn đó. Biết bao hình ảnh, biết bao mùi vị quen thuộc hòa quyện vào nhau, dường như không thay đổi. Sân ga lưu giữ khối tình si của lữ khách, người đi từ mùa thu xưa, trở về tận cuối thu nay. Sân ga với hồi còi rền rĩ bao giờ cũng khiến một thoáng gió vào làm mắt cay, bao giờ cũng khiến lòng người như tan biến trong khói sương mờ của hàng cây buồn rủ, đứng dọc theo đường rầy hun hút, nhìn sự hợp tan tan hợp có trong đời. Lữ khách bỗng dưng nghe nặng nỗi sầu, hỏi lòng mới biết mái lầu trăng qua. Tiếng còi âm sắc phong ba. Con tàu sương gió đồng ca lên đường. Bụi mờ ga nhỏ viễn phương. Trông lên cõi mộng vô thường buồn tênh! Trên thiết lộ chỉ thấy nương gió hồn mây gọi bóng hình, cành sương lá đọng ảo hồn trinh. Sắc tàn thạch thảo dường tâm định, rủ cánh tàn phai vẫn nặng tình.
J’ai cueilli ce brin de bruyère.
L’automne est morte souvien-t’en.
Nous ne nous verrons plus sur terre.
Odeur du temps Brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends"
"L’Adieu." Guillaume Apollinaire.
"Đã hái nhánh kia một buổi nào
Ngậm ngùi thạch thảo chết từ bao
Thu còn sống sót đâu chăng nữa
Người sẽ xa nhau suốt điệu chào
Anh nhớ em quên và em cũng
Quên rồi khoảnh khắc rộng xuân xanh
Thời gian đất nhạt mờ năm tháng
Tuế nguyệt hoa đà nhị hoán tam."
"Mùa Thu Chết." Bùi Giáng dịch
Lìa cành hoa tắt thở. Em dần xa không ngờ. Mùi hương ngàn thương nhớ. Ta còn đây vẫn chờ. Cho dẫu người đã về xưa cùng gió thu xưa. Là quên là thôi không còn nhớ nữa. Nhưng lữ khách vẫn mong có buổi tương phùng. Cung đàn buông lơi. Giòng nhạc bổng trầm. Tiếng hát lên cao,
âm vang khuấy động linh hồn kỷ niệm:
"Ta ngắt đi một chùm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!
Mùa Thu đã chết, em nhớ cho.
Mùa Thu đã chết, em nhớ cho.
Mùa thu đã chết, đã chết rồi.
Em nhớ cho! Em nhớ cho.
Đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa!
Trên cõi đời này, trên cõi đời này.
Từ nay mãi mãi không thấy nhau.
Từ nay mãi mãi không thấy nhau…"
"Mùa Thu Chết." Phạm Duy
Hái nhành thạch thảo run tay. Mùa thu đã chết não ngày di hoa. Em đi tỉnh mộng trăng tà. Chiều dương thế lạnh bóng và anh đau!
Có mùa thu nào lá vàng ngưng khô héo. Có mùa thu nào ngọn gió chẳng sắt se. Có mùa thu nào thời gian thôi quạnh vắng. Có mùa thu nào tiếng còi âm sắc phong ba không khiến đường rầy ga nhỏ ngó lui, bóng người sương khói sầu thui đêm tàn. Sự ồn ào tất bật của sân ga, người đến và đi, người lên và xuống, lữ khách nào hay biết. Đôi mắt đăm đắm nhìn vào hư không, chỉ thấy:
"Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo
Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em.
Vẫn chờ em, vẫn chờ em. Vẫn chờ… Vẫn chờ…đợi em!"
Mang thần khí linh thiêng của trời và đất, thu vào đời gieo niềm thương nỗi nhớ, khiến cõi người ta không thể nào quên: L’Adieu-Mùa Thu Chết! Thu khúc buồn rơi thấm hồn hoa, vàng khô lá rụng giữa sơn hà. Âm dương cung bậc trầm thăng ngả, phách nhịp lòng son thạch thảo hòa. Biến tấu nào vang cho đêm dài thêm hoài niệm. Dấu lặng nào ngưng để quán vắng hiu hắt sầu giăng. Nửa khuya tàn chậm tình ơi, thời gian bán dạ nhịp đời ngàn thương. Nửa khuya tàn chậm mê đường, chim kêu ảo mộng tầm dương gọi người.
"Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó…"
"Mùa Thu Chết." Bùi Giáng dịch
Chú Tý năm nay đã ngoài 50 rôi tặng chú bài này
https://hieuminh.files.wordpress.com...b157.jpg?w=950
Khi đã lớn tuổi, thì con người được nhiều tự do hơn, được thong thả hơn để sống. Không còn phải như em bé bị cha mẹ ép buộc, bây giờ thì muốn làm chi thì làm, muốn thức khuya dậy sớm gì, cũng chẳng còn ai la mắng dọa nạt, rầy la. Nếu vợ vì thương, sợ mất sức khỏe, thì cũng cằn nhằn chút chút thôi, mình không nghe thì cũng chẳng bị roi đòn gì.
Không còn phải khổ công học tập, lo lắng cho tương lai mai sau, chẳng phải học thêm chi cho mệt trí, biết quá nhiều, biết quá đủ rồi. Nếu đã nghỉ hưu, thì học thêm làm chi. Nếu còn đi làm, thì cũng đã rành nghề, quen tay quen việc, làm việc dễ dàng.
Khi già tình yêu cũng không còn là mối bận tâm, không quan trọng quá, chưa nghe báo đăng các cụ già trên dưới sáu mươi tự vẫn chết vì thất tình. Tội chi mà chết vì tình trong tuổi già, vì cũng sắp thấy Diêm Vương rồi, việc chi mà đi sớm hơn. Khôn quá rồi, chết vì tình yêu là nông nỗi.
Đời sống tình cảm của tuổi già êm đềm hơn, ít đau đớn ít sôi động, và bình lặng. Tuổi già rồi, các ông không còn tính chuyện mèo mỡ lăng nhăng, khỏi phải lo lắng sợ vợ khám phá ra chuyện giấu giếm mà nhà tan cửa nát. Đỡ tốn tiền quà cáp, đỡ tốn thì giờ lui tới các nơi bí mật. Hồi hộp, đau tim. Các bà khỏi phải lo chuyện đi đánh ghen, không còn cần phải chăm chút nhan sắc làm chi nữa, vì như chiếc xe cũ rệu, có sơn phết lại cũng xộc xệch, cũng méo mó. An tâm và chấp nhận, thì khỏi băn khoăn mà vui.
Cũng có một số ít những cặp vợ chồng già đem nhau ra tòa chia tay, vì khi già cả hai đều trở thành khó tính. Hậu quả của ly dị trong tuổi già không trầm trọng như khi còn trẻ, vì con cái đã lớn, đã tự lập, không còn ảnh hưởng nhiều đến tương lai chúng và tương lai của chính mình. Vì còn sống bao lâu nữa mà lo lắng chi cho nhiều. Xa được ông chồng khó tính, độc tài là mừng. Dứt được bà vợ đanh đá, bạc ác là phải sung sướng. Khỏe trí.
Tuổi già, cố giữ cho còn có nhau, khi đã đến nước ly dị, thì hai bên đều đúng, đều có lý. Đây là hành động tự cứu mình, và cứu người ra khỏi cảnh khổ lúc cuối đời, khi mà mộ bia đã thấp thoáng trước mắt, không còn bao nhiêu ngày nữa.
Có điều ít ai nghĩ đến, là càng già, thì càng dễ tìm một người bạn đời để nối lại, để an ủi nhau trong tuổi xế chiều. Vì chung quanh họ, có thiếu chi người đứt gánh nửa đường. Chồng chết, vợ chết, ly dị. Vấn đề là không sao tìm được một người có chung nhiều kỷ niệm, nhiều tình nghĩa, nhiều chia sẻ như người phối ngẫu cũ.
Tình già cũng nhẹ nhàng, thong thả, ít khổ đau, ít sôi nổi hơn tình khi còn trẻ trung. Sức lực cũng có còn bao nhiêu mà ghen tương nhau chi, mà lo lắng chi cho thêm mệt, những người lớn tuổi kinh nghiệm và biết rõ như vậy. Nhiều người trẻ, sau khi gia đình tan vỡ thì xuống tinh thần, uống ruợu đánh bài tìm quên, đôi khi không phải vì họ quá thương yêu người cũ mà tự hủy hoại đời mình, mà chính vì họ tự thương thân, tự ái bị xúc phạm, và rồi sa lầy vào ruợu chè cờ bạc. Người lớn tuổi thì suy nghĩ khác. Họ nghĩ rằng ta cũng đã gần đất xa trời rồi, có sống thêm bao lâu nữa mà sầu khổ cho mệt. Mất củ khoai lang, thì kiếm củ khoai mì bù vào.
Tuổi già biết giá trị tương đối của tình yêu nên không tìm tuyệt hão, không tìm lý tưởng, và nhờ vậy không bị thực tế phũ phàng làm vỡ mộng, đau khổ. Khi già rồi, có ai hỏi tuổi, thì cũng không cần giấu diếm, không cần sụt đi năm bảy tuổi làm chi. Sướng lắm. Vì có sụt tuổi, cũng không giấu được những nếp nhăn, mà chẳng có ích lợi gì. Nếu tự cọng thêm cho mình chừng chục tuổi, thì không chừng được thiên hạ nức nở khen là còn trẻ, trẻ quá, và họ mơ ước được như mình.
Các ông có vợ đẹp, khi lớn tuổi cũng đỡ lo bọn dê xồm dòm ngó, lăm le dụ dỗ vợ mình. Con người, ai mà không nhẹ dạ, ai mà không ưa lời nói ngon ngọt êm tai, ai mà không có khi thiếu sáng suốt. Vợ chồng cũng có khi bất hòa, buồn giận nhau, và những khi nầy, lòng người dễ chao đảo lắm. Bởi vậy, các ông đỡ nghe các bà hăm he ly dị, hăm he bỏ nhau. Tuổi nầy các bà cũng thừa khôn ngoan để biết những tên ngon ngọt, hứa hẹn nhiều, thường chỉ là những tên phá đám, chứ không thể tin tưởng được.
Đàn bà có chồng hào hoa, đẹp trai, khi lớn tuổi cũng bớt lo, vì các ông cũng bớt máu nóng, bớt chộn rộn và khôn ngoan hơn thời trẻ trung. Biết kềm chế hơn, và biết rõ giá trị hạnh phúc gia đình cần gìn giữ hơn là chơi ngông.
Tuổi già, vợ chồng sống chung với nhau lâu rồi, chịu dựng nhau giỏi hơn, quen với cái thói hư tật xấu của nhau. Không còn thấy khó chịu nhiều nữa. Dễ dung thứ cho nhau, chấp nhận nhau, vì họ biết rõ bên cạnh cái chưa tốt của người bạn đời, còn có rất nhiều cái tốt khác.
Vợ chồng, khi đó biết bao nhiêu là tình nghĩa, bao nhiêu kỷ niệm, bao nhiêu thân thiết, cho nên hạnh phúc hơn, vui hơn.
Tình yêu trong tuổi già thâm trầm, có thì giờ bên nhau nhiều hơn, chia sẻ nhiều hơn. Cũng có nhiều ông bà già ưa cãi vã nhau, cũng dễ hiểu, khi đó tai của cả hai ông bà đều lãng, người nầy nói một đường, người kia hiểu nẻo khác, cho nên buồn nhau giận nhau, không gây gổ sao được?
Tuổi già, thì tất cả mộng ước điên cuồng của thời trẻ trung đã tan vỡ, đã lắng xuống, không còn khích động trong lòng, không còn thao thức nhức nhối. Họ biết sức mình đến đâu, và không tội chi mà ôm cao vọng cho khổ thân. Họ còn biết thêm rằng, nếu những cao vọng điên cuồng ngày xưa mà có thành đi nữa, thì e cũng chỉ là hư không, chẳng đáng gì.
Khi tuổi già, thì biết khôn ngoan mà an phận, biết vui với bình thường. Biết đâu là hạnh phúc chân chính. Nhiều người già rồi mới tiếc suốt một thời son trẻ không biết sống, phí phạm thời gian theo đuổi những huyễn mộng, làm đau khổ mình, làm điêu đứng người khác.
Tuổi già, vui khi thấy mình hết nông nỗi, nhìn đời bằng cái tâm tĩnh lặng hơn. Ai khen không hớn hở mừng, ai chê không vội vã hờn giận. Vì biết rõ mình không có gì xuất chúng để thiên hạ khen nịnh. Và biết mình cũng có nhiều cố tật không chừa được, đáng chê. Chê thì chê, khen thì khen. Khen cũng thế, mà chê cũng thế, thì ta vẫn là ta, là một kẻ già, đáng được khoan thứ hơn là trách móc.
Lúc nầy, không còn muốn làm giàu, không bị con ma tham lam thúc bách để kiếm và tích trữ cho nhiều tiền nhiều bạc. Con cái cũng đã lớn, không phải chi tiêu nhiều thứ, thì tiền bạc, chỉ cần đủ sống thôi, cũng là thỏa nguyện. Họ cũng không cần se sua, tranh hơn thua với ai, tinh thần họ vui vẻ, dễ chịu và khỏe khoắn hơn.
Mối lo âu về tài chánh cũng nghẹ gánh. Bởi khi đó, nhiều người đã tích trữ được một số tiền nhỏ. Nhà cửa cũng đã có. Nợ nhà, nợ xe cũng ít đi, hoặc không còn nữa. Con cái cũng đã lớn, không còn là gánh nặng cho mình. Chúng nó đã có nghề nghiệp, đã làm ăn được. Chắc chắn tương lai chúng khá hơn mình nhiều. Người già không chi tiêu nhiều, ăn cũng ít đi rồi, chơi cũng không còn phung phí dại dột như tuổi trẻ.
Khi già, thời gian mới là thực sự của mình, vì không còn phải chạy ngược chạy xuôi kiếm sống nữa. Không còn bị bó buộc bởi trách nhiệm bổn phận. Có thể ngồi mơ mộng hàng giờ trên ghế đá công viên, thưởng thức thiên nhiên tuyệt thú, có thể tìm được an bình tuyệt đối, không như thời còn trẻ, đi nghỉ mát, mà thỉnh thoảng cũng bị công việc nhà ám ảnh, nhắc nhở.
Tuổi già về hưu, là một mong ước của gần như của tất cả mọi người. Nhiều người gắng làm sao kiếm cho nhiều tiền để dược về hưu sớm hơn. Nhiều thanh niên, ngày về hưu còn xa lắc, xa lơ mà vẫn mơ ước. Người Mỹ, trẻ già chi cũng nghĩ đến hưu trí. Hưu trí trong tuổi già là một phần thưởng của tạo hóa, của xã hội. Cho sung sướng, nghỉ ngơi. Già là nghỉ ngơi, là khỏe khoắn.
Mỗi buổi sáng nằm dài trên giường, sáng nào cũng là chủ nhật trong tuần, muốn dậy lúc mấy giờ cũng được, muốn nằm cho đến trưa đến chiều cũng không sao. Nằm thoải mái, không ai chờ, ai đợi, không có việc gì gấp gáp phải làm, ngoại trừ cái bọng tiểu nó thúc giục, không cho mình nhịn lâu thêm được nữa. Thế thì sao mà không sung sướng?
Nếu chưa về hưu, còn đi làm việc, thì cái tâm của người lớn tuổi cũng nhẹ nhàng, ít bị những sức căng, bị áp lực đè nén. Vì tài chánh cũng quan trọng, nhưng không quá quan trọng đến nỗi khi thất nghiệp thì mất xe, mất nhà, mất vợ mất con như những người còn trẻ. Khi này, nhiều thứ trong cuộc sống đã ổn định, nhu cầu tiền bạc cũng không quá nhiều. Vả lại, già rồi, kinh nghiệm công việc nhiều, cho nên giải quyết mọi sự trong dễ dàng, thong thả.
Bạn đồng sự cũng có chút nể nang, phần vì tuổi tác, phần vì kinh nghiệm. Có trường hợp, còn có việc thì tốt, mất việc thì mừng hơn, vì có lý do chính đáng để về hưu cho khỏe. Vì nếu việc có hoài, việc lại dễ dàng, thì tiếc, không muốn về hưu. Tuổi lớn, không cần thăng tiến, không cần đua chen với ai, cho nên tinh thần thoải mái, được bạn bè chung quanh thương mến hơn. Những người về hưu rồi, trở lại làm việc, thì đi làm, như đi chơi, chứ không phải "đi cày" như nhiều người khác quan niệm. Vui thì làm tiếp, chán thì về nhà nghỉ ngơi.
Người lớn tuổi, thì sức khỏe xuống, bệnh hoạn ồ ạt đến tấn công, không ai thoát khỏi bệnh hoạn. Nhưng họ lại cảm được cái sung sướng của một ngày khi bệnh thuyên giảm. Một ngày khi cảm thấy gân cốt ít nhức mỏi hơn, dễ chịu trong từng khớp xương hơn. Ngưới trẻ đâu có thấy được những nỗi sung sướng này? Vì họ chưa kinh nghiệm, chưa trải qua, nên chưa biết. Họ có sức khỏe, nhưng họ không biết đó là sung sướng, cho nên, xem như chẳng có giá trị gì. Anh chị xem, nếu anh chị có một tảng ngọc to bằng cái bàn nằm trong vườn, mà anh chị không biết đó là chất ngọc, thì không biết quý, không biết mình sung sướng có tảng ngọc, mà chỉ quý và sướng vì viên ngọc nhỏ xíu nằm trên chiếc nhẫn mà thôi. Có người viết sách rằng, tuổi già, buổi sáng ngủ dậy, nghe xương cốt đau nhức mà mừng, vì biết mình chưa chết. Tôi thêm rằng, biết mình còn sống là mừng, biết mình đã chết nhẹ nhàng, càng mừng hơn.
Nầy anh chị có nhớ câu chuyện Thượng Đế khi đuổi tổ phụ loài người là ông Adam và bà Eva xuống trần gian, có chỉ mặt mà phán : “Từ nay chúng mi phải đổ mồ hôi trán mới có hạt cơm vào mồm”. Đó là câu nguyền rũa độc địa nhất, là lời phán ý nghĩa nhất, là con người phải sống trong nhọc nhằn. Sách Phật cũng có viết đời là đau khổ, và tu để tránh khổ. Đó, đời nầy đáng sống lắm, nhưng cũng nhiều khổ đau lắm. Bởi vậy nên tôi nói, được sống là mừng, mà được chết, cũng mừng. Tôi đi đám ma ông bạn già, thấy gia đình khóc lóc, rên rỉ thảm thương, con cháu mếu máo kể lể. Tôi cười trong bụng, nghĩ rằng bọn nầy không biết luật của tạo hóa. Có sinh thì có diệt. Chúng nó muốn thân nhân của chúng sống đời đời sao? Biết đâu chỉ là khởi điểm của một cuôc rong chơi. Nầy, tôi đọc cho anh chị nghe một đoạn thơ của anh bạn tôi:
Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó ...
Ai thay da mãi mãi sống muôn đời ?
Kẻ trước, người sau xếp hàng xuống mộ,
Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi ...
Khi tuổi già, thì xem cái chết như về. Ai không phải chết mà sợ. Sống qua khỏi tuổi năm mươi, là đã lời lắm. Tuổi trung bình của con người trên thế giới này chưa được con số năm mươi.Thì mình nên tự xem như được sống thêm đời thứ hai.
Đời trước đã hoàn tất, có cả khổ đau lẫn hạnh phúc. Đời sau nầy, thì chắc chắn là sung sướng hơn hạnh phúc hơn đời trước. Vì đã từng trải, đã gom được kinh nghiệm của đời trước, để thấy đâu là hạnh phúc chân thật, đâu là phù du huyễn hão. Chết là về. Nhưng chỉ sợ không về được đến nơi đến chốn, mà như chiếc xe hư máy dọc đường. Làm khổ chủ xe, bắt nằm liệt mê man, không sống mà cũng không chết, đó mới là cái đáng sợ. Tôi biết vậy, nên đã làm di chúc, khi nào tôi bị mê ba ngày, thì xin rút ống cho tôi đi. Đi về bình an.
Này, anh chị nghĩ sao về ông bác sĩ mà người ta đặt cho tên là bác sĩ tử thần? Già rồi tôi không nhớ rõ tên, hình như ông ta tên là “Ki-Vô-kiên” (Kevokian -- THD) phải không? Cái tên gần gần như vậy. Theo tôi, thì ông nầy là một vị Bồ Tát, cứu độ cho chúng sinh mau qua khỏi khổ đau, để bị ra tòa, bị tù tội. Chỉ có cái tâm Bồ Tát thật lớn mới làm được việc đó. Tôi cố tìm một cái ảnh ông ta để thờ sống, mà không có. Tôi nghĩ, trong tương lai, luật pháp sẽ không ngăn cấm việc cho người đau đớn ra đi sớm hơn, vì đàng nào cũng chết, tại sao phải kéo cái đau đớn ra dài hơn mới được chết. Trừng phạt người ta hay sao?
Trong tuổi già, người ta biết ơn sự nhiệm mầu của tạo hóa. Có bộ máy nào, không phải là gang thép, bạch kim, mà chạy một mạch sáu bảy chục năm không ngưng nghỉ, mà vẫn còn hoạt động như quả tim, buồng phổi, trái thận, cái bao tử, não bộ. Có hệ thống ống dẫn nào hoạt động sáu bảy chục năm mà chưa thay thế như các mạch máu của hệ thống tuần hoàn. Thì dù có rò rỉ van tim, chất mỡ đọng nghẹt trong vài ba mạch máu, thì cũng là sự thường tình, và mừng là còn sống, còn sinh hoạt được. Dù có phải liền liền đi vào cầu tiểu mỗi ngày nhiều lần, thì họ vẫn sung sướng là cái vòi xài mấy chục năm mà vẫn chỉ mới rò rỉ sơ sơ. Mấy cái vòi nước trong nhà, bằng kim khí cứng, không rỉ sét, thế mà năm bảy năm đã phải thay rồi..
Và khi lớn tuổi con tim bớt rung động hơn, lạnh lùng khô khan hơn, đâu có mềm yếu ướt át như hồi trẻ. Cũng vì không mềm yếu ướt át nên làm thơ tình rất khó. Lạnh lùng mà buông câu tình tứ được ư ?!.
Bông Thạch Thảo
Giơ tay với ngắt chùm hoa Thạch Thảo
Thu đã già thôi hẩy gió hanh hao
Tiếng còi xưa thét tự hôm nào
Hình dáng cũ ra vào đâu thấy
Lòng anh đó em ơi vẫn vậy
Dù tương phùng chỉ bấy nhiêu thôi
Sân ga tầu khuất dạng rồi
Khói theo mây trắng nổi trôi hững hờ
Đêm tàn chưa nhạt giấc mơ
Nương dâu bãi bể ỡm ờ sắc không.
Thơ: Phihuong_BKH
Em xin cám ơn bác Lâm nhiều. Bài nói về cuộc sống con người của bác thật ý nghĩa. Như có nhiều phần dính vào bổn mạng của em, và của nhiều người nữa, có thể.
Em đã chứng kiến 1 bà Na-Uy làm chung và thân với em lắm. Bà này ly dị khi đã sống chung 35 năm với chồng. Thấy bả buồn và em chỉ khuyên vài câu . Bả cũng 60 rồi. Rồi thì em cũng thấy ông Việt Nam cùng quận, trên 50, con cái trưởng thành hết, ly dị đi VN cưới bồ nhí thua ông ta 20 tuổi. Bây giờ vợ mới của ổng không còn sống chung nữa. và lại có nhiều cặp xung quanh cứ theo nhau kéo ra tòa ly dị. Em đã nói vời vợ em: người ta ly dị dể dàng thấy ham qúa. Vợ em hỏi : vậy anh có muốn ly dị không?. Em trả lời: nếu bắt buộc thì không tránh khỏi, nếu tránh được thì không cần phải ly dị....
Cuộc sống có những điều đáng qúy trọng, những điều nên tôn trọng, những vấn đề thuộc về trách nhiệm. Rồi thì những suy nghĩ tích cực, bao dung. Luôn nghĩ tốt và không làm điều xấu ( điều sai ).... . Chà, được vậy sẽ thoải mái lắm bác nhỉ :)
Hay quá bác Phi và bác Thợ. Không biết dùng lời nào để diễn tả chỉ thấy lòng lâng lâng, man mác. Mối tình đầu và mùa thu dường như là 2 thứ mang đến cảm xúc mãnh liệt nhất đối với con người, nhất là những kẻ đa tình...
Tuần sau ta lại quảy ba lô về nhà. Công việc đã kết thúc. Bỏ qua nhiều lời mời mọc ta vẫn quyết chí thong dong...
Nhìn bức tranh của bác Lâm cháu nhớ đến một bài hát. khổ quá lại một bài hát bác ạ :botay .
Nó găn liền với gây phút chia tay nơi sân ga chật chội tiếng cười, lại gợi buồn với bài thơ Mùa Lá Rụng trong một bài viết cháu được đọc qua. Mùa hoa Thạch Thảo cũng cùng với mùa lá rụng vào đông, khiến bầu trời thu u ám với những hạt mưa lất phất rơi nhẹ bên hiên cửa.
Mùa Lá Rụng (Olga Berggoltz)
Mùa thu ở Mátxcơva
người ta thường treo những tấm biển trên các đại lộ,
với dòng chữ: "Tránh đừng động vào cây, mùa lá rụng"
Những đàn sếu bay qua. Sương mù và khói toả.
Matxcơva lại đã thu rồi!
Bao khu vườn như lửa chói ngời,
Vòm lá sẫm ánh vàng lên rực rỡ
Những tấm biển treo dọc đại lộ
Nhắc ai đi ngang dù đầy đủ lứa đôi
Nhắc cả những ai cô độc trong đời:
"Tránh đừng động vào cây, mùa lá rụng!"
Ôi trái tim, trái tim của một mình tôi
Đập hồi hộp giữa phố hè xa lạ
Buổi chiều kéo lang thang mưa giá
Khẽ rung lên bên khung cửa sáng đèn
Ở đây tôi cần ai khi xuôi ngược một mình?
Tôi có thể yêu ai? Ai làm tôi vui sướng?
"Tránh đừng động vào cây, mùa lá rụng"
Nhắc suốt đường cũng chỉ bấy nhiêu thôi!
Nếu không có gì ao ước nữa trong tôi
Thì có nghĩa chẳng còn gì để mất
Anh từng ở đây, từng là người thân nhất
Sao phút này làm người bạn cũng không?
Tôi chẳng hiểu sao cứ ngùi ngẫm trong lòng
Rằng sẽ phải xa anh vĩnh viễn
Anh - con người không vui, con người bất hạnh
Con người đi cô độc quá trong đời
Thiếu cẩn trọng chăng? Hay chỉ đáng nực cười?
Thôi, hãy biết kiên tâm, mọi điều đều phải đợi
Dịu dàng quá, dịu dàng không chịu nổi
Mưa thầm thì rơi mãi lúc chia ly
Mưa tối rầm nhưng ấm áp nhường kia
Mưa run rẩy trong ánh trời chớp loá...
Anh hãy cố vui lên dù con đường hai ngả
Tìm hạnh phúc bình yên trong ấm áp cơn mưa!...
Tôi ra ga, lòng lặng lẽ như xưa
Một mình với mình thôi, chẳng cần ai tiễn biệt
Tôi không biết nói cùng anh đến hết
Nhưng bây giờ còn phải nói gì thêm!
Cái ngõ nhỏ con đã tràn ngập màu đêm
Những tấm biển dọc đường càng thấy trống:
"Tránh đừng động vào cây,
mùa lá rụng..."
(Người dịch: Bằng Việt)
Nguồn cảm hứng của bài thơ hiện giờ cháu thấy vẫn còn sảy ra tranh cãi, bác Lâm có biết không ạ ?
J'entends Siffler Le Train
Bức tranh :Train dans la neige của họa sĩ nổi tiếng người Pháp Claude Monet.
hehe ... Ông Tý "sửa" thơ của tôi đấy à ? Thường nghe nói nhà thơ, nhà văn, nhà báo hay dối lòng lắm, họ viết vậy mà không phải vậy. Ông xem lại bài thơ ở trang bên, nhạc sĩ Nguyễn Duy nói "anh nhớ em" đến sáu bảy lần, không biết ông có nhớ nhiều đến thế không ?. Hình như thơ cứ chắp nối với những từ 'nhớ nhiều, yêu nhiều, tương tư và bâng khuâng nhiều' thì phổ nhạc dễ hơn thì phải.
Bài thơ " Mùa lá rụng" bản dịch Bằng Việt này một thời cũng làm em thổn thức, vậy mà giờ đọc thấy vô cảm quá. Bản dịch đầy chất thơ đấy, đẹp lắm nhưng chỉ có điều nguyên tác muốn nói một đằng ông Bằng Việt lại truyền tải đến người yêu thơ Olga Berggoltz một nẻo.Cái nẻo của Bằng Việt nó nhỏ nhen hơn, không cao thượng, không đẹp và dữ dội như nguyên tác.
Cám ơn Huyền và ông trinhson đã hồi đáp .Thơ cũng tuỳ vào sở thích thưởng ngoạn ,tuỳ thời điểm thưởng thức lúc này thấy hay khi khác lại chán .Có khi thấy vợ mình đẹp có lúc lại ngầm than thở -Ngày xưa nó bỏ bùa mê hay sao mà người thế này mình cũng thề thốt yêu suốt đời được
Thơ ông Phi ngoài cái hay về ý tưởng lại thấy được cái khéo của tu từ .Ông là người sành hát nói nên tiết tấu trong thơ biến đổi liên tục ,hai câu 8 kéo dài nỗi buồn 4 câu 7 nói lên cái gập ghềnh của hồn mình ,đang khúc khuỷu trúc trắc lại óng ả mượt mà với lục bát yêu dấu .Cứ một câu sáu lại một câu tám khiến lòng thổn thức không nguôi