Kết quả 521 đến 530 của 1253
Chủ đề: Cà Phê Đen III
-
04-09-2014, 01:56 AM #521
Tôi nhìn tấm hình của bác Lâm nói là thấy không giống bình thường. Là tại vì cây trồng mà không thấy 1 hạt cát, hạt bụi, hạt nước rơi vãi nên hỏi bác Lâm, ông chủ vườn này qủa thật là cao thủ trồng cây. Ha ha, bị bác Lâm cho 1 cây rồi
Nhà cô như là nông trại rồi, còn gì. Bên này tôi chỉ trồng xà lách xon ( watergress )thôi. Vì trồng 1 lần mà ăn được cả mùa nắng luôn. Cây cải bẹ xanh thì năm nay tôi không để lại được cho nên hết rồi. Có năm bận quá thì tôi mua mấy cây xà lách ngoài chợ về ăn lá, để dành cái rể cắm ngoài vườn chờ ra lá non thì haí lá ăn cũng đỡ lắm.Cầm lên được tất bỏ xuống đươc.
-
Post Thanks / Like - 7 Thích, 0 Không thích
-
04-09-2014, 02:00 AM #522
-
Post Thanks / Like - 8 Thích, 0 Không thích
-
04-09-2014, 03:09 AM #523
Nhà em có trồng đc vài cóng cây nhưng vì trồng trong nhà nên cũng phải làm những cái thau to đựng bên trong những hộp mì ăn liền, những cái hộp sữa chua và những hộp rau nấm bằng nhựa ăn xong là mang ra tiện ích hết ạ
.
Nhưng cũng vì trồng trong nhà nên khá sạch sẽ, tưới nước sạch nên không bụi bặm gì ra nhà cả. Cái khó nhất bên này là không được phép làm dây nước ra bàn, ra sàn nên những chậu cây trồng trong nhà tuyệt đối phải có thau đựng bên ngoài hứng nước. hoặc như những bình dầu ăn to có thể không cần đục lỗ thoát nước, cứ tưới vừa đủ là ổn bác nhỉ.Kẻ thực sự hào hoa tiêu một đồng trông vẫn thấy thích
-
Post Thanks / Like - 9 Thích, 0 Không thích
kysoai, ChienKhuD, Tontu, tramphungchau, dangtrang90, trung_cadan, PhiHuong, 6789, Thợ Điện đã thích bài viết này
-
04-09-2014, 04:42 AM #524
Đi sứ mà không để nhục mệnh vua
Ngày xưa khi vua chọn các cụ đi sứ đều rất thông minh, giỏi biện luận,rành ngoại ngữ ,khả năng tuỳ cơ ứng biến là tuyệt vời .Sử sách còn ghi lại nhiều giai thoại xuất chúng .Ngày nay các cụ đi sứ luôn có trong tay một xấp giấy để đọc .Đọc hết rồi về ,chẳng có biện luận ,thuyết phục ,tranh luận gì hết thì làm gì còn có cái phong thái Đi sứ mà không để nhục mệnh vua
Quan sát các vị đi sứ và các vị chính khách ở ta ra nước ngoài tôi có cảm tưởng họ thiếu một kĩ năng quan trọng mà tiếng Anh gọi là communication skills. Tôi chưa biết dịch chữ này sang tiếng Việt như thế nào, nhưng theo cách hiểu bằng tiếng Anh, “communication skills” không chỉ đơn giản là nói và viết mà còn kĩ năng biện luận. Các chính khách ta hình như thiếu kĩ năng tranh luận và hùng biện.
Thật ra, quan sát thì sẽ thấy các ngài đi sứ luôn có một sấp giấy để một bên ghế salon. Phải nói rằng trong cái bầu không khí khá thân mật, mà ông cầm tờ giấy đọc thì bầu không khí trở nên trang nghiêm. Ngay cả hành vi đọc tự nó làm cho khán giả nghĩ đến các sứ đọc sớ trước thiên tử là kẻ đang ngồi nghe. Nó làm cho người nghe không còn muốn tranh luận hay trao đổi cái gì, bởi vì người đang ngồi đối diện chỉ là người đọc những gì do ai viết ra chứ không phải của chính anh ta. Nếu thế thì mình nên nói chuyện với tác giả chứ đâu cần nói chuyện với người đưa tin. Nói gì thì nói, hành động đọc đó không đẹp chút nào.
Tôi không biết các bạn thì sao, chứ với tôi đi dự một hội nghị hay một buổi tiếp xúc mà “diễn viên chính” cứ cậm cụi đọc tờ giấy nó rất chán. Chẳng những chán mà còn khó chịu và xúc phạm. Khi người ta cầm tờ giấy đọc, người ta không chú ý đến mình là khán giả, và thế là gây ra một khoảng cách tinh thần giữa người đọc và người nghe. Hành vi đọc còn có thể diễn giải như là một cách xem thường khán giả vì người đó chẳng quan tâm đến truyền đạt thông tin nữa, và thế là khán giả cảm thấy mất thì giờ để tham dự buổi họp. Khi người cầm giấy đọc thì lúc đó anh chị ta đã tự biến mình thành một reader [người đọc] chứ không phải là một speaker [người thuyết trình], và như thế thì người đó đã đánh mất vai trò của mình.
Tôi nghĩ một phần khác có lẽ là do giáo dục. Chúng ta lớn lên với nền giáo dục nửa phong kiến, nửa hiện đại. Học trò không được khuyến khích có chính kiến riêng và không được học kĩ năng tranh luận. Rồi khi lớn lên một số bị cái guồng máy nhào nặn thành một con người khác chứ không phải là chính mình nữa. Ngược lại, một trong những kĩ năng quan trọng mà hệ thống giáo dục ở các nước phương Tây như Mĩ và Úc rất quan tâm là rèn luyện kĩ năng communication và khuyến khích có chính kiến riêng. Học trò tiểu học đã được khuyến khích tranh luận các vấn đề xã hội. Có trường sáng tạo bằng cách chia lớp học ra hai đảng, một đảng cầm quyền và một đảng đối lập, và học trò giả bộ làm đại biểu hai bên để tranh luận về một vấn đề thời sự. Đến khi lên trung học và đại học, các em đã quen với phát biểu chính kiến, và cảm thấy thoải mái với thói quen đó. Do đó, khi trưởng thành họ đã quá quen với văn hoá tranh luận.
Tôi nghĩ các chính khách ta rất cần kĩ năng communication, kể cả kĩ năng nói và thuyết phục đối tác. Họ cần phải học chứ không thể tự nhiên mà có được. Họ nên học kĩ năng communication từ các chuyên gia từ phương Tây, đặc biệt là Mĩ. Chỉ khi nào các chính khách xuất hiện trong hội họp nước ngoài không còn cầm tờ giấy thì lúc đó công chúng mới an tâm.
-
Post Thanks / Like - 9 Thích, 0 Không thích
kysoai, ChienKhuD, Tontu, dangtrang90, PhiHuong, huyenmapu, 123456, vuminh999999, 6789 đã thích bài viết này
-
04-09-2014, 01:38 PM #525
Thế này mà quay lưng thì phí của giời, nhưng hứa là chấp nhận thôi.
Cầm lên được tất bỏ xuống đươc.
-
Post Thanks / Like - 7 Thích, 0 Không thích
-
05-09-2014, 01:32 AM #526
Mông cổ tây chinh
Sau khi Mông Cổ lập quốc, giới quý tộc Mông Cổ dưới sự lãnh đạo của Thành Cát Tư Hãn đã không ngừng phát động những cuộc chiến tranh xâm lược, chủ yếu đem quân đánh xuống phía nam và sang phía tây, mục tiêu chủ yếu ở phía nam là Nam Tống và triều Kim, nửa thế kỷ 13, đem quân sang phía tây gây chiến chủ yếu là với Tây Á và Đông Âu. Mông Cổ đánh sang phía Tây tổng cộng 3 lần, lần thứ nhất vào năm 1218 ,1219 đến 1224 dưới sự chỉ huy của Thành Cát Tư Hãn, lần thứ hai từ 1235 đến 1242 do Bạt Đô chỉ huy, và lần thứ ba từ 1253 đến 1258 do Húc Liệt Ngột chỉ huy. Thành Cát Tư Hãn và những người kế thừa ông đã vô cùng dũng mãnh lập vũ công chinh phục các vùng đất Âu Á, khiến Mông Cổ trở thành trung tâm xây dựng nên Khâm Sát Hãn Quốc, Khâm Hợp Đài Hãn Quốc, Oa Khoát Đài Hãn Quốc, Y Lợi Hãn Quốc tập hợp thành một đế quốc rộng lớn trải dài trên lục địa Á Âu.
Cơn bão Tây chinh
Năm 1219 Thành Cát Tư Hãn đã quét sạch tàn dư của tộc Nãi Man, tiêu diệt Hoa Lạt Tử Mô, một cường quốc ở phía Tây, mượn tiếng Hoa Lạt Tử Mô giết thương nhân và sứ giả Mông Cổ, đem hai mươi vạn quân Tây chinh. Bốn người con của ông là Thuật Xích, Sát Hợp Đài, Oa Khoát Đài, Đà Lôi và đại tướng Tốc Bất Đài, Triết Biệt cùng tiến quân. Sau khi quân Mông Cổ đánh thẳng vào Trung Á, năm 1220, đánh vào Tán Mã Nhĩ Can, thủ đô của Hoa Lạt Tử Mô, Quốc vương phải bỏ chạy, Thành Cát Tư Hãn lệnh cho Tố Bất Đài, Triết Biệt đuổi theo. Quân Mông Cổ vượt qua Cao Gia Tố tiến vào lưu vực sông Đốn Hà, tiến quân vào châu Âu. Năm 1223 xảy ra trận quyết chiến ở Gia Lặc Gia Hà, liên quân Đột Quyết và Nga La Tư đại bại, hầu như toàn bộ các vương công của Nga La Tư đều bị bắt giết. Thành Cát Tư Hãn lại đưa quân đuổi theo thái tử Trát Lan Đinh của Hoa Lạt Tử Mô tại lưu vực sông Ấn Độ, bị đánh bại, quân Mông Cổ tập hợp trở về.
Sau khi Thành Cát Tư Hãn mất những cuộc Tây chinh của quân Mông Cổ không dừng lại. Năm 1234 Nguyên Thái Tông Oa Khoát Đài triệu tập hội nghị các chư vương đại thần, quyết định kế thừa sự nghiệp của Thành Cát Tư Hãn, tiếp tục Tây chinh. Oa Khoát Đài cử quân chia cắt rồi đánh Ba Tư (nay là I răng) và Khâm Sát, Bất Lý A Nhi, sau đó đã chinh phục được hoàn toàn Ba Tư.
Năm 1235 do quân tiến công vào Khâm Sát bị ngăn cản, Oa Khoát Đài quyết định phái đại quân tăng viện cho quân Tây Chinh, con của Thuật Xích là Bạt Đô, con của Sát Hợp Đài là Bái Đáp Nhi, con của Oa Khoát Đài là Quý Do, con của Đà Lôi là Mông Ca cùng các chư vương Na Nhan, con trưởng của công chúa phò mã cũng tham gia cuộc viễn chinh này, do Bạt Đô thống lĩnh chư quân, mang hiệu “Trưởng tử Tây chinh” . Năm sau, quân sĩ tập hợp Tây chinh, tiến công Bất Lý A Nhĩ ở trung du sông Phục Nhĩ Gia, đại tướng Tốc Bất Đài chinh phục được Bất Lý A Nhĩ. Năm 1237, quân Mông Cổ tiến công Khâm Sát, Mông Ca giết được đại tướng Xích Man, khu vực phía bắc Lý Hải đã bị quân Mông Cổ chiếm đóng. Bạt Đô mang quân đánh vào Nga La Tư, cuối năm 1237 đánh 14 thành trong đó Lương Tán, Mạc Tư Khoa, tháng 2 năm 1238, đánh Phất La Cơ Mễ Nhĩ, trong năm này đánh cả Cơ Phu. Năm 1240, quân Mông Cổ tiến công Bột Liệt Nhi ( nay là Ba Lan), Mã Trát Nhĩ (nay là Hung ga ri). Tháng 4 năm 1241, quân Mông Cổ lại đánh chiếm các thành La Khoa Phu, Lý Cách Nhĩ Sát bao gồm cả Ma La Duy Á. Bạt Đô thân chinh dẫn quân chia làm hai đường đánh bại quân Mã Trát Nhi, Quốc vương bỏ chạy, quân Mông Cổ đã đánh chiếm bờ đông biển Lý Á cho đến vùng đất Nam Âu. Cuối năm ấy, Oa Khoát Đài chết trong chiến đấu, Bạt Đô đem quân từ Ba Nhĩ Can trở về lưu vực sông Phục Nhãi Gia, đưa Tán Lai đến xây dựng Khâm Sát Hãn Quốc cạnh sông Phục Nhĩ Gia.
Năm 1253, con của Đà Lôi là Húc Liệt Ngột lần thứ ba viễn chinh, hướng chủ yếu của cuộc Tây chinh lần này là phía nam Tây Á, mục tiêu đầu tiên là tiêu diệt Mộc Lạt Di Quốc (nay là bắc I răng, nam biển Caxpi). Tháng 10, Húc Liệt Ngột đem quân xâm nhập phía tây I răng, tiến xuống lưu vực Lưỡng Hà, mục tiên chính là Mộc Lạt Di Quốc (nay là I răng). Húc Liệt Ngột mang theo nỏ đá và hoả khí, vượt qua A Lực Ma Lý, Tán Mã Nhĩ Hãn, đến thành Kiệt Thạch, Ba Tư, kêu gọi các vua Tây Á hiệp đồng tiêu diệt Mộc Lạt Di.
Năm 1256, Húc Liệt Ngột dẫn đại quân Mông Cổ vượt sông A Mỗ, tháng 6 đến Mộc Lạt Di. Tướng tiên phong Mông Cổ Khiếp Đích Bất Hoa đánh chiếm các lều trại ở bên ngoài Mộc Lạt Di, giáng cho chúng những đòn trầm trọng Lôc Khắc Na Đinh, thủ lĩnh Mộc Lạt Di trước tình thế bị quân Mông Cổ vây ép cử em là Sa Hâm Sa xin hoà. Húc Liệt Ngột yêu cầu Lỗ Khắc Na Đinh phải tự dẫn quân đầu hàng, nhưng Lỗ Khắc Na Đinh nghi ngờ nên không quyết định. Tháng 11,Húc Liệt Ngột ra lệnh cho quân Mông Cổ tiến công mãnh liệt. Lỗ Khắc Na Đinh buộc phải đầu hàng. Quân Mông Cổ chiếm được đô thành A Lạp Mô Thức Bảo (nay là nam Lý Hải). Đầu năm 1257 Lỗ Khắc Na Đinh bị quân Mông Cổ giết chết, người cùng tộc cũng bị giết, Mộc Lạt Di hoàn toàn thuộc về quân Mông Cổ.
Tháng 3 năm 1257, Húc Liệt Ngột tiếp tục Tây chinh tiến thẳng đến Ba Cách Đạt, thủ đô của Hắc Y Đại Thực. Lúc đó, vương triều A Ba Tư do Ca Lý Phát Mạc Tư Tháp Tân chấp chính, trực tiếp thống trị Hắc Y Đại Thực, lại quản lý toàn bộ thế giới đạo Ixlam, là một cường quốc trong lưu vực Lưỡng Hà. Cuối năm 1257, Húc Liệt Ngột, Bái Trú mang quân chia làm ba đường vây Ba Cách Đạt, đầu năm thứ hai, ba quân hợp vây, tổng tiến công vào Ba Cách Đạt, quân Mông Cổ dùng pháo đá bắn vào thành Ba Cách Đạt, , cửa thành bị pháo lửa phá huỷ. Tháng 2, Mạc Tư Tháp Tân Cáp đầu hàng, Húc Liệt Ngột công hãm Ba Cách Đạt, quân Mông Cổ trong thành đánh suốt 7 ngày, Mạc Tư Tháp Tân Cáp bị chết, vương triều A Ba Tư diệt vong. Húc Liệt Ngột tiếp tục đưa quân về phía tây.Từ Tây Á, tiến thẳng về Đại Mã Sĩ Cách, thế lực đã uy hiếp Tây nam Á. Ở đó, quân Mông Cổ bị quân Ai Cập đánh bại, Húc Liệt Ngột mới buộc phải dừng tiến về phía Tây, ở lại Thiếp Tất Lực Ân, xây dựng Y Lợi Hãn Quốc.
Tứ đại Hãn Quốc
Mông Cổ Tây chinh thắng lợi nguyên nhân chủ yếu là do chiến lược từ gần đến xa, sách lược liên tục chiếm lĩnh, lấy Mông Cổ làm trung tâm của sa mạc lớn, mở rộng không ngừng ra bên ngoài. Về chiến thuật, kỵ binh Mông cổ được gọi là là kỵ binh rất giàu sức tưởng tượng, họ có rất nhiều những phương pháp chiến đấu mới lạ, được coi là kỵ binh số 1 của thiên hạ, tiêu chuẩn trang bị của họ là giáp da trâu, cung tên, rìu ngắn và đơn cấu thương. Trong cuộc vây hãm liên quân Nhật Nhĩ Mãn và Ba Lan, Thiết Mộc Chân đều đã chỉ huy những trận đánh điển hình có tính chất kinh điển.
Nổi bật là những trận đánh ở thành Bội Tư, thủ đô Hung Gia Lợi, lúc đó ở châu Âu, người ta thích ra trận nhiều đội quân, trong tiếng chuông giáo đường , bộ binh và kỵ binh được trang bị đầy đủ nối đuôi nhau ra trận, người Mông Cổ có tác phong tiên tiến, khi gặp quân chủ lực của địch sẽ phân tán, dùng cung tên ngăn sự truy đuổi của địch. Quân Mông Cổ bắn cung giỏi, nhưng khi gặp kỵ binh của châu Âu có áo giáp tốt, không thể dùng cung tên thì họ đã dùng rìu ngắn để chém và câu thương để kéo, móc xuống ngựa, rồi sau đó giẫm đạp cho đến chết.
Quân đội Mông Cổ còn chú trọng học tập kỹ thuật quân sự của người Hán, dùng thợ người Hán để chế tạo pháo lớn, đề cao ưu thế chiến thuật, lúc Tây chinh, họ tập trung ưu thế binh lực, từ các chư vương đến con trưởng đều ra trận, như khi Bạt Đô Tây chinh toàn là các con trưởng . Oa Khoát Đài cho rằng “ con trưởng ra trận, người ngựa khắc nhiều, uy thế khắc mạnh”.
Gần một nửa thế kỷ từ năm 1219 đến năm 1258, đế quốc Mông Cổ qua 3 lần Tây chinh lần lượt đã chinh phục được cả một vùng đất rộng lớn, trên đó, họ xây đựng 4 Hãn Quốc, đó là Sát Hợp Đài Hãn Quốc, Oa Khoát Đài Hãn Quốc, Khâm Sát Hãn Quốc và Y Lợi Hãn Quốc., hình thành một đế quốc rộng lớn chưa từng có trong lịch sử thế giới.
Bản chất Hãn của tứ đại hãn quốc là sự phân phong của đế quốc Mông Cổ cho 4 thủ lĩnh quân sự tối cao, có quan hệ bảo vệ và phiên thuộc của trung ương, trực tiếp phụ trách các Đại Hãn. Sau đó, các tập đoàn thống trị Mông Cổ để tranh giành ngôi Đại Hãn đã làm cho các mâu thuẩn trở nên gay gắt, làm gia tăng các thiếu sót vốn có và những quan hệ kinh tế có lợi giữa các Hãn Quốc, khiến cho nội bộ nước Mông Cổ ngày càng phức tạp, chính trị hỗn loạn đi tới chỗ tan rã.. Trong đó, hai hãn Quốc Khâm Sát và Y Lợi đã theo con đường phát triển độc lập. Oa Khoát Đài Hãn Quốc, do Oa Khoát Đài và con ông được chọn làm Đại Hãn, lãnh địa do trung ương quản lý, thực tế chưa hình thành một Hãn Quốc độc lập. Hãn đình của Sát Hợp Đài Hãn Quốc đặt tại sông Y Lê, vùng đất này cùng với cao nguyên Mông Cổ hợp thành một dải, về chính trị cũng cùng với vương triều trung ương có mối liên hệ mật thiết và phụ thuộc. Sau khi Mông Ca Đại Hãn lên ngôI, đặt Thượng thư tỉnh ở cách Sát Hợp Đài Hãn Quốc tám dặmm quản lý vùng đất từ Uý Ngột Nhi đến Hà Trung. Sau đó Sáy Hiợp Đài Hãn Quốc cũng nhận làm tay chân của vương triều trung ương. Tất nhiên, nó cũng giống như Oa Khát Đài Hãn Quốc là một bộ phận hợp thành lịch sử Trung Quốc.
-
Post Thanks / Like - 11 Thích, 0 Không thích
kysoai, ChienKhuD, Tontu, tramphungchau, dangtrang90, LêMinhKhuê, Aty, huyenmapu, 6789, trung_cadan, PhiHuong đã thích bài viết này
-
05-09-2014, 09:38 PM #527
Bảo Kiếm Anh Hùng
Hiệp khách hành
Triệu khách mạn hồ anh,
Ngô câu sương tuyết minh.
Ngân an chiếu bạch mã,
Táp đạp như lưu tinh.
Thập bộ sát nhất nhân,
Thiên lý bất lưu hành.
Sự liễu phất y khứ,
Thâm tàng thân dữ danh.
Bài ca về người hiệp khách
Khách nước Triệu phất phơ giải mũ
Kiếm Ngô Câu rực rỡ tuyết sương
Ngân yên bạch mã huy hoàng
Vó câu vun vút như ngàn sao bay
Cách mười bước giết người chẳng trật
Ngàn dặm xa vùng vẫy mà chi?
Việc xong rũ áo ra đi
Ẩn thân rừng núi kể gì tiếng tăm
Kiếm được coi là một trong những loại vũ khí lâu đời nhất thế giới. Trong 18 ban võ nghệ, kiếm đứng ở hàng quan trọng nhất. Những thanh bảo kiếm đã trở thành một phần lịch sử võ học Trung Hoa và được gắn với những thanh kiếm huyền thoại…
Một trong những thanh kiếm đầu tiên chính là Thái A bảo kiếm. Tương truyền thanh kiếm này được một thợ rèn ở Giang Tô đúc thành. Nước kiếm sắc ngọt, chém sắt như bùn. Thái A bảo kiếm sau đó được dâng cho Tần Thuỷ Hoàng và sau khi Tần vương nhất thống thiên hạ đã cho cắm thanh kiếm báu này trên núi Trâu Tịch để tế cáo trời đất và được coi như một bảo vật trấn quốc.
Tuy nhiên thanh kiếm nổi danh thời đó lại là Long Tuyền kiếm do Âu Dã Tử, một thợ rèn kiếm nổi tiếng Trung Hoa thời cổ làm ra. Trong lần ngao du, ông đã thấy mạch nước Long Tuyền trên núi Tần Khê (Chiết Giang) có ánh sắc kim khí. Biết nơi đây có quặng sắt quý, ông cho xẻ núi và lấy được một mảnh "thiết anh" (sắt tốt). Được Sở Vương giúp đỡ, ông đã dồn hết tinh lực luyện nên Long Tuyền kiếm dài ba thước sắc như nước dâng cho Sở Vương. Long Tuyền kiếm nổi tiếng đến mức sau này qua lăng kính văn học mọi thanh kiếm đều được gọi là Long Tuyền và cụm từ "tay vung ba thước Long Tuyền kiếm" đã trở thành một khẩu ngữ quen thuộc.
Nước Ngô và Việt thời Xuân Thu cũng là những nước có nhiều truyền thuyết về những thanh kiếm báu nhất. Vua Hạp Lư đã từng cho người rèn những thanh bảo kiếm như Ngư Trường, Chúc Lâu và Trạm Lư. Ba thanh kiếm này tương truyền cũng là do Âu Dã Tử rèn thành. Hiện nay ở Phúc Kiến vẫn còn chiếc ao tên là Âu Dã, đó là nơi Âu Dã Tử đã rèn nên bộ ba bảo kiếm trên.
Thanh Ngư Trường, Hạp Lư giao cho Chuyên Chư đâm chết Ngô Vương Liêu và trở thành vua nước Ngô. Sau đó Hạp Lư cho rằng thanh Ngư Trường luôn mang đến điềm gở nên cho người giấu đi.
Thanh Chúc Lâu sau này được con Hạp Lư là Ngô Phù Sai dùng trong một việc vô cùng ngu dại. Khi Tướng quốc nước Ngô là Ngũ Tử Tư cảnh báo Phù Sai về mối họa nước Việt, thì Phù Sai lúc đó đã bị sắc đẹp khuynh thành của Tây Thi và những mưu mẹo của hai mưu thần nước Việt là Phạm Lãi và Văn Chủng làm cho mê muội nên đã bắt Ngũ Tử Tư dùng thanh kiếm này mà tự vẫn. Sau này đúng như dự đoán của Ngũ Tử Tư, quân đội Việt đã tràn sang quét sạch nước Ngô. Việt Vương Câu Tiễn giết chết Phù Sai và chiếm được thanh bảo kiếm Trạm Lư và Chúc Lâu. Sau khi báo thù, Phạm Lãi sớm biết được bản chất của Câu Tiễn nên bỏ đi Ngũ Hồ, ông viết thư để lại cho Văn Chủng: "Vua Việt dáng môi dài mỏ quạ, là người nhẫn tâm mà ghét kẻ có công, cùng ở lúc hoạn nạn thì được chứ lúc an lạc thì không được, nếu ngài không đi, tất có tai vạ". Quả nhiên sau đó Việt Vương Câu Tiễn vì ghen ghét tài năng xuất chúng của Văn Chủng, sợ bị cướp ngôi nên đã trao cho Văn Chủng thanh Chúc Lâu, Văn Chủng tự hiểu ý, cay đắng cầm bảo kiếm tự sát. Còn thanh Trạm Lư? Tương truyền khi chết, vì quá yêu thanh bảo kiếm này nên Câu Tiễn đã sai chôn theo mình.
Tuy nhiên bộ đôi kiếm thư hùng nổi tiếng nhất Trung Hoa và cũng có nguồn gốc ly kỳ nhất lại là song kiếm Can Tương-Mạc Tà Theo "Ngô Việt Xuân Thu" thì Can Tương là một người luyện kiếm tài danh người nước Ngô thời Xuân Thu. Sau ba mươi ngày trèo non lội suối, Can Tương đã tìm ra được một quặng sắt vô cùng quý giá và cho dựng lò luyện kiếm. Luyện trăm ngày mà quặng sắt chẳng chịu chảy ra, vợ ông là Mạc Tà thấy thế hỏi, Can Tương trả lời: "Kim loại này phải có nhân khí mới tan được". Nghe vậy Mạc Tà tắm gội sạch sẽ, rồi nhảy vào lò luyện kiếm, kim loại tan ra và Can Tương rèn được hai thanh bảo kiếm. Vua Hạp Lư đòi ông phải dâng kiếm báu, ông đưa cho nhà vua thanh Can Tương, nhưng sau đó Hạp Lư đòi nốt thanh Mạc Gia. Sau khi nước Ngô bị tiêu diệt, thanh Mạc Tà cũng biến mất.
600 năm sau, tể tướng nước Tần là Trương Hoa bỗng thấy ở huyện Phong Thành có ánh kiếm quang rực rỡ, ông sai nhà địa lý giỏi nhất là Lôi Hoàn đến tìm hiểu. Lần theo mạch đất, Lôi Hoàn tìm được một hộp đá, bên trong là hai thanh bảo kiếm ghi chữ Can Tương và Mạc Gia. Lôi Hoàn giấu đi thanh Can Tương, chỉ dâng lên Trương Hoa thanh Mạc Tà . Một hôm khi hai người đi thuyền trên sông, bỗng hai thanh kiếm đeo trên người rơi tuột xuống sông. Trương Hoa vội cho thợ lặn xuống tìm kiếm báu. Lặn qua tầng nước, thợ lặn hết hồn vì thấy dưới lòng sông có đôi rồng đang vểnh râu nhìn. Từ đó hai thanh Can Tương và Mạc Tà coi như mất tích.
Ngoài những thanh bảo kiếm đã biến mất, cũng có những thanh kiếm lưu lạc khắp nơi và tạo thành những truyền thuyết khác. Tương truyền Long Tuyền kiếm sau này đã lọt vào tay của Cao Biền (đời Đường). Khi đi cai trị Việt Nam, Cao Biền đã cho chôn Long Tuyền kiếm vào Long mạch nước Nam ở… làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho bây giờ. Sau này vào ngày 28/3 năm Canh Ngọ (1930), đức Hộ Pháp của đạo Cao Đài là Phạm Công Tắc đã mang bùa xuống nơi chôn Long Tuyền kiếm để ẩn trị thanh kiếm này, khai thông long mạch cho Việt Nam (hiện nay Hộ Pháp Phạm Công Tắc vẫn còn tượng thờ ở Toà Thánh Tây Ninh).
Năm 1965, tại Lã Vọng Sơn tỉnh Hồ Bắc, người ta tìm thấy mộ của Việt Vương Câu Tiễn và tìm thấy thanh Trạm Lư. Các nhà khoa học thấy thanh kiếm này đã được mạ crom (hợp chất chống gỉ) và theo kiểm tra phóng xạ thì thanh Trạm Lư có 9 nguyên tố hoá học khác nhau. Sau hơn 2.000 năm, thanh Trạm Lư vẫn sáng bóng và sắc như nước. Một thanh kiếm khác cũng được tìm thấy ở khu khảo cổ này là thanh Tê Lợi (tương truyền là do Mạc Gia đúc). Soi phóng xạ người ta thấy trong thanh kiếm này còn có chất wolfram, một chất hiếm mà mãi sau này người châu Âu mới tìm ra.
-
Post Thanks / Like - 10 Thích, 0 Không thích
kysoai, tamthaplucke, 6789, huyenmapu, trung_cadan, PhiHuong, Aty, LêMinhKhuê, 123456, ChienKhuD đã thích bài viết này
-
05-09-2014, 10:53 PM #528
Đúng là Kiếm-Cung đọc thấy sướng quá. Không biết thật bao nhiêu phần trăm nhưng xem mấy lần rồi vẫn mê.
Bận lòng chi nắm bắt
-
Post Thanks / Like - 6 Thích, 0 Không thích
-
06-09-2014, 12:09 AM #529
He he, tương truyền đó mà. Sự thật có lẻ cũng đôi ba phần.
Híc, ông chồng mua GÁI về, lấy bia cho ả tắm rồi quăng ả ta vào lò luyện kiếm : không được. Bà vợ của ổng vì thương chồng mà hy sinh nhảy vào lò luyện kiếm, đem ngay ông chồng bỏ vào lồng heo, đưa vào lò luyện kiếm càng sớm càng tốt. Đàn ông tầm bậy.Cầm lên được tất bỏ xuống đươc.
-
Post Thanks / Like - 6 Thích, 0 Không thích
-
06-09-2014, 01:47 AM #530
Bác Tý nhạy cảm thế nhỉ ? chỉ được mỗi cái thương hoa, tiếc ngọc là tài, giả dụ quăng cả bình Bìm Bịp vào lò luyện Kiếm cũng chưa chắc đã xót ruột như thế đâu.
-
Post Thanks / Like - 6 Thích, 0 Không thích
Cà Phê Đen III
Đánh dấu