Kết quả 1 đến 6 của 6
			
		Chủ đề: Bàn Chân của Bích Khê!
Threaded View
- 
	12-07-2012, 11:11 AM #4
 
		Khi đọc thơ Bích Khê, chúng ta không thể đọc như một bài thơ cổ điển hoặc thơ mới, vì Bích Khê không làm thơ theo logique truyền thống, nghiã là thơ phải có mạch lạch có nghiã, mà nên đọc thơ ông như xem những bức tranh, khi ấn tượng, khi lập thể, khi siêu thực, khi trừu tượng... có thêm phần nhạc đệm.
Giao cảm giữa thơ và họa
Khó phân biệt được lúc nào ông dùng bút để viết, lúc nào ông vung cọ để vẽ, lúc nào ông vung đũa để đánh nhạc. Và cũng cần phân biệt nhạc trong thơ Bích Khê khác với nhạc trong thơ Hàn Mặc Tử : nhạc trong thơ Hàn là nhạc thầm trong mỗi chữ, nhạc trong thơ Bích Khê là nhạc nổi trong thanh âm lạ, âm bằng. Ở những bài thật hay, thơ Bích Khê là sự hoà âm giữa các điệu nhạc cổ, như điệu hoàng hoa, điệu mộng cầm, bằng những màu sắc tân kỳ của hội hoạ hiện đại :
Lam nhung ô ! màu lưng chừng trời ;
Xanh nhung ô ! màu phơi nơi nơi.
Vàng phai nằm im ôm non gầy ;
Chim yên eo mình nương xương cây.
Đây mùa Hoàng hoa, mùa Hoàng hoa :
Đông nam mây đùn nơi thành xa...
Oanh già theo quyên quên tin chàng !
Đào theo phù dung : thư không sang!
Ngàn khơi, ngàn khơi, ta, ngàn khơi:
Làm trăng theo chàng qua muôn nơi;
Theo chàng ta làm con chim uyên;
Làm mây theo chàng bên nhung yên.
Chàng ơi! hồn say trong mơ màng,
- Hồn ta? hay là hồn tình lang ?
Non Yên tên bay ngang muôn đầu...
Thâm khuê oan gì giam xuân sâu ?
- Ai xây bờ xanh trên xương người ?!
- Ai xây mồ hoa chôn đời tươi?! (Hoàng hoa)
Bài Hoàng hoa thể hiện rõ sự giao cảm giữa hai ngành nghệ thuật : thơ và họa. Nhà thơ như một cánh chim, bay qua các khung cảnh khác nhau, trình bày trước mắt ta những bức tranh khác nhau, trong cùng một khoảnh khắc, Vàng phai nằm im ôm non gầy / Chim yên eo mình nương xương cây / Đây mùa Hoàng hoa, mùa Hoàng hoa / Đông nam mây đùn nơi thành xa...
Những bức tranh trên đây, phần nhiều là ấn tượng, chỉ khơi gợi một cảm xúc, mà không mô tả, ví dụ, trong bức : Vàng phai nằm im ôm non gầy, chúng ta không thể thấy rõ hiện tượng vàng phai nằm im ôm non gầy, như thế nào, mà chỉ mơ hồ cảm thấy một ấn tượng nào đó.
Những câu thơ tiếp theo cũng thế : Chim yên eo mình nương xương cây, rồi đến Đây mùa hoàng hoa, mùa hoàng hoa / Đông nam mây đùn nơi thành xa, là những bức tranh gây ấn tượng lãng mạn.
Cảm tưởng mờ sương toả lên từ những bức tranh ấy, trong câu Vàng phai nằm im ôm non gầy, thì sự mờ sương toả ra ở những chữ vàng phai nằm im. Ai nằm im ? - một màu nằm im. Và màu gì ? - màu vàng. Nhưng không hoàn toàn là màu vàng mà màu vàng phai.
Ai biết và ai có thể định nghĩa được màu vàng phai ấy như thế nào, để trải sự vàng phai đó «nằm im » trên « non gầy», lại đến thắc mắc : non gầy như thế nào ? - nếu không phải là họa sĩ, thì không thể biết cách vẽ những hình ảnh ấy. Vậy sự khơi gọi hình ảnh trong thơ Bích Khê bắt nguồn từ hội hoạ, từ cách tạo ấn tượng trong lòng người xem, người đọc thơ.
Nhịp cầu kim cổ
Bài thơ Hoàng hoa, không chỉ bắc cầu giữa hội hoạ và âm nhạc, mà còn là nhịp cầu kim cổ. Hoàng Hoa, vùng đất Trung Hoa, thời Chiến quốc và đời Đường thường có «rợ» Hồ quấy nhiễu, là bãi chiến trường. Hoàng Hoa lại còn là hoa cúc vàng. Hoa cúc nở vào mùa thu, mùa của lá vàng và cũng là lúc các thanh niên thời chiến quốc, đến tuổi đi lính phải nhập ngũ, đi «quân dịch», năm sau mới trở về. Vì vậy Hoàng Hoa vừa là hoa cúc vàng, vừa là bãi chiến trường, vừa là thời đi lính.
Trong Chinh phụ ngâm có câu :
Xót người lần lữa ải xa
Xót người nương chốn Hoàng hoa dậm dài
Chữ Hoàng hoa trong Chinh phụ ngâm có hai nghiã : vừa là hoàng hoa thú (người lính thú ở chiến trường), lại còn có thể là trại cúc vàng, nơi người chinh phụ tựa cửa nhớ chồng ngoài quan ải.
Vì vậy, hai câu thơ : Đây mùa hoàng hoa mùa hoàng hoa/ Đông nam mây đùn nơi thành xa... tưởng như không có gì liên hệ với nhau, nhưng thực ra là khúc chinh phụ ngâm mới của Bích Khê, ngẫu hứng từ những câu : Xót người nương chốn Hoàng hoa dậm dài và Trống tràng thành lung lay bóng nguyệt trong Chinh phụ ngâm.
Người chinh phụ xưa, ngâm :
Thủa lâm hành oanh chưa bén liễu
Hỏi ngày về ước nẻo oanh ca
Nay quyên đã giục oanh già
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo
Thủa đăng đồ mai chưa dạn gió
Hỏi ngày về chỉ độ đào bông
Nay đào đã quyến gió đông
Phù dung lại đã bên sông bơ xờ (Chinh phụ ngâm)
Và người chinh phụ mới của Bích Khê, cất tiếng hát :
Oanh già theo quyên quên tin chàng !
Đào theo phù dung: thư không sang!
Ngàn khơi, ngàn khơi, ta, ngàn khơi:
Làm trăng theo chàng qua muôn nơi;
Theo chàng ta làm con chim uyên;
Làm mây theo chàng bên nhung yên
Và đây là cảnh chết chóc nơi chiến trường, trong Chinh phụ ngâm :
Non Kỳ mộ chỉ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn?
Trong thơ Bích Khê, trở thành những bức họa mới, pha trộn cảnh chết chóc chiến trường với những cơn mộng dữ của người chinh phụ trong khuê phòng:
Chàng ơi! hồn say trong mơ màng,
- Hồn ta? hay là hồn tình lang ?
Non Yên tên bay ngang muôn đầu...
Thâm khuê oan gì giam xuân sâu ?
- Ai xây bờ xanh trên xương người ?!
- Ai xây mồ hoa chôn đời tươi?!
Thơ Bích Khê là sự gặp nhau của hai không gian cổ điển và hiện đại, là sự hoà tan hai không gian ấy trong lòng chữ. Khi nhìn một bức tranh lõa thể, một cảnh thu, hay một vũ khúc, Bích Khê không vẽ lại những ấn tượng ấy trong hiện tại mà ông đẩy lùi chúng về hàng trăm năm, hàng ngàn năm trước, rồi mới đem chúng vào thơ. Ví dụ nhìn một điệu múa, Bích Khê viết :
Ô trời hôm nay sao mà xanh!
Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành,
Nhung mây tê ngời sao kim cương,
Dạ lan tê ngời say men hương;
Lầu ai ánh gì như lưu ly?
Nụ cười ai trắng như hoa lê?
Thủy tinh ai để lòng gương hồ?
Không gian xà cừ hay san hô? (Nghê thường)
Thơ và Ánh sáng
Vũ điệu trong thơ không còn là một vũ điệu trước mắt ta nữa mà đã trở thành vũ điệu nghê thường của một Đắc Kỷ, Bao Tự... trên cung Quảng hàn. Những khơi gợi ấy, đến từ ánh sáng, một thứ ánh sáng mơ hồ huyền ảo của đêm trăng giữa ban ngày :
Ô trời hôm nay sao mà xanh!
Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành.
Nhung mây tê ngời sao kim cương,
Trong luồng sáng huyền ảo ấy, một đoá lan đem mùi hương lạ đến chia thế giới làm hai : thế giới của ánh sáng và thế giới của bóng tối qua một chữ dạ (nghiã là đêm). Dạ lan tê ngời say men hương. Rồi tiếp theo đó là một chuỗi những ánh sáng lạ khác :
Lầu ai ánh gì như lưu ly?
Nụ cười ai trắng như hoa lê?
Thủy tinh ai để lòng gương hồ?
Không gian xà cừ hay san hô?
Không thể biết những luồng sáng như ánh lưu ly, ánh hoa lê, ánh thuỷ tinh, ánh gương hồ, ánh xà cừ, ánh san hô... chiếu vào người đẹp trên lầu hay chính người đẹp trên lầu toát ra những ánh sáng huyền ảo ấy.
Tất cả bí mật ở đây nằm trong ánh sáng và thơ dựa vào ánh sáng để thành, y hệt như trong hội hoạ ấn tượng. Nhà thơ chưa vẽ, chưa đả động gì đến người đẹp, nhưng nàng đã xuất hiện : một sự xuất hiện liêu trai, mờ ảo, nghê thường, qua ánh sáng của vật chất chung quanh.
Và đó là lối tạo chân dung bằng ánh sáng trong thơ Bích Khê.(st)
 
Bàn Chân của Bích Khê!
 


				
				
				
					
  Trả lời kèm Trích dẫn
			
		

Đánh dấu