Warning: Illegal string offset 'name' in [path]/includes/functions.php on line 6845
Cảm ơn Bộ GD&ĐT đã tăng lương GV gấp 2,1 lần! ( Thầy Văn Như Cương )
Close
Login to Your Account
Trang 1 của 5 123 ... CuốiCuối
Kết quả 1 đến 10 của 45
  1. #1
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    292
    Post Thanks / Like

    Mặc định Cảm ơn Bộ GD&ĐT đã tăng lương GV gấp 2,1 lần! ( Thầy Văn Như Cương )

    Bộ trưởng: 'Lương giáo viên đã tăng gấp đôi'
    "So với năm 2006, đến nay (2010), lương giáo viên đã tăng gấp 2,1 lần, vào khoảng 2,5 - 4 triệu đồng/tháng, cao hơn so với các ngành khác", Bộ trưởng GD&ĐT Nguyễn Thiện Nhân trả lời câu hỏi của ĐBQH Nguyễn Minh Thuyết, khi ông Thuyết đề nghị Bộ trưởng cho biết kết quả thực hiện lời hứa "đến 2010 giáo viên sẽ sống được bằng lương".

    http://vietnamnet.vn/chinhtri/201006...ap-doi-914742/

    Cao hơn các ngành khác

    Bên hành lang phiên thảo luận kết quả giám sát chất lượng đại học hôm qua (7/6), Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh thiếu niên và Nhi đồng Quốc hội Nguyễn Minh Thuyết cho hay, vừa rồi ông đã gửi tới Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân một số câu liên quan đến việc thực hiện lời hứa của ông Nhân. ĐB Thuyết đã nhận được câu trả lời bằng văn bản.

    "Tôi cho đây là một cơ hội để trước khi rời Bộ Giáo dục - Đào tạo, Phó Thủ tướng giải thích những việc ngành đạt được cũng như bản thân mình đã làm được", ĐB Thuyết nói.

    Câu hỏi mà ông Nguyễn Minh Thuyết gửi đến ông Nguyễn Thiện Nhân cho phiên chất vấn cuối tuần này là: "Một số cán bộ, viên chức trong ngành và cử tri băn khoăn về việc thực hiện lời hứa của Phó Thủ tướng. Ví dụ đến năm 2010, giáo viên sống bằng lương. Rồi hiệu quả một số cuộc vận động mà Bộ trưởng đã phát động như phong trào hai không, trường học thân thiện, học sinh tích cực?".

    Không xuất hiện ở phiên chất vấn, Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân trả lời bằng văn bản: Ngay từ năm 2006, Bộ GD&ĐT đã xác định cần xây dựng đề án tăng thu nhập cho giáo viên. Bộ đề xuất phương án tăng hệ số ưu đãi trong tương quan với hệ số ưu đãi của lực lượng cũ trang (bộ đội, công an là 1,8).

    Tuy nhiên, Chính phủ đã bàn bạc và chưa chấp thuận với lý do còn phải tính đến nhu cầu tăng thu nhập của lao động làm việc trong ngành y tế, văn hoá, giáo dục và các ngành khác.

    Cũng theo Bộ trưởng, hiện nay giáo viên vẫn đang được hưởng hệ số phụ cấp đứng lớp ưu đãi với mức bình quân là 1,35. Chưa kể những ưu đãi cho giáo viên vùng đặc biệt khó khăn, các cơ sở giáo dục đặc biệt...

    Gần đây, lương giáo viên cũng đã được tăng, theo lộ trình tăng lương của Chính phủ.

    Và như vậy, so với năm 2006, đến nay (2010), lương giáo viên đã tăng gấp 2,1 lần, vào khoảng 2,5 - 4 triệu đồng/tháng, cao hơn so với các ngành khác.

    "Tuy nhiên, với nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng, mức lương này vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi tăng thu nhập thực tế cho giáo viên, nhất là khi đã có con nhỏ, đời sống của một bộ phận nhà giáo còn không ít khó khăn", Bộ trưởng thừa nhận.

    "Theo đề án đổi mới cơ chế tài chính cho giáo dục, thu nhập của đội ngũ nhà giáo sẽ tăng trong thời gian tới", ông Nhân cho biết.






    Cảm ơn Bộ GD&ĐT đã tăng lương GV gấp 2,1 lần!
    Dẫu sao cũng phải cám ơn Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tăng lương cho chúng ta gấp 2,1 lần so với năm 2006. Thế là chúng ta có thể cố mà sống bằng đồng lương của chính mình, chứ không phải bằng lương của… ai khác.

    Thầy Văn Như Cương



    Mấy năm trước, các nhà giáo chúng ta rất phấn khởi khi Bộ GD&ĐT tuyên bố “năm 2010 giáo viên có thể sống bằng lương của mình”. Tuy vậy, có người tin, có người không tin…
    Bây giờ đã là giữa năm 2010. Vừa rồi đại biểu quốc hội đã chất vấn Bộ GD&ĐT về vấn đề này và Bộ đã trả lời: So với năm 2006 thì tiền lương giáo viên năm 2010 đã tăng lên gấp 2,1 lần. Ví dụ một Giáo viên tốt nghiệp Đại học ra trường năm 2010 có mức lương 2.306.000 đồng. Nếu có thâm niên 10 năm thì mức lương là 3.300.000 đồng.
    Có giáo viên cho rằng với mức lương như thế cũng sống được, cũng có người cho rằng không sống được…

    Thưa các thầy cô giáo mới ra trường!
    Theo thiển ý của tôi thì các thầy cô hoàn toàn có thể sống bằng mức 2.306.000đ/tháng, nếu biết cách ăn tiêu cho khoa học, theo truyền thống thắt lưng buộc bụng… Sợ các thầy cô còn trẻ quá chưa có kinh nghiệm quản lí quỹ lương của mình, nên tôi muốn các thầy cô đọc mấy lời khuyên sau đây của tôi, một nhà giáo già có kinh nghiệm lâu năm trong việc sống bằng lương thầy giáo:
    Trước hết, về nhu cầu ăn, chúng ta cần thấm nhuần câu cách ngôn tuyệt vời: “Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn”. Chúng ta có thể ăn ngày ba bữa: buổi sáng 5 ngàn, buổi trưa 15 ngàn, buổi tối 15 ngàn. Thế là một ngày chi cho việc ăn là 35 ngàn, một tháng vị chi là 1.050.000 đ. Như thế cũng là khá lắm rồi, nếu chúng ta biết rằng nhiều nhà máy cho công nhân ăn bữa trưa một bát mì giá chỉ 5 ngàn mà thôi.
    Tuyệt đối không nên uống bia, uống rượu vì rất tốn tiền, rất có hại cho sức khỏe, và nhất là rượu vào lời ra ảnh hưởng đến tư thế tác phong của thầy giáo. Tốt nhất là uống nước đun sôi để nguội, mát mẻ và vệ sinh lắm.
    Sau chuyện ăn uống là chuyện ở. Cũng nên nhớ là “ăn hết nhiều chứ ở thì hết bao nhiêu” để mà đừng chi quá nhiều cho chuyện ở. Nếu chưa có nhà ở thì cố nhiên tạm thời phải đi thuê, rồi ta sẽ góp tiền dần dần để mua nhà giá rẻ. Cố tìm mà thuê lấy một căn phòng bình dân với giá khoảng 1 triệu đồng một tháng, nhưng nên rủ thêm một thầy giáo cùng giới ở chung cho vui, cho có bạn cùng đàm đạo nhân tình thế sự. Vậy là ta chỉ tốn 500.000đ cho khoản ở.
    Về phương tiện sinh hoạt và làm việc thì cũng nên mua lấy cái quạt, nhưng đừng cho nó chạy nhiều quá, phải chú ý đến tiền điện. Khoản tivi thì có thể xem nhờ nhà nào đó nếu người ta dễ tính và mến khách. Máy vi tính thì cố gắng chờ đợi, tôi tin chắc rằng đến một lúc nào đó, Bộ sẽ phát không cho thầy giáo mỗi người một cái (hôm nay đọc báo, thấy học sinh tiểu học ở Uruguay được phát không máy tính rồi). Còn khoản điều hòa nhiệt độ thì đừng nghĩ đến, đó là chuyện dành cho tương lai. Nên cố gắng chỉ chi khoảng 100.000 đ cho tiền điện, tiền nước, tiền bột giặt, xà phòng tắm, xà phòng đánh răng…
    Vấn đề trang phục nên hết sức giản dị, không nên chạy theo thời trang; nhà giáo thì phải ăn mặc đứng đắn để làm gương cho học sinh. Nên mặc quần áo mầu sẫm để đỡ tốn bột giặt. Giầy dép, áo vét , áo da… nên mua hàng Tàu giá rất rẻ so với hàng Việt.
    Nếu chưa có xe máy thì đừng mua vội. Xe đắt mà giá xăng tăng theo tốc độ lớn hơn lương tăng. Nên mua vé ô tô tháng để đi dạy, chỉ dăm chục ngàn một tháng là nhiều. Nếu không tiện thì nên mua một cái xe đạp Xuân Hòa, đi làm bằng xe đạp là cách tập thể dục tốt nhất.
    Đừng mua sách, mua báo làm gì, đến trường tranh thủ vào thư viện mà đọc báo ngay ở đó, còn sách thì mượn về nhà mà đọc.
    Đừng mua vé xem phim, xem kịch, mất thì giờ vào trò nhảm nhí, nhố nhăng… lại khổ vì nóng nực và đông người.
    Có đám tang thì nên đi vì nghĩa tử là nghĩa tận, còn đám cưới thì cố mà trốn (lấy cớ là bận dạy, hoặc bận đi họp, hoặc phải về quê…). Một tháng mà đi dự vài ba tiệc cưới là tiêu đời rồi đó.
    Một điều hết sức quan trọng là hãy cố gắng giữ gìn sức khỏe bằng cách sống điều độ và thanh đạm. Cương quyết “nói không” với đau ốm, bệnh tật…, “nói không” với bệnh viện, với bác sĩ với thuốc men…. Nếu không “nói không” như thế thì khó mà sống bằng lương.
    Với cách phân bổ quỹ luơng như trên, tính toán lại tôi thấy mỗi tháng các thầy giáo mới ra trường sẽ phải chi không đến 2 triệu đồng, vẫn còn thừa ba đến bốn trăm ngàn đồng để gửi vào sổ tiết kiệm và mua vài cái vé sổ số…
    Cố nhiên tính toán trên chỉ đúng đối với các thầy cô giáo chưa xây dựng gia đình, chưa có con cái, không phải nuôi bố mẹ già đau ốm, không phải giả tiền vay của nhà nước để học đại học, không phải đóng học phí cho em…
    Đối với các trường hợp sau thì phải điều chỉnh cho phù hợp hoàn cảnh thực tế. Chẳng hạn ăn sáng thì có thể xơi vài củ khoai lang, bắp ngô luộc, hoặc cùng lắm là một gói mì ăn liền; hai bữa ăn trưa và ăn chiều có thể giảm từ 15 ngàn xuống 10 ngàn… có nghĩa là “liệu cơm mà gắp mắm”.
    Dẫu sao cũng phải cám ơn Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tăng lương cho chúng ta gấp 2,1 lần so với năm 2006. Thế là chúng ta có thể cố mà sống bằng đồng lương của chính mình, chứ không phải bằng lương của… ai khác.

    Nhà giáo Văn Như Cương
    Nguồn Bee.net.vn





    Lời toà soạn: Chiều 15/6, một ngày trước khi Quốc hội có quyết định về nhân sự của Bộ GD-ĐT, chúng tôi nhận được bài viết của Thứ trưởng Trần Quang Qúy với tựa đề "bốn năm đổi mới giáo dục qua các con số".

    http://vietnamnet.vn/giaoduc/201006/...n-Nhan-916378/
    Bài viết hơn 2.400 chữ này điểm lại những kết quả đã được "số hóa" trong suốt 4 năm, kể từ khi GS.TS Nguyễn Thiện Nhân nắm vai trò nhạc trưởng ngành giáo dục.

    Để giúp bạn đọc thêm góc nhìn từ phía cơ quan quản lý ngành, VietNamNet giới thiệu bài viết này (dài gấp đôi so với dung lượng bài báo thông thường). Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả (các tiêu đề nhỏ và chữ in đậm được toà soạn đặt lại và trình bày nhằm giúp bạn đọc theo dõi thuận tiện).
    BỐN NĂM ĐỔI MỚI GIÁO DỤC QUA CÁC CON SỐ

    Trong những năm qua, với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, toàn xã hội và sự nỗ lực phấn đấu của toàn ngành, sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã có nhiều tiến bộ: trật tự kỷ cương trong các nhà trường được thiết lập, cơ sở vật chất được tăng cường, quy mô giáo dục được mở rộng, năng lực quản lý được nâng cao, đặc biệt, từ năm 2006 đến nay, nhiều giải pháp đã được triển khai thực hiện, trong đó có những giải pháp mang tính đột phá:
    Những con số của giáo dục phổ thông

    Trước tình hình tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục gây bức xúc trong xã hội, ngăn cản việc nâng cao chất lượng giáo dục và làm triệt tiêu động lực đổi mới và sáng tạo trong ngành, Bộ GD - ĐT đã chủ động tham mưu với Chính phủ ban hành Chỉ thị về chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục và bắt đầu từ năm học 2006-2007, toàn ngành đã tích cực triển khai thực hiện thông qua cuộc vận động “Hai không” (Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục) của ngành.

    Cuộc vận động “Hai không” là khâu đột phá để đổi mới giáo dục phổ thông và mầm non giai đoạn 2006-2010. Qua 4 năm triển khai, trật tự kỷ cương trong thi cử đã tiến bộ rõ rệt, đặc biệt là thi tốt nghiệp THPT: Số thí sinh bị đình chỉ thi năm 2007 là 2.612, thì năm 2008 chỉ còn 833, năm 2009 là 299 và năm 2010 chỉ còn 90, giảm gần 97% so với năm 2007; Số giám thị bị đình chỉ công tác coi thi do vi phạm năm 2007 là 32, năm 2008 là 15, năm 2009 là 3 và năm 2010 là 1, giảm gần 97% so với năm 2007 (trong hơn 120.000 cán bộ coi thi chỉ có 1 người bị đình chỉ); Số học sinh bị tại nạn giao thông khi đi thi cũng đã giảm: năm 2007 có 85 vụ, năm 2008 là 84 vụ, năm 2009 là 73 vụ và năm 2010 là 54 vụ, chỉ chiếm 0,005% số thí sinh dự thi (100.000 học sinh đi thi có 5 em bị tai nạn).
    Tỷ lệ tốt nghiệp THPT tăng trong bối cảnh các cuộc thi được triển khai ngày càng nghiêm túc hơn: năm 2007 tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông và bổ túc trung học phổ thông (lần 1) chỉ đạt 66,7%, có nhiều địa phương đạt dưới 50% (năm 2006 đạt 94%,); năm 2008 (lần 1) tỷ lệ tốt nghiệp là 76% (tăng hơn 9% so với năm 2007); năm 2009 tỷ lệ tốt nghiệp là 83,8% (không tổ chức thi tốt nghiệp lần 2), tăng 7,8% so với năm 2008. Với kết quả thi đã được qua 3 năm 2007, 2008, 2009, như vậy, có thể dự báo kết quả thi tốt nghiệp THPT năm 2010 sẽ đạt khoảng 90%.
    Tỷ lệ học sinh bỏ học giảm đáng kể: học kỳ I năm học 2007-2008 cả nước có 147.005 học sinh bỏ học (chiếm 0,94 %); học kỳ I năm học 2008-2009 còn 86.269 học sinh bỏ học (chiếm 0,56%), giảm 60.736 học sinh, bằng 41% so với năm học trước; học kỳ I năm học 2009-2010 còn 75.531 học sinh bỏ học (chiếm 0,51%). Như vậy, năm học 2009-2010, số học sinh bỏ học giảm 71.474 em, bằng 49% so với năm 2007. Tức là tỷ lệ học sinh bỏ học từ gần 1% năm 2007 xuống còn 0,5 % năm 2010.
    Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” có sức lan toả mạnh mẽ, đã tạo nên những chuyển biến rõ nét về cảnh quang trường lớp, về môi trường giáo dục nhân văn, về chất lượng dạy và học, về giáo dục kỹ năng sống, về gìn giữ và phát huy truyền thống lịch sử văn hoá dân tộc. Sau 2 năm triển khai thực hiện, đến nay, toàn ngành đã nhận chăm sóc 2.063 di tích lịch sử cấp quốc gia; chăm sóc và phụng dưỡng 15.810 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình thương binh liệt sỹ; trồng mới được hơn 2,2 triệu cây các loại phù hợp với điều kiện môi trường; chỉ trong vòng 2 năm học đã có hơn 8.000 nhà vệ sinh được xây mới ở các trường học cũ, số trường có công trình vệ sinh đã tăng thêm 20% so với trước, nâng tổng số trường có công trình vệ sinh là 38.893 trường đạt 96,7% trên tổng số trường trong cả nước, trong đó có 83,9% công trình vệ sinh đạt chuẩn.

    Tỷ lệ trẻ đi học mẫu giáo tăng mạnh: năm 2006 có 59% trẻ từ 3 đến 5 tuổi đi học, năm 2010 là 71 %. Tỷ lệ giáo viên mầm non đạt chuẩn năm 2006 là 78%, năm 2010 là 93%.

    Cơ sở vật chất được nâng cấp với tốc độ cao nhất từ trước đến nay: năm 2006 tỷ lệ phòng học được kiên cố chiếm 52%; năm 2010 số phòng học đã hoàn thành đưa vào sử dụng là 41.695/57.563 phòng (đạt 72,4% kế hoạch); số phòng học đang xây dựng là 14.088 phòng (đạt 24,5% kế hoạch).

    Công tác phổ cập giáo dục THCS đã được triển khai tích cực, đến tháng 6/2010 có 61/63 tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS, đạt 96,8% (năm 2006 có 30/64 tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS). Như vậy, toàn quốc sẽ hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục THCS đúng vào năm 2010.

    Năng lực quản lý của đội ngũ lãnh đạo các trường phổ thông được nâng lên đáng kể, trong 2 năm học 2008-2009 và 2009-2010 đã có 25.000 hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường phổ thông (chiếm tỷ lệ 89%) được bồi dưỡng theo chương trình mới, hiện đại (hợp tác với Bộ Giáo dục Singapore).

    Nhằm phát triển hệ thống các trường THPT chuyên, năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức Hội nghị tổng kết và định hướng phát triển các trường THPT chuyên cả nước (đây là lần tổ chức đầu tiên sau hơn 45 năm).

    Những con số của giáo dục đại học

    Từ cuối năm 2007, Bộ GD - ĐT đã quyết định triển khai chủ trương “Đào tạo theo nhu cầu xã hội”. Đến nay, Bộ đã tổ chức 17 hội nghị quốc gia đào tạo theo nhu cầu xã hội cho các ngành kinh tế xã hội trọng điểm, qua đó hơn 600 thoả thuận, hợp đồng đào tạo giữa các trường đại học, cao đẳng và doanh nghiệp, bệnh viện và ngân hàng đã được ký kết với số người được đào tạo là trên 10.000 người. Tăng cường đào tạo theo chương trình của các đại học có uy tín ở nước ngoài, bằng tiếng nước ngoài: năm 2006 có 10 chương trình, năm 2010 có 27 chương trình. Xây dựng thư viện giáo trình điện tử dùng chung với hơn 1.100 giáo trình và đã có hơn 15 triệu lượt người truy cập. Triển khai và hướng dẫn các cơ sở giáo dục xây dựng và công bố chuẩn đầu ra của các chương trình đào tạo trình độ đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp cả nước.

    Nhằm khắc phục sự yếu kém kéo dài về chất lượng và quản lý trong giáo dục đại học, năm 2009, Bộ đã chọn khâu đột phá là đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục đại học giai đoạn 2010-2012, trong đó giải pháp đầu tiên là thực hiện 3 công khai tại mỗi cơ sở giáo dục: Công khai cam kết chất lượng đào tạo và đánh giá chất lượng đào tạo; công khai các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo; công khai tài chính tại 100% các trường đại học, cao đẳng (có thể truy cập qua trang web của trường). Đồng thời, tăng cường năng lực lãnh đạo cho hơn 500 lượt hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường đại học, cao đẳng thông qua chương trình mới được xây dựng.

    Bộ đã tích cực triển khai Chỉ thị 296/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010-2012, Ban Cán sự Đảng bộ Bộ GD - ĐT đã ban hành Nghị quyết, Bộ trưởng đã ban hành chương trình hành động với 11 nhóm giải pháp và ban hành mới 23 văn bản quản lý nhà nước của ngành và Bộ về quản lý giáo dục đại học.

    Bộ đã tổ chức hội nghị triển khai Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Chương trình hành động của Bộ về vổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010-2012 qua 6 cầu truyền hình (Hà Nội, Thái Nguyên, Vinh, Đà Nẵng, TP.HCM và Cần Thơ); chỉ đạo 8 trường đại học tại 3 miền tổ chức 8 hội thảo điểm triển khai. Đến nay, gần 100% các trường đã thực hiện việc thảo luận ở cấp lãnh đạo trường (Ban Giám hiệu, Đảng ủy, Công đoàn, Đoàn thanh niên) về các giải pháp đổi mới quản lý của nhà trường nhằm nâng cao chất lượng đào tạo; xây dựng Chương trình hành động và Chiến lược phát triển nhà trường giai đoạn 2011-2015.

    Từ ngày 09/3/2010, Báo Giáo dục và Thời đại đã tổ chức Diễn đàn: “Vì sao phải nâng cao chất lượng đào tạo, làm gì để nâng cao chất lượng đào tạo”. Sau hơn 2 tháng tổ chức diễn đàn, đã liên tiếp đăng 34 bài viết trên ấn phẩm in và 45 bài viết báo điện tử. Tác giả là cán bộ quản lý các nhà trường, các nhà khoa học, giảng viên đại học, các vị tướng lĩnh, lãnh đạo các nhà trường trong Quân đội và Công an, đại diện Đoàn Thanh niên.

    Tăng học phí và sắp xếp lại bộ máy

    Trên cơ sở Nghị quyết số 35/NQ/QH12 của Quốc hội về chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo từ năm học 2010 - 2011 đến năm học 2014 - 2015, Bộ đã triển khai hệ thống học phí mới, hợp lý hơn tại 100% cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, đại học, cao đẳng trung cấp chuyên nghiệp.

    Bộ GD - ĐT đã sắp xếp lại bộ máy tổ chức để đáp ứng tốt các nhiệm vụ của ngành giáo dục trong giai đoạn hiện nay: thành lập 5 cơ quan trực thuộc để sự lãnh đạo, quản lý của Bộ đáp ứng tốt hơn nhu cầu thực tiễn của ngành: Vụ Giáo dục dân tộc (năm 2006); Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý cơ sở giáo dục (năm 2007); Cục Đào tạo với nước ngoài, Cục Công nghệ Thông tin và Cục Cơ sở vật chất, Thiết bị trường học và Đồ chơi trẻ em (năm 2008). Năm 2009, Bộ sáp nhập Trung tâm Công nghệ giáo dục và Trung tâm Nghiên cứu giáo dục dân tộc vào Viện Khoa học giáo dục Việt Nam để hoàn thiện các tổ chức nghiên cứu của ngành và thành lập Trung tâm Hỗ trợ đào tạo và cung ứng nhân lực nhằm hỗ trợ đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp, các địa phương, các ngành, là đầu mối tiếp nhận nhu cầu và hỗ trợ triển khai đào tạo theo đặt hàng các doanh nghiệp. Đồng thời, thành lập Báo Giáo dục Thời đại điện tử, sau 1 năm đạt mức truy cập 110.000 lượt một ngày.

    Tóm lại, các giải pháp đổi mới giáo dục và đào tạo đã được triển khai trong gần 4 năm qua là đúng hướng, phù hợp quy luật, vừa có nhiều giải pháp tác động trên diện rộng, đồng thời luôn có giải pháp có tính đột phá, đã đem lại nhiều chuyển biến tích cực trên hầu hết các lĩnh vực về giáo dục và đào tạo, từng bước giải tỏa các bức xúc của xã hội và đáp ứng các nhu cầu phát triển dài hạn của ngành giáo dục.

    PGS.TS Trần Quang Quý (Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)



    Siêu thành tích ( http://www.tuanvietnam.net/2010-06-20-sieu-thanh-tich )
    Tác giả: Trần Nam Hà

    Nhiều người rất lấy làm ngạc nhiên với những thành tích mà ngành giáo dục và đào tạo đã đạt được trong mấy năm vừa qua. Có người phải kêu lên đó là siêu thành tích.

    Cây gậy thần "Hai không"
    Đọc bài "Bốn năm đổi mới giáo dục qua những con số" đăng trên VietNamnet, Báo Giáo dục và Thời đại (17/06/2010) nhiều người rất lấy làm ngạc nhiên với những thành tích mà ngành giáo dục và đào tạo đã đạt được trong mấy năm vừa qua. Có người phải kêu lên đó là siêu thành tích. Có người cho rằng bài báo này chứng minh giáo dục đã đạt thành tựu nhảy vọt. Lại có người đánh giá, thành tích nêu trong bài viết thông qua các con số là vô tiền khoáng hậu.

    Bởi vì lịch sử của giáo dục Việt Nam chưa có bao giờ có những thành tích "nhanh" như thế. Nó trái với quy luật dục tốc bất đạt và lời dạy của Bác Hồ: "Giáo dục phải làm theo hoàn cảnh điều kiện. Phải ra sức làm nhưng không được vội. Từ đây ra cửa, thứ nhất là bước thứ nhất, thứ 2 mới đến bước thứ 2, thứ 3 là bước thứ 3, vội thì ngã. Làm phải có kế hoạch có từng bước".

    Người ta chỉ còn cách giải thích cuộc vận động "Hai không" đã được phù phép tài tình để biến thành cây gậy thần, đưa số thí sinh bị đình chỉ thi năm 2007 là 2612 em đến năm 2010 chỉ còn 90 em, giảm 97%. Số giám thị vi phạm từ 32 còn 1 người, cũng giảm 97%. Đặc biệt, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT và bổ túc THPT đã tăng từ 66,7% năm 2007 lên trên 90% năm 2010. Tỷ lệ học sinh bỏ học giảm từ 1% năm 2007 xuống còn 0,5% năm 2010. Trong lúc các điều kiện về đội ngũ, cơ sở vật chất không cải thiện được bao nhiêu, nhất là ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa khó khăn.

    GSTS Nguyễn Minh Thuyết, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa Giáo dục Thanh thiếu niên Nhi đồng của Quốc Hội nói: "Lấy tiêu chí nào để đánh giá "Hai không" có kết quả đây. Về tỷ lệ đỗ bao nhiêu % tôi cho rằng điều đó không quan trọng và không nói lên điều gì về chất lượng dạy học".

    PGS Văn Như Cương: "Từ khi chưa biết đề thi tôi đã đoán tỷ lệ tốt nghiệp năm nay sẽ rất đẹp, nghĩa là đỗ cao, thậm chí rất cao... Chúng ta đã đến lúc kết thúc 4 năm cuộc vận động "Hai không", ta phải có kết quả đẹp. Tuy nhiên tôi biết có những con số nói dối, có những con số nói thật. Nếu tôi là người chỉ đạo một kỳ thi, tôi muốn tỷ lệ đỗ bao nhiêu thì nó sẽ được bấy nhiêu" (TP 18/06/2010).
    Có lẽ tâm lý và tư duy "thành tích" của ngành giáo dục luôn thường trực trong tâm thức cán bộ quản lý của ngành nên có những phát ngôn lý giải kết quả thi tốt nghiệp THPT mới đây của ngành cũng rất ấn tượng. Khi được các nhà báo chất vấn vì sao tỷ lệ thi tốt nghiệp THPT năm nay quá cao, người phụ trách công tác báo chí của Bộ GD và ĐT đã khẳng định có 4 nguyên nhân, nhưng trong đó, có 2 nguyên nhân thuộc "thiên thời, địa lợi": Đó là thời tiết mát mẻ, và thí sinh quyết tâm thi tốt để hướng tới Đại lễ 1000 năm Thăng Long- Hà Nội"(!)
    Thực ra, nói dối trong giáo dục vừa dễ mà cũng vừa rất khó. Những người chạy theo thành tích có thể đánh tráo khái niệm, đưa ra những con số mà họ muốn, và "lòe" xã hội. Tuy nhiên, với những người am hiểu giáo dục, từng làm công tác giáo dục thì dễ dàng nhận thấy đó vẫn chỉ là con số nói dối.

    Ví dụ như về học sinh bỏ học, tác giả bài báo đã lấy số học sinh bỏ học ở học kỳ I để so sánh, rồi lại đánh tráo giữa tỷ lệ bỏ học của học kỳ sang tỷ lệ bỏ học của một năm học. Cụ thể bài báo có đoạn viết: "Học kỳ I năm học 2007- 2008 cả nước có 147.006 học sinh bỏ học, chiếm 0,94%. Học kỳ I năm 2008 - 2009 còn 86.269 học sinh bỏ học, chiếm 0,56%. Năm 2009-2010 còn 75.531 học sinh bỏ học chiếm 0,51%...

    Người ta thường lấy tỷ lệ học sinh bỏ học trong một năm học vì số học sinh bỏ học nhiều là thời kỳ sau Tết âm lịch hàng năm và trong hè. Theo dõi nhiều năm về tình hình học sinh bỏ học, có thể thấy số học sinh bỏ học trong hè là 50%, bỏ học sau Tết là 30% và chỉ còn 20% học sinh bỏ học trong hai học kỳ, nhưng ở học kỳ I chiếm tỷ lệ ít nhất khoảng 5%.

    Nếu chỉ tính số học sinh bỏ học trong kỳ I thì rất ít, có nhiều trường chưa có em nào bỏ học. Nếu lấy tỷ lệ học sinh bỏ học ở học kỳ I so với cả năm học thì rõ ràng tỷ lệ học sinh bỏ học sẽ giảm đi hàng chục lần và chỉ những người nói dối và chạy theo thành tích mới có cách tính như vậy. Muốn biết số học học sinh bỏ học trong năm 2009 - 2010 phải đến hết hè năm 2010 và bước vào đầu năm học mới 2010 - 2011 mới tính được số học sinh bỏ học.

    Tại sao mới đầu tháng 06/2010 mà tác giả bài báo đã viết: 2009 - 2010 chỉ còn 75.531 học sinh bỏ học, và từ đó suy ra tỷ lệ học sinh bỏ học chiếm 0,51%. Như vậy năm 2009 - 2010 số học sinh bỏ học giảm 71.474 học sinh, bằng 49% so với năm 2007. Tỷ lệ bỏ học từ gần 1% năm 2007 xuống còn 0,5% năm 2010. Đúng là một sự so sánh khập khiễng để chứng tỏ sự nhảy vọt về thành tích chống học sinh bỏ học.

    Mối an nguy cho sự phát triển
    Thực ra số học sinh bỏ học trong những năm qua còn chiếm một tỷ lệ cao, thể hiện số lượng học sinh của các cấp phổ thông đều giảm trong khi dân số nước ta vẫn tăng hàng năm trên 1.000.000 người.

    Theo số liệu thống kê của Cục Công nghệ thông tin Bộ GD và ĐT thì từ năm học 2005 - 2006 đến năm học 2008 - 2009, số học sinh tiểu học đã giảm 7.318.000 - 6.745.016 = 572.984 học sinh (giảm 7,8%). Số học sinh THCS giảm 6.445.000 - 5.5515.123 = 929.877 học sinh (giảm 14%). Số học sinh THPT giảm 3.030.000 - 2.951.889 học sinh = 78.111 học sinh (2,6%).

    Tổng số học sinh đã giảm 3 năm qua (chưa tính được năm học 2009 - 2010) là 1.580.972 học sinh. Người viết bài này xin trích dẫn tỷ lệ học sinh bỏ học mà văn phòng Bộ GD và ĐT đã thống kê những năm trước đây. Ví dụ năm học 1999 - 2000 năm cuối cùng của thế kỷ 20: Tiểu học bỏ học 4,67%. THCS bỏ học 8,51%. THPT bỏ học 7,68%.

    Không thể có tỷ lệ học sinh phổ thông bỏ học năm 2010 là 0,5% như bài báo đã nêu. Lịch sử giáo dục nước nhà không chấp nhận những con số ngụy tạo vị thành tích như thế. Mặt khác những con số của bài báo đã nêu trên không nói lên được nhiệm vụ chức năng chính của Bộ GD và ĐT đã hoàn thành trong những năm đổi mới vừa qua.

    Đó là tham mưu cho Đảng và Nhà nước về đường lối chủ trương, chính sách chấn hưng nền giáo dục nước nhà, như đổi mới chương trình sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy của các cấp học, ngành học, là đổi mới về quản lý chuyên môn nâng cao chất lượng dạy và học...

    Nếu căn cứ vào những tiêu chí nói trên, thì ai cũng thấy, nền giáo dục của nước ta vẫn là nền giáo dục của sự truyền thụ một chiều: Thầy đọc - trò chép. Chương trình, SGK quá nặng. Cung cách quản lý giáo dục thể hiện tư duy giáo dục xơ cứng, lạc hậu, khó thay đổi. Chủ trương đổi mới thi cử "2 trong 1" đến giờ vẫn còn lúng túng như "gà mắc tóc" chưa biết bao giờ mới có kết luận chính thức và rõ ràng, để yên dân.

    Đó mới chính là mối an nguy cho sự phát triển của thế hệ trẻ trong tương lai, cũng chính là sự phát triển của một dân tộc trên con đường hiện đại hóa và hội nhập.

    Bộ GD và ĐT vừa được quyết định có Bộ trưởng mới. Mong rằng Bộ hãy có những quyết sách đúng, triển khai tích cực và trung thực khi thông tin cho xã hội, tránh vết xe đổ chạy theo thành tích nhảy vọt như những năm qua, như trong bài báo mới đây. Bởi thông tin xã hội giờ đây rất đa dạng, cởi mở và trình độ nhận thức của nhân dân giờ đây đã nâng cao hơn trước rất nhiều
    Lần sửa cuối bởi laotam, ngày 21-06-2010 lúc 07:16 PM.

  2. #2
    Ngày tham gia
    May 2010
    Bài viết
    550
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    thực ra với ý nghĩa lớn lao " ươm mầm " tài nag cho nước nhà thì mức lương dó quả là quá ít trong xh vật giá leo thang hiện nay.
    chúc mừng thầy cô và hy vọng tình hình sẽ ngày càng cải thiện.

  3. #3
    Ngày tham gia
    Aug 2009
    Bài viết
    85
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Thảo nào tôi thấy mấy cô giáo dậy
    lớp học thêm của con tôi ( cháu học trung học cơ sở ) cô nào cũng có ô tô !

  4. #4
    Ngày tham gia
    May 2010
    Bài viết
    735
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Thầy cô nhiều tiền thật, gần bằng dân đánh cờ...

  5. #5
    Ngày tham gia
    Jun 2009
    Bài viết
    3,456
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Trích dẫn Gửi bởi quac_quac Xem bài viết
    Thảo nào tôi thấy mấy cô giáo dậy
    lớp học thêm của con tôi ( cháu học trung học cơ sở ) cô nào cũng có ô tô !
    nhỡ do chồng cô giàu thì sao hả bác?

    bác đóng tiền học cho cháu nó bao nhiêu mà nói vậy??

  6. #6
    Ngày tham gia
    Aug 2009
    Bài viết
    85
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Chồng cô giáo mà giàu thì cô dạy thêm làm gì cho mệt xác hả bác?

  7. #7
    Ngày tham gia
    Apr 2010
    Bài viết
    54
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    có bàn tới mùa quít thì cũng huề cả làng.ông nào giỏi thì đi mà to mồm phản đối.tôi e chưa được dăm câu nửa chữ là bị gô cổ cho lên phường mà làm kiểm điểm rồi.việc ta ta làm việc các ông lãnh đạo nói gì thì kệ các ông đó.quan tâm làm gì cho mệt.

  8. #8
    Ngày tham gia
    Jun 2009
    Bài viết
    3,456
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Trích dẫn Gửi bởi quac_quac Xem bài viết
    Chồng cô giáo mà giàu thì cô dạy thêm làm gì cho mệt xác hả bác?
    giàu thì ko cần làm việc hả bác?

    biết bao nhiêu là đủ giàu để ko phải đi làm?

    bác đóng tiền học cho cháu nó bao nhiêu mà phải mỉa mai vậy?

    nếu đúng như bác nói,thì nghề giáo viên xứng đáng là nghề hot nhất hiện nay rồi

  9. #9
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    292
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Mong mọi người đừng bàn tản mạn sang vấn đề khác

  10. #10
    Ngày tham gia
    Jun 2012
    Đang ở
    Hà Nội
    Bài viết
    6,491
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Chuyển bài này sang góc giang hồ nhé.
    "Không có phụ nữ xấu, chỉ có người không biết rằng mình rất xấu mà thôi!"

Cảm ơn Bộ GD&ĐT đã tăng lương GV gấp 2,1 lần! ( Thầy Văn Như Cương )
Trang 1 của 5 123 ... CuốiCuối

Đánh dấu

Đánh dấu

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •  
.::Thăng Long Kỳ Đạo::.
  • Liên hệ quảng cáo: trung_cadan@yahoo.com - DĐ: 098 989 66 68