Warning: Illegal string offset 'name' in [path]/includes/functions.php on line 6845
Cảm ơn Bộ GD&ĐT đã tăng lương GV gấp 2,1 lần! ( Thầy Văn Như Cương ) - Trang 2
Close
Login to Your Account
Trang 2 của 4 Đầu tiênĐầu tiên 1234 CuốiCuối
Kết quả 11 đến 20 của 45

Hybrid View

  1. #1
    Ngày tham gia
    Jun 2009
    Bài viết
    1,408
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Năm 1983 khi mới ra trường thì nhà nước đã thực hiện chủ trương " GIÁ -LƯƠNG-TIỀN ".Lúc ấy giá cả không tăng như bây giờ .Lương hiện nay tăng có 1 mà giá cả sinh hoạt tăng 10 thì chỉ có vàng,bất động sản mới theo kịp.
    Lời văn của thầy toán Văn Như Cương sao mà nhẹ nhàng và nghiêm túc đến thế ! Đây sẽ là bài toán hóc búa cho Đảng ,bộ ,sở của ngành giáo dục đào tạo VN.Biết đến khi nào mới có lời giải đây?
    Lần sửa cuối bởi dohuuthuc, ngày 21-06-2010 lúc 03:53 PM.

  2. #2
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    292
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Nhận diện các địa phương "siêu thành tích" (I)
    Tác giả: Nguyễn Văn Tuấn và Nguyễn Đình Nguyên
    Bài đã được xuất bản.: 22/06/2010 06:00 GMT+7



    Bệnh hình thức trong giáo dục có thể hiểu như là tình trạng thành tựu giáo dục được nâng cao hơn khả năng thực tế một cách có hệ thống (nhằm đáp ứng yêu cầu hay áp lực chính trị).

    Trong vài năm gần đây, hầu như bất cứ một kì thi tốt nghiệp trung học phổ thông nào cũng để lại nhiều dấu hỏi trong công chúng. Kì thi năm nay, 2010, cũng không phải ngoại lệ, với nhiều ý kiến cho rằng tỉ lệ tốt nghiệp năm nay quá cao, và có lẽ bệnh thành tích trong giáo dục đang có nguy cơ quay lại hay đang tái phát.

    Tuy nhiên, chưa ai tìm ra cách định lượng bệnh thành tích, và cũng chưa ai chỉ ra những địa phương nào có bệnh thành tích. Bài viết này sử dụng các số liệu về tỉ lệ tốt nghiệp THPT hệ giáo dục thường xuyên trong các năm từ 2006 đến 2010 (số liệu trích từ các nguồn: Tổng cục Thống kê, Bộ GD và ĐT, Báo VietNamNet, và Báo Dân trí 18/06/2010) để nhận ra những địa phương có dấu hiệu bệnh thành tích.

    Tỉ lệ tốt nghiệp THPT năm 2010 có gì đáng chú ý?

    Theo phân tích của chúng tôi, có 3 điểm đáng chú ý trong tỉ lệ tốt nghiệp năm 2010: Tỉ lệ tăng nhanh từ năm 2007, độ dao động trong mỗi tỉnh cao hơn mức độ khác biệt giữa các tỉnh, và mối tương quan về kết quả của năm 2010 với tỉ lệ tốt nghiệp năm 2006 (năm được cho là đỉnh cao về bệnh thành tích).

    Tỉ lệ tốt nghiệp THPT năm nay xấp xỉ tỉ lệ tốt nghiệp năm 2006. Theo số liệu mới nhất mà chúng tôi thu thập được (có thể tham khảo ở đây), thì tỉ lệ tốt nghiệp trung bình trên toàn quốc năm 2010 là 90,2%. Tỉ lệ này tương đương với tỉ lệ năm 2006 ( ~92%), nhưng cao hơn hẳn so với các năm 2009 đến gần 10%, năm 2008 khoảng 17%, và năm 2007 đến 27% (Biểu đồ số 1 và 2). Nếu lấy thời điểm 2007 làm điểm khởi đầu, thì số liệu năm 2010 có nghĩa là tỉ lệ tốt nghiệp tăng trung bình khoảng 9% mỗi năm trong thời gian 4 năm qua.

    Tuy nhiên, tỉ lệ tốt nghiệp năm 2010, cũng như các năm trước dao động rất lớn giữa các tỉnh thành và vùng (Bảng 1). Năm 2010, tỉ lệ tốt nghiệp THPT được ghi nhận cao nhất ở các tỉnh thành đồng bằng sông Hồng (97,8%) và vùng Bắc Trung Bộ (97,7%). Các tỉnh thành thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, có tỉ lệ thấp nhất (82,3%).

    Một đặc điểm đáng chú ý khác là mức độ dao động về tỉ lệ tốt nghiệp trong mỗi tỉnh thành trong thời gian 2006 - 2010 rất cao. Biểu đồ 2 dưới đây trình bày tỉ lệ tốt nghiệp trung bình cho 63 tỉnh thành. Có một số tỉnh (chủ yếu là vùng Đông Bắc và Tây Bắc) có tỉ lệ tốt nghiệp giảm rất nhanh giữa năm 2006 và 2007 (từ 90% năm 2006 xuống dưới 20% vào năm 2007), nhưng sau đó thì cũng tăng rất nhanh.

    Trong khi đó, độ khác biệt giữa các tỉnh cho từng năm thì có xu hướng giảm theo thời gian. Điều này nói lên một nghịch lí là mức độ biến chuyển tỉ lệ tốt nghiệp trong mỗi tỉnh cao hơn mức độ khác biệt giữa các tỉnh!

    Căn bệnh luôn tái phát

    Một cách có thể dùng để thẩm định xu hướng "bệnh thành tích" có tái phát hay không là xem xét đến mối tương quan về tỉ lệ tốt nghiệp giữa các năm, mà thước đo là hệ số tương quan (coefficient of correlation). Hệ số tương quan là một chỉ số đo sự tương đồng giữa hai biến số, hay trong trường hợp này là tỉ lệ tốt nghiệp giữa 2 năm.

    Hệ số này dao động từ 0 (tức hoàn toàn không có liên quan) đến 1 (tức hoàn toàn tương quan). Khi hệ số tương quan giữa năm t và t+1 gần bằng 1, điều đó có nghĩa là tỉ lệ tốt nghiệp của năm t+1 có thể tiên đoán từ tỉ lệ tốt nghiệp của năm t. Áp dụng khái niệm đó, chúng tôi đã phân tích tỉ lệ tốt nghiệp của tất cả các năm 2006 - 2010 (Biểu đồ 3)

    Phân tích cho thấy một xu hướng rất thú vị và cũng có ý nghĩa. Mối tương quan giữa tỉ lệ tốt nghiệp của năm 2010 với các năm 2009, 2008, 2007 giảm dần. Tỉ lệ tốt nghiệp giữa năm 2010 và 2009 là 0,59, giữa năm 2010 và 2008 là 0,26 ; và giữa năm 2010 và 2007 chỉ còn 0,11, thậm chí không có ý nghĩa thống kê.

    Tuy nhiên, điểm đáng chú ý là tỉ lệ tốt nghiệp năm 2010 và năm 2006 là cao nhất (r = 0,70). Kết quả này cho biết, những tỉnh có tỉ lệ tốt nghiệp cao trong năm 2006 cũng chính là những tỉnh có tỉ lệ tốt nghiệp cao trong năm 2010. Thật vậy, tỉ lệ năm 2006 có thể tiên đoán khoảng 50% độ dao động về tỉ lệ tốt nghiệp năm 2010!

    "Bệnh thành tích" hay áp lực chính trị ?

    Để định lượng bệnh thành tích, chúng ta cần một định nghĩa khả dĩ. Thật ra, cho đến nay, chúng ta chỉ hiểu ngầm bệnh thành tích, chứ chưa có ai định nghĩa nó như thế nào. Có tác giả như Huỳnh Bảo Sơn chẳng hạn, xem bệnh thành tích là một hậu quả của chủ nghĩa hình thức.

    Theo tác giả này "Bệnh thành tích là hậu quả của chủ nghĩa hình thức và chính nó là mẹ đẻ của bệnh sao chép, học thuộc lòng và hiện tượng đào tạo hình ống của hệ thống đại học ở nước ta." Nhưng đó vẫn chưa phải là một định nghĩa của bệnh, mà chỉ là căn nguyên của bệnh.

    Theo chúng tôi, bệnh hình thức trong giáo dục có thể hiểu như là tình trạng thành tựu giáo dục được nâng cao hơn khả năng thực tế một cách có hệ thống (nhằm đáp ứng yêu cầu hay áp lực chính trị). Chẳng hạn như, một trường trung học vùng sâu vùng xa, dù thiếu khả năng và phương tiện để nâng cao trình độ học sinh bằng các trường ở thành phố, nhưng vì địa phương (tỉnh) cần con số đẹp để báo cáo lên trung ương, nên phải gây áp lực cho giáo viên và hiệu trưởng nâng cao điểm cho học sinh sao cho tương đương với điểm của học sinh thành phố.

    Chiếu theo định nghĩa trên, có ba vế: Thứ nhất là thành tựu giáo dục. Thứ hai là khả năng thực tế. Thứ ba là dùng cơ chế để đạt được thành tích ảo. Nếu dựa theo đó, chúng tôi có thể định lượng bệnh thành tích bằng các chỉ số cụ thể. Để định lượng bệnh, chúng ta cần một vài chỉ số thống kê để đo lường qui mô và xu hướng phát sinh của bệnh thành tích.

    Trong bài phân tích này, chúng tôi sử dụng tỉ lệ tốt nghiệp như là một chỉ số đo lường một "thành tựu" giáo dục, bởi vì con số này phản ảnh tình hình chung liên quan đến đầu ra của một địa phương. Nói đến xu hướng là nói đến thời gian, cho nên chúng ta cần phải xem xét đến tỉ lệ tốt nghiệp THPT trong thời gian qua.

    (Còn nữa)

  3. #3
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    292
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Giáo dục tiếp tục chuyển biến theo chiều hướng...tiêu cực (II)



    Tác giả: Nguyễn Văn Tuấn và Nguyễn Đình Nguyên (tiếp theo và hết)

    http://www.tuanvietnam.net/2010-06-2...g-tieu-cuc-ii-

    Một trong những tư duy cần xóa bỏ ngay là tư duy bệnh thành tích, bất kể tư duy này xuất phát từ áp lực chính trị hay mặc cảm địa phương.

    Vì số liệu không đầy đủ, nên chúng tôi phải tạm sử dụng số liệu đã được qua "chế biến", hiểu theo nghĩa các tỉ lệ tốt nghiệp của mỗi tỉnh đã được tính toán từ con số thí sinh dự thi và số thí sinh tốt nghiệp. Tuy nhiên, vì số học sinh dự thi thường cao (trên 1.000) nên những con số tỉ lệ tốt nghiệp cũng không chịu sự chi phối của các yếu tố mẫu và nhiễu.

    Hai phương pháp đo lường bệnh thành tích

    Về mặt phương pháp, 2 phương pháp để đo lường bệnh thành tích là: Hệ số biến thiên (coefficient of variatio, tức CV) và so sánh tỉ lệ tốt nghiệp trên thực tế với tỉ lệ dự báo thu được bằng phân tích hồi qui đa tầng (hierarchical model).

    Chỉ số thứ nhất: Hệ số biến thiên

    Nếu địa phương có triệu chứng bệnh thành tích, thì chúng ta có thể đoán rằng độ dao động về tỉ lệ tốt nghiệp của địa phương đó ắt phải cao một cách bất thường. Biểu đồ 4 dưới đây cho thấy một sự khác biệt rất rõ nét về độ dao động của tỉ lệ tốt nghiệp giữa 3 miền đất nước. Nói chung, các tỉnh miền Bắc có tỉ lệ dao động (giữa các năm) lớn nhất, kế đến là các tỉnh miền Trung. Riêng các tỉnh, thành miền Nam có tỉ lệ tốt nghiệp khác biệt thấp nhất.
    Do đó, vấn đề đặt ra là cần phải có một chỉ số thống kê định lượng, cụ thể hơn để đánh giá độ dao động, độ khác biệt giữa các năm trong một địa phương. Chỉ số đó là độ lệch chuẩn (standard deviation, SD). Theo định nghĩa, CV được tính bằng cách lấy SD chia cho số trung bình (average). Bởi vì SD và số trung bình có cùng một đơn vị đo lường (trong trường hợp tỉ lệ tốt nghiệp, thì đơn vị đo lường là phần trăm). Cho nên với CV, là một tỷ số, có thể sử dụng để so sánh giữa các địa phương một cách dễ dàng. Thí dụ:

    Tỉ lệ tốt nghiệp THPT của TP. Hồ Chí Minh trong thời gian 5 năm 2006 - 2010 lần lượt là 96,1 ; 95,1 ; 93,3 ; 94,6 ; và 94,6%. Như vậy, tính trung bình, tỉ lệ tốt nghiệp của TPHCM là 94,7 ; và SD = 1,01. Do đó, chỉ số biến thiên CV = 0,0107 hay 1,07%, tức là rất thấp.

    Ở Cao Bằng, tỉ lệ tốt nghiệp THPT trong cùng thời gian trên là 86,8% (2006), xuống còn 27,8% (2007), và nhanh chóng tăng lên 40,6% (2008), 64,2% (2009), đạt đỉnh 89,65% (2010). Do đó, tỉ lệ trung bình của 5 năm qua là 61,8%, nhưng với độ dao động rất lớn vì SD = 27,4%. Nói cách khác độ lệch chuẩn cao 44% (CV = 44%) so với chỉ số trung bình.

    Hai ví dụ trên cho chúng ta thấy rõ ràng rằng chỉ số CV có thể là một thước đo có ích để nhận ra các địa phương có tín hiệu bệnh thành tích. Nhưng bản thân chỉ số CV cũng dao động giữa các tỉnh thành, do đó, chúng tôi cần một ngưỡng (cut-off level) để đánh giá bệnh thành tích.

    Gọi số trung bình CV của 63 tỉnh thành là aCV, và độ lệch chuẩn của độ biến thiên trong 63 tỉnh thành là sdCV, chúng ta có thể phát biểu rằng những tỉnh thành nào có CV cao hơn aCV + sdCV là địa phương có thể xem là "bất thường".

    Qua phân tích thực tế, chúng tôi thấy chỉ số biến thiên trung bình cho toàn bộ 63 tỉnh thành là aCV = 17%, với độ lệch chuẩn sdCV = 11%. Do đó, chúng tôi chọn ngưỡng CV trên 30% để nhận dạng các địa phương có thể "có bệnh thành tích". Kết quả trình bày trong Bảng 2 cho thấy các tỉnh sau đây có CV trên 30%.

    Biểu đồ tỉ lệ tốt nghiệp trong 5 năm cho thấy từ năm 2006 - 2010, xu hướng chung là tỉ lệ tốt nghiệp gần như tăng theo một hàm số của phương trình bậc 2. Qua so sánh thì mô hình hồi qui đa tầng (multilevel regression) phản ánh xu hướng tỉ lệ tốt nghiệp chung và cho từng tỉnh tốt hơn so với mô hình đường thẳng (kết quả không trình bày ở đây). Nên mô hình này được áp dụng để đánh giá bệnh thành tích.

    Qua khảo sát các mô hình khả dĩ, mô hình ước tính tỉ lệ tốt nghiệp cho mỗi tỉnh tối ưu nhất là một hàm số mà thời gian tuân theo mô hình đa thức bậc 2, và phụ thuộc vào yếu tố vùng: TLTN = a + b*năm + c*năm^2 + d*vùng + e (1); trong đó TLTN là tỉ lệ tốt nghiệp, a là thông số ước lượng tỉ lệ tốt nghiệp chung cho năm 2006, b và c là thông số phản ảnh tốc độ tăng trưởng của TLTN, d là thông số phản ánh mức độ TLTN thay đổi theo vùng địa dư, và e là yếu tố ngẫu nhiên.

    Từ đó, chúng tôi ước tính và nhận dạng địa phương có tín hiệu bệnh thành tích qua 2 bước như sau :

    (a) Dùng mô hình (1) để ước tính các thông số cần thiết cho 4 năm 2006 đến 2009, và dùng thông số đó để ước tính tỉ lệ tốt nghiệp cho năm 2010.

    (b) Lấy tỉ lệ tốt nghiệp thực tế trong năm 2010 trừ cho tỉ lệ tốt nghiệp dự báo dựa vào mô hình trong bước (a), và gọi kết quả là D; D chính là một thước đo về bệnh thành tích.

    Nếu địa phương nào có D là số dương, thì điều này có nghĩa là địa phương đó có tỉ lệ tốt nghiệp tăng cao hơn so với xu hướng trong 4 năm qua. Tuy nhiên, bởi vì mô hình hồi qui vẫn còn có sai số, cho nên vấn đề là cần phải một ngưỡng của D để nhận dạng địa phương "có vấn đề".

    Bởi vì tỉ lệ tăng trung bình là 8,8% mỗi năm với sai số chuẩn là 0,8%, cho nên chúng tôi chọn ngưỡng D, được tính bằng một trị số trung bình (8,8) ± 2*sai số chuẩn (khoảng 10%) để nhận dạng địa phương có tỉ lệ tăng trưởng cao một cách "bất thường".

    Diện mạo các tỉnh có tín hiệu "bệnh" rõ rệt

    Dựa vào cách tính và ngưỡng trên, chúng tôi nhận ra 17 địa phương sau đây có sai lệch đáng chú ý, tức là một tín hiệu của "bệnh thành tích" (Biểu đồ 5): Bắc Cạn, Thừa Thiên, Lạng Sơn, Bắc Giang, Thái Bình, Kon Tum, Thanh Hóa, Lai Châu, Quảng Trị, Phú Thọ, Nghệ An, Hà Giang, Hòa Bình, Cao Bằng, Tuyên Quang, Yên Bái, và Sơn La.

    Trong số này, có đến 12 tỉnh thuộc vùng Đông Bắc và Tây Bắc! Những tỉnh thành này cũng nằm trong kết quả khi phân tích bằng hệ số biến thiên ở phần trên. Như vậy, có sự nhất quán giữa hai kết quả phân tích, và điều này cho thấy rằng các tỉnh thành vùng Đông Bắc và Tây Bắc quả thật có tín hiệu bệnh thành tích rất đáng chú ý.

    Vài nhận xét

    Kết quả phân tích chúng tôi trình bày trên đây cho thấy tỉ lệ tốt nghiệp THPT dao động rất lớn giữa các tỉnh thành trong cùng một vùng, và giữa các năm trong cùng một địa phương. Mức độ khác biệt giữa tỉnh có tỉ lệ tốt nghiệp cao nhất (Nam Định, 99,8%) và thấp nhất (Ninh Thuận, 69,1%) là 30,7%, một mức độ rất lớn so với các năm trước.

    Nhưng điểm quan trọng hơn là ngay trong cùng một tỉnh, mức độ biến chuyển về tỉ lệ tốt nghiệp còn cao hơn cả mức độ khác biệt giữa các tỉnh thành. Qua phân tích thống kê, chúng tôi nhận thấy phương sai của tỉ lệ tốt nghiệp giữa các tỉnh, thành là 30,6, nhưng phương sai trong mỗi tỉnh thành là 221,2, cao hơn 7 lần so với phương sai giữa các tỉnh.

    Đây là một điểm bất bình thường, bởi vì chúng ta kì vọng rằng mức độ khác biệt về tỉ lệ tốt nghiệp giữa các tỉnh, thành phải cao hơn so với độ dao động trong mỗi tỉnh, thành do điều kiện học hành khác nhau rất lớn giữa các địa phương.

    Tại sao mức độ biến chuyển trong mỗi địa phương cao hơn so với mức độ khác biệt giữa các điạ phương? Chúng tôi nghĩ đến 4 giải thích khả dĩ như sau: (a) Trình độ học sinh cao hơn trong thời gian qua. (b) Trình độ giáo viên đã được cải thiện. (c) Đề thi trở nên dễ hơn. (d) Tác động từ những "yếu tố ngoại tại".

    Theo nhận xét của chúng tôi, trình độ học sinh có thể cải thiện trong thời gian 5 năm qua, nhưng chưa có bằng chứng trực tiếp nào để công nhận như thế, và cũng rất khó có một sự biến chuyển về trình độ trong một thời gian ngắn. Nói một cách khác, yếu tố học sinh gần như là yếu tố biến đổi rất ít trong cùng một thế hệ. Tương tự, vì sự bổ nhiệm nhân sự trong các trường học, nên trình độ giáo viên cũng không thể nâng cao nhanh trong một vài năm được. Hơn nữa, lực lượng giáo viên trong cùng một tỉnh cũng gần như rất ít thay đổi với một khoảng thời gian ngắn.

    Trong khi đó, có nhiều bằng chứng cho thấy đề thi năm nay dễ hơn năm ngoái và các năm trước. Như vậy, thực chất, sự biến chuyển lớn về tỉ lệ tốt nghiệp trong 5 năm qua, và nhất là năm 2010, không thể nào do trình độ học sinh và giáo viên được cải thiện nhanh, mà rất có thể là do yếu tố đề thi và yếu tố ngoại tại mà chúng ta khó có thể định lượng một cách trực tiếp và chính xác.

    Ngoài ra, các kết quả trình bày trong bài này còn cho thấy bệnh thành tích giáo dục có xu hướng tái phát nhanh. Tỉ lệ tốt nghiệp năm 2010 (90%) tương đương với tỉ lệ tốt nghiệp năm 2006 (92%). Ngay sau khi nhậm chức, Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo phát động phong trào "Hai không", và tỉ lệ tốt nghiệp năm 2007 đột nhiên giảm xuống chỉ còn 63% (tức giảm 29% so với năm 2006). Nhưng ngay sau thời điểm đó, tỉ lệ tốt nghiệp liên tục tăng một cách nhanh chóng theo đường thẳng, gần 9% mỗi năm!

    Quan trọng hơn, như đã trình bày ở trên, các tỉnh thành có tỉ lệ tốt nghiệp cao hay rất cao năm 2006 cũng chính là những tỉnh thành có tỉ lệ tốt nghiệp cao năm 2010. Độ tương quan giữa tỉ lệ năm 2010 và năm 2006 lên mức cao nhất so với những năm khác. Đây chính là một tín hiệu rõ ràng nhất cho thấy bệnh thành tích đang tái phát, và lần này, tốc độ tái phát rất nhanh.

    Vậy, làm sao chúng ta có thể tin tưởng rằng có trường chỉ mấy năm trước đây có tỉ lệ tốt nghiệp 0%, mà nay thì tăng lên 90%? Nếu đó không phải là triệu chứng của bệnh thành tích, thì rất khó giải thích bằng một lí giải khác logic hơn!

    Do đó, trái lại với cách diễn giải của Phó TT, cựu Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân rằng "Chất lượng học sinh tốt nghiệp phổ thông tăng", chúng tôi nghĩ rằng những biến chuyển về con số tỉ lệ tốt nghiệp không phản ảnh chất lượng giáo dục tăng, mà chỉ phản ảnh bệnh thành tích đang tăng.
    Một trong những "phát hiện" thú vị của phân tích này là các tỉnh phía Bắc có tín hiệu bệnh thành tích cao hơn các tỉnh phía Nam. Dù sử dụng bất cứ thước đo thống kê nào, các địa phương có tín hiệu về bệnh thành tích thường là các tỉnh phía Bắc, nhất là Đông Bắc và Tây Bắc. Trong cả hai phương pháp định lượng, Sơn La là tỉnh có độ dao động về tỉ lệ tốt nghiệp bất thường nhất.

    Năm 2006, tỉ lệ tốt nghiệp THPT ở Sơn La là 91%, nhưng giảm xuống chỉ còn 39% trong năm 2007, tăng lên 55% vào năm 2008, rồi lại giảm xuống còn 24% trong năm 2009, và nay thì tăng lên 89%. Thật khó có thể tưởng tượng ra một yếu tố nào khác gây ra một sự biến chuyển bất thường như thế, nếu không do bệnh thành tích!

    Ngược lại với những gì Phó TT Nguyễn Thiện Nhân và Thứ trưởng Trần Quang Quý nhận xét về tình hình giáo dục theo chiều hướng tích cực, các kết quả phân tích này cho thấy tình hình giáo dục đang tiếp tục biến chuyển theo chiều hướng tiêu cực. Phong trào "Hai không" mà cựu Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân phát động trong thời gian đầu nhậm chức xem ra chỉ có kết quả ngay sau đó, nhưng nay thì căn bệnh thành tích đã tái phát, và mức độ tái phát đã tương đương với thời điểm ông mới nhậm chức.

    Có lẽ bài học ở đây là chúng ta không cần những phong trào với chữ "không" mà cần những thay đổi về tư duy một cách triệt để, và một trong những tư duy cần xóa bỏ ngay là tư duy bệnh thành tích, bất kể tư duy này xuất phát từ áp lực chính trị hay mặc cảm địa phương.

    ........... Giáo dục tiếp tục chuyển biến theo chiều hướng...tiêu cực (II)
    Lần sửa cuối bởi laotam, ngày 23-06-2010 lúc 11:39 AM.

  4. #4
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    292
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Làm tiến sĩ ở Mỹ nhưng không biết tiếng Anh

    Hơn một tuần nay, dư luận tỉnh Phú Thọ xôn xao khi được biết ông Nguyễn Ngọc Ân, giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao và du lịch tỉnh Phú Thọ đã có học vị tiến sĩ với đề tài “Vấn đề di sản văn hóa với việc phát triển kinh tế du lịch tỉnh Phú Thọ”.



    Sự việc bắt đầu từ khi ban tổ chức hát Xoan tỉnh Phú Thọ giới thiệu ông Ân là “tiến sĩ” làm nhiều người ngỡ ngàng, vì trước đó ông Ân chỉ là cử nhân tại chức kinh tế - quốc dân khóa 24 (lớp học được tổ chức tại thành phố Việt Trì).

    Ông Nguyễn Ngọc Ân cho biết, ông có ý định làm tiến sĩ về đề tài này đã lâu. Tháng 6/2008, ông được bổ nhiệm làm giám đốc sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch thì mọi việc mới bắt đầu với sự giúp sức của các cán bộ chuyên môn trong sở. Ông cũng cho biết học vị của mình là tiến sĩ kinh tế quản trị kinh doanh chứ không phải là tiến sĩ khoa học. Viện kinh tế (Bộ Tài chính) là nơi giới thiệu ông đi làm tiến sĩ tại trường đại học Nam Thái Bình Dương của Mỹ.

    Ông Ân khẳng định trong thời gian làm tiến sĩ từ tháng 2/2007 đến 9/2009, ông có sang trường đại học này để học hai đợt, mỗi đợt một tuần, được nghe giảng tiếng Anh qua phiên dịch sang tiếng Việt và ngay cả khi ông bảo vệ luận án cũng có người dịch cho ông từ đầu đến cuối.

    Ông Nguyễn Ngọc Ân khẳng định trong thời gian làm tiến sĩ có sang trường đại học Nam Thái Bình Dương để học hai đợt, mỗi đợt một tuần, được nghe giảng tiếng Anh qua phiên dịch sang tiếng Việt và ngay cả khi ông bảo vệ luận án cũng có người dịch cho ông từ đầu đến cuối.

    Và ông cũng khẳng định ông tự học là chính thông qua tài liệu của trường đại học Nam Thái Bình Dương soạn bằng tiếng Việt và đĩa CD. Trường đại học Nam Thái Bình Dương cũng không yêu cầu những nghiên cứu sinh như ông Ân phải biết tiếng Anh, không phải thi đầu vào mà chỉ cần gửi đề cương sang cho họ… chỉnh sửa là được.

    Ông Ân cũng cho hay, luận án tiến sĩ quản trị kinh doanh của ông không có người hướng dẫn nhưng lại có tới ba người phản biện!

    Trao đổi với chúng tôi, một lãnh đạo tỉnh Phú Thọ (xin được giấu tên) cho biết, khi ông Ân đi đào tạo tiến sĩ, tỉnh cũng hỗ trợ kinh phí. Sau khi hết thời gian “tu nghiệp” ở Nam Thái Bình Dương (thực chất là ông vẫn làm việc tại tỉnh nhà), ông Ân cũng trình văn bằng tiến sĩ với Ban tổ chức tỉnh ủy và bằng đó là bằng thật.

    Tuy nhiên, vị lãnh đạo tỉnh này cũng cho biết, quy trình đào tạo tiến sĩ của ông Ân “có vấn đề” vì Bộ Giáo dục - đào tạo đã có quy chế đào tạo tiến sĩ. Theo đó, nghiên cứu sinh phải có bằng thạc sĩ hoặc tốt nghiệp đại học hệ chính quy loại khá trở lên, có thư giới thiệu của hai giáo sư hoặc phó giáo sư có uy tín giới thiệu. Và một điều kiện bắt buộc là phải có đủ trình độ ngoại ngữ để tham khảo tài liệu, tham gia hoạt động quốc tế về chuyên môn phục vụ nghiên cứu khoa học và thực hiện đề tài luận án.

    Theo Hữu Lực - Hà Tuấn
    Sài Gòn tiếp thị

  5. #5
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    292
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    “Tôi làm tiến sĩ tốn 17.000 USD!”

    "Tôi có học tại trường đại học Nam Thái Bình Dương (Southern Pacific University) tại Hoa Kỳ. Trường này tọa lạc tại thành phố New York!".



    Ông Nguyễn Ngọc Ân, giám đốc sở Văn hóa - thông tin và du lịch tỉnh Phú Thọ (nhân vật được đề cập trong bài “Làm tiến sĩ tại Mỹ nhưng không biết tiếng Anh”) khẳng định như vậy khi trao đổi với phóng viên báo Sài Gòn Tiếp Thị online chiều 17/6.

    Tuy nhiên, khi PV đề nghị muốn xem tấm bằng tiến sĩ của ông thì ông Ân nói “để dịp khác”.

    Theo thông tin của một đồng nghiệp được đăng tải trên một tờ báo mạng, chúng tôi dễ dàng tìm được trường đại học Nam Thái Bình Dương (Southern Pacific University) mà ông Ân “tu nghiệp”. Theo đó, Trường đại học Southern Pacific University nằm trong danh sách 50 trường đại học bị chính quyền bang Hawaii khởi tố, thua kiện và bị đóng cửa. Trường Southern Pacific University đã bị giải thể từ ngày 28/10/2003 theo phán quyết của tòa án Hawaii. Bằng cấp của trường Southern Pacific University không được Mỹ công nhận.

    Còn trường đại học Nam Thái Bình Dương với tên chính thức là “The University of South Pacific” của Fiji, một quốc đảo gần Úc, mới là trường thật. Chúng tôi trao đổi với ông Ân về điều này và hỏi ông học ở Fiji hay Mỹ, ông Ân nói: “Có thể chỗ tôi học ở New York chỉ là phân viện của trường Southern Pacific University!”.

    Thưa ông, ông có thể cho biết chi phí học để lấy bằng tiến sĩ của trường Southern Pacific University hết bao nhiêu?

    Chắc cũng tốn hơn chục ngàn USD gì đấy!

    Ông có thể nói rõ hơn?

    17.000 USD!

    Thưa ông, đó là kinh phí của tỉnh Phú Thọ hỗ trợ ông đi đào tạo tiến sĩ?

    Không, đó là tiền cá nhân, còn tiền kinh phí hỗ trợ của tỉnh thì tôi chưa lấy, mặc dù tỉnh đã có quyết định rồi!

    Khóa học cùng ông có bao nhiêu người Việt Nam học cùng ông, ở Phú Thọ có ai học cùng ông không?

    Khoảng chín, mười người gì đó, họ đều ở Hà Nội, Thái Nguyên; còn ở Phú Thọ không có ai.

    Ông có thể cho chúng tôi xem giáo trình, đĩa CD của trường phát cho ông để ông tự học?

    Như tôi đã nói, tôi học trường này là theo kiểu đào tạo từ xa, nên tôi học qua mạng, nộp trả bài cũng qua mạng.

    Vậy ông có thể cung cấp cho chúng tôi trang web của trường đại học của ông không?

    Không, tôi không nhớ.

    Cảm ơn ông!

    Theo Hữu Lực- Hà Tuấn
    Sài Gòn Tiếp Thị

  6. #6
    Ngày tham gia
    Feb 2010
    Bài viết
    56
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    laotam này chịu khó thật ,biết anh em mê cờ chẳng màng thế sự, thế nên đầu trên xóm dưới có chuyện gì ông mang tất tật vào đây , ông quả người có lòng ! xin thành thật cảm ơn ông .Thế nhưng trộm nghĩ cái băn khoăn lớn nhất của các anh em đây là cục nào hay cục nào dở ?khai cuộc sao cho khỏi bj lép , hôm nay ai thách đấu ai ? có bí kíp nào mới xin phổ biến cho ,còn điện nước giáo dục đã là chuyện muôn đời rồi ! muốn hay không cũng phải sống cùng nó thôi. Ông cho xem báo thật quí hóa quá !

  7. #7
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    292
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Bài văn “lạ” và niềm khẩn thiết mong phụ huynh giật mình
    “Đây là toàn bộ bài văn của một học sinh lớp 11. Bài văn được viết trên lớp trong 1 tiết, là bài viết số 5 theo phân phối chương trình của Bộ GD-ĐT. Tôi rất bất ngờ và cảm thấy cần chia sẻ với các bậc phụ huynh...”.


    “Các vị hãy đọc đi để có được dù chỉ là một lần giật mình”- trích nội dung thư của một cô giáo dạy văn.



    Là giáo viên bộ môn, cô giáo này chưa kịp tìm hiểu rõ gia cảnh học sinh nên đã đưa bài văn cho thầy chủ nhiệm và nhờ thầy có biện pháp trao đổi với bố cháu. Dù đã gặp riêng học sinh và có những lời phê chí tình, chị vẫn cảm thấy lo lắng vì đã từng biết có một học sinh nữ khi gặp rắc rối gia đình đã uống thuốc ngủ tự tử.



    "Nếu các bậc làm cha làm mẹ không chú ý tới diễn biến phức tạp của tâm lý lứa tuổi này, họ có thể đánh mất con trong gang tấc" - cô giáo viết.
    Dưới đây là nội dung bài văn “lạ” và lời phê của cô giáo:


    Đề bài: Anh (chị) hãy trình bày suy nghĩ về vai trò của gia đình.



    Bài làm



    Gia đình là một thành phần quan trọng không thể thiếu của mỗi chúng ta. Nó vừa là điểm khởi đầu cũng là nơi kết thúc của một đời người.



    Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Gia đình là tế bào của xã hội". Thật vậy, đó là nơi nuôi dưỡng, chở che cho mỗi chúng ta từ khi còn bé cho đến lúc lớn, nó luôn ở bên cạnh ta, nâng niu che chở cho mỗi chúng ta. Gia đình là nơi nuôi dưỡng tâm hồn của mỗi người. Tất cả chúng ta ngồi đây ai cũng đã, đang và sẽ có một gia đình mà chắc rằng nó sẽ không bao giờ được như tôi mơ ước.



    Trong quá khứ, tôi đã từng có một gia đình, nơi đã nuôi dưỡng, che chở cho tôi từ lúc mới lọt lòng. Tôi sống trong tình yêu thương, đùm bọc của bố mẹ. Tôi sống, sống trong sự quan tâm, sống trong sự chở che... Rồi dần dần, càng ngày tôi càng núp trong một cái bóng, cái bóng của chính tôi. Chẳng có gì tôi phải đụng tay đến, tôi chẳng được làm những gì mà mình thích. Tất cả phải theo ý bố mẹ...



    Bố vẫn thường dạy tôi về cách sống, cách làm người... Nhưng thử hỏi đã bao giờ tôi được làm chính tôi... Tôi luôn tự tạo cho mình một cái vỏ bọc để che giấu đi con người thực sự của mình. Mọi người thấy tôi hay cười... nhưng có ai biết, đó chỉ là những nụ cười giả tạo mà tôi cố gắng để che giấu đi nỗi đau của chính bản thân mình... Tôi đã từng ghét chính cuộc sống đó. Nhiều lần, tôi đã cố gắng để thoát ra khỏi cái vỏ bọc ấy. Nhưng rồi, tôi lại càng tiến sâu hơn.



    Một ngày nọ, tôi phát hiện ra, bố tôi, người mà luôn che chở, dạy bảo cho tôi lại là một người... một người mà tôi... khinh bỉ... Đúng là cha nào con ấy... Tôi tự tạo vỏ bọc cho mình để che giấu con người thật của tôi. Bố tôi cũng thế, ông đã tạo ra cho mình một cái vỏ bọc thật hoàn hảo để che giấu con người mình, lừa gạt tất cả, và cả tôi.



    Tôi sống vì cái gì??? Gia đình ư? Nhiều lúc tôi đã dẫm đạp lên nó... Tôi tự tách mình khỏi gia đình, và tách ra khỏi chính bản thân tôi. Tôi hoàn toàn là một con người khác...



    Nhiều lúc chán cuộc sống giả tạo đó, tôi đã tìm, tìm đến một nơi, một nơi mà ở đó không có sự giả dối, và hơn cả, tôi được làm chính tôi: THẾ GIỚI ẢO. Dẫu biết rằng, tất cả chỉ là ảo, nhưng những gì tôi có thật gấp trăm nghìn lần cái thế giới mà tôi sống.



    Ở đó, có người mà tôi yêu, có sự quan tâm, có tất cả những thứ mà thế giới thật đã có, hoặc không có... Tôi đã tìm lại được tiếng cười, cười một cách thật tự nhiên. Có những buổi offline làm tôi nhớ mãi...



    Một phút xa nhau vạn phút nhớ

    Một lần gặp gỡ vạn lần mơ.



    Lạ thật, tôi đã từng mơ về một hạnh phúc được sống trong một gia đình thật, nhưng không ngờ đó chỉ là ẢO... Nhưng không sao, có lẽ đối với tôi đó cũng là một cái gì đó, một thứ gì đó thật khác biệt...



    Thật lạ, hôm nay, ngày tôi viết bài văn này cũng là ngày kỉ niệm, ngày chúng tôi gặp nhau trong một gia đình (ẢO)... Nhưng tôi đang cố gắng gìn giữ một cái gì đó, dù biết nó chỉ là ẢO và lời nói có thể là giả tạo nhưng ít ra có còn hơn không. Hơn cả, tôi được làm chính tôi. Tương lai, một ngày nào đó tôi cũng sẽ có một gia đình. Gia đình đó sẽ như thế nào đây?



    Gia đình... Không biết đối với các bạn, đó là gì? Nhưng đối với tôi, nó là một cái gì đó mà có lẽ cả đời này tôi cũng chẳng bao giờ với tới được.

    Lời phê của giáo viên:

    Em đừng nhìn mọi việc theo chiều hướng tiêu cực thế! Nếu quả thực gia đình em có những rắc rối, bố mẹ em có những sai lầm thì chưa chắc đã do họ muốn thế, hoặc cũng có thể họ phải chịu những áp lực nào đó mà hiện nay, em chưa thể hiểu hết được.

    Và đã bao giờ, em nghĩ rằng gia đình là của em, chính bản thân em cũng cần có trách nhiệm vun đắp, xây dựng? Đã bao giờ, em thử mạnh dạn nói chuyện với bố mẹ, bày tỏ những suy nghĩ của mình? Biết đâu, vì sự nghiêm túc của em mà bố mẹ sẽ đổi thay...

    Trong trường hợp xấu nhất, nếu em không thể thay đổi được điều gì, nếu em không thể có một gia đình như mong muốn trong hiện tại, thì em vẫn có thể bằng nỗ lực và tấm lòng mình để vun đắp, xây dựng một gia đình như em mong muốn trong tương lai - khi em đã trưởng thành.

    Hãy tin rằng, cuộc sống sẽ mỉm cười với những ai biết cố gắng. Cô mong em có thể bình tâm và tìm thấy niềm hạnh phúc thực sự.

    Cô giáo của em

    Theo Vietnamnet

  8. #8
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    292
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Cả nước đang thiếu 26.000 giáo viên THPT
    (Dân trí) - Thông tin từ Bộ GD-ĐT cho biết, hiện nay cả nước còn thiếu khoảng 26.000 giáo viên THPT



    Theo Bộ GD-ĐT, cả nước có hơn 134.000 giáo viên THPT, tổng số học sinh THPT là 3.100.000. Tỷ lệ giáo viên THPT/lớp hiện nay đang là 1,98, trong khi theo định mức quy định thì tỷ lệ này là 2,25.

    Để bảo đảm định mức trên cả nước cần phải có 153.000 giáo viên. Số giáo viên cần đào tạo bổ sung là khoảng 19.000 người. Ngoài ra, hằng năm số giáo viên THPT sẽ về nghỉ chế độ khoảng 7.000 người. Như vậy, tại thời điểm này, xét trên tình hình chung cả nước, số giáo viên THPT còn thiếu 26.000 người.

    Để đảm bảo chất lượng giáo dục và đáp ứng yêu cầu xã hội, vừa qua, Bộ GD-ĐT đã chính thức yêu cầu các Sở GD-ĐT xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục và đào tạo năm 2011 và 5 năm 2011 - 2015.

    Theo đó, các địa phương cần triển khai quy hoạch mạng lưới các cơ sở đào tạo giáo dục TCCN, ĐH, CĐ thuộc địa phương quản lý, tập trung đầu tư gắn phát triển quy mô đào tạo với đảm bảo chất lượng đào tạo.

    Theo Bộ GD-ĐT, quy mô phát triển của bậc học này sẽ được tăng dần với mức tăng bình quân chỉ tiêu tuyển sinh ĐH, CĐ là 7%/năm, TCCN 5%/năm.

    Hồng Hạnh

  9. #9
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    292
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Tiến sĩ: 'Không xưng danh thì ai biết là ai...?'
    Sẵn sàng bỏ ra hàng chục ngàn đô la để sở hữu một tấm bằng tiến sĩ, hoặc lựa chọn những cơ sở đào tạo kém chất lượng để có tấm bằng này cho thấy quan niệm ấu trĩ ở một bộ phận trí thức "nửa mùa".


    "Không xưng danh thì ai biết là ai...?"

    Nếu đến một nước phát triển ở châu Âu và giới thiệu bản thân với một người dân bình thường: Tôi đang làm tiến sĩ ở trường X...thì hẳn là bạn sẽ nhận được câu hỏi: Tiến sĩ là làm cái gì?

    Đừng nghĩ rằng dân trí những nước này thấp quá. Đơn giản là bởi "danh hiệu" đó không có gì đặc biệt đối với họ. Nếu giới thiệu mình làm tiến sĩ với người đang công tác trong trường đại học, người ta sẽ hiểu ngay công việc của bạn là gì. Tuy nhiên, với một người dân bình thường thì "danh hiệu" đó không có gì "ấn tượng".

    Tuy nhiên, hãy nói điều đó với ai đó ở nước ta, từ thành thị cho tới nông thôn, ít nhất bạn cũng nhận được một ánh mắt yêu mến tức thì, trong đó có phần ngưỡng mộ, khâm phục.

    Hay thử để ý trong một hội nghị, kể cả hội nghị của ngành giáo dục, trong phần kính thưa hay giới thiệu, lẽ ra chỉ cần nêu: "vụ trưởng A", "thứ trưởng A" hay thậm chí "bộ trưởng A" là đủ, nhưng không, trước chức vụ đó bao giờ cũng phải xướng lên cái danh hiệu "phó giáo sư, tiến sĩ A" hay "giáo sư, tiến sĩ A".

    Tiến sĩ không phải là tước vị mà là một nghề

    Nguyễn Thành Trung, một nghiên cứu sinh tại Bỉ cho biết: Sau khi làm nghiên cứu sinh 5 năm, tôi tự cười mình 5 năm về trước, khi đó tôi đã rất tự hào khi nhận được "học bổng" du học tiến sĩ do trường ĐH trực tiếp cấp. Nói tôi "từng tự hào" vì ngày đó có rất nhiều bài báo ca ngợi những người cùng lúc nhận được rất nhiều học bổng cấp từ các nước tiên tiến.

    Anh nói: "Nhưng giờ thì tôi đã rõ, làm tiến sĩ không có gì quá khó khăn và to tát như người ta tưởng. Làm tiến sĩ là học cách làm nghiên cứu, là chập chững bước vào nghiên cứu khoa học. Trở thành nhà khoa học mới là cái đích cuối cùng. Nhưng con đường từ tiến sĩ tới danh hiệu nhà khoa học còn xa lắm, bởi vì làm tiến sĩ xong mà không nghiên cứu được cái gì, tấm bằng đó cũng coi như vứt sọt rác."

    "Những người chính thức trở thành nghiên cứu sinh của trường (regular Ph.D student) làm việc giống hệt một công chức của trường và được hưởng một mức lương theo qui định. Hình thức trả lương này không phải là học bổng, mà gọi là trợ cấp (grant), một hình thức lương không đóng thuế.

    Các nước Âu –Mỹ rất khuyến khích người nước ngoài ứng cử vào các vị trí này, vì người bản xứ ít người chịu làm công việc nặng nhọc nhưng lương thấp như thế, vào khoảng 1.800 euro/tháng (thu nhập thấp hơn một công nhân quét rác xứ Bỉ, vì họ có thêm 2 tháng lương một năm để đi nghỉ hè). Bên cạnh đó, đào tạo ra một người bản xứ đủ trình độ làm công việc này, họ phải mất chi phí nuôi người đó từ lúc mới sinh cho đến khi xong đại học hoặc thạc sĩ, trong khi đó nếu tuyển người nước ngoài, họ sẽ không mất khoản chi phí đó."

    Anh Trung nhấn mạnh: "Trong quá trình học, tôi chứng kiến nhiều cuộc “ra đi” của đồng nghiệp, cả Tây, cả châu Á, không phải vì họ không giỏi giang mà vì không gặp may: họ gặp phải một đề tài không có đáp số. Tôi cũng ngạc nhiên khi thấy họ ra đi mà vẫn bình thản như không, vì hóa ra, học tiến sĩ với họ đơn giản là làm một công việc, là một phương tiện chứ không phải là một mục đích tối cao."

    "Rõ ràng, đây không phải là chuyện một cá nhân đi tìm kiếm một tước vị mà là chuyện đào tạo một người làm khoa học, hay nói nôm na là đào tạo một nghề nghiên cứu. Chỉ đơn giản là thế. Trong xã hội ở đây, người ta không đặt nặng nề cái danh mà đặt các “thực” lên hàng đầu. Cụ thể là học bổng tiến sĩ của tôi cũng chỉ bằng thu nhập một công nhân nào đó làm việc 8 giờ/ngày. Tôi nói không ngoa, vì một điều rõ ràng nhất là về tiền, danh hiệu tiến sĩ không mang lại nhiều hơn cho họ, trong khi đó công việc nghiên cứu lại nặng nhọc, đầy áp lực về mặt tinh thần."

    "Lương của một người làm việc “postdoc” (sau tiến sĩ) ở Bỉ chỉ khoảng 2.000 euro/tháng, giáo sư thì nhiều hơn tùy theo thâm niên. Tôi từng chứng kiến một bà giáo sư vì bất đồng chuyện cơ quan mà bỏ việc ở trường đại học, đi làm người tính tiền ở siêu thị. Về lương mà nói, cũng chỉ giảm một ít, bởi người tính tiền ở siêu thị cũng được trả khoảng 1.800 euro/tháng sau thuế, lại chẳng phải suy nghĩ gì nhiều!"

    Tú Uyên

  10. #10
    Ngày tham gia
    Sep 2009
    Đang ở
    Tran Khat Chan-Hai Ba Trung-Ha Noi
    Bài viết
    90
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Cảm ơn laotam về các bài sưu tầm phản ảnh một phần bộ mặt của Ngành Giáo Dục Đào tạo Việt Nam hiện nay!

Cảm ơn Bộ GD&ĐT đã tăng lương GV gấp 2,1 lần! ( Thầy Văn Như Cương )
Trang 2 của 4 Đầu tiênĐầu tiên 1234 CuốiCuối

Đánh dấu

Đánh dấu

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •  
.::Thăng Long Kỳ Đạo::.
  • Liên hệ quảng cáo: trung_cadan@yahoo.com - DĐ: 098 989 66 68