Warning: Illegal string offset 'name' in [path]/includes/functions.php on line 6845
Cảm ơn Bộ GD&ĐT đã tăng lương GV gấp 2,1 lần! ( Thầy Văn Như Cương ) - Trang 4
Close
Login to Your Account
Trang 4 của 5 Đầu tiênĐầu tiên ... 2345 CuốiCuối
Kết quả 31 đến 40 của 45
  1. #31
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    292
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Hồi đáp bài
    Tiến sĩ: 'Không xưng danh thì ai biết là ai...?'



    Tiến sỹ ở VN thực tình khôngđược trọng vọng, hay đúng hơn chỉ được trọng vong ở quê.

    Hiện xưng danh TS không hiển vinh gì. Ai cũng ngầm hiểu:TS nghèo nàn kiến thức, trí trá khoa học. Tuy nhiên để kiếm ăn họ cùng nhau đẩy các học vị này.Và XH quản lý kém, thiếu sắc sảo trong nhìn nhận , thiếu dân chủ trong phản ánh vấn đề, thiếu trách nhiệm trong tìm kiếm lợi ích nên vấn đề TS đẩy lên tới cực điểm.

    Đề làm tiến sỹ phải chi nhiều tiền( ngoài tiền ngân sách cấp), trong đó có cả tiền mua luận án (có người bạn tôi chuyên viết thuê luận án).Và khi được TS rồi thì ra sức kiếm ăn: ngồi hội đồng, tìm cơ hội đi giảng( nếu không phải là giảng viên), đứng chân trong các đề tài KH lo lót lên giáo sư, phó giáo sư ( để ngồi hội đồng và về hưu muộn).Các cơ quan chi tiền ngân sách , chi giờ làm việc để làm tiến sỹ, thạc sỹ( và bây giờ đang bỏ ra rất nhiều tỷ ngân sách để đào tạo một loạt TS ơ nước ngoài- để án 322 mà không phải để giảng dạy).

    Ở các cơ quan, Ths, Ts đào tạo về được lên lương , cất nhắc. Có cơ quan tuyên bố cứ TS mới đề bạt cấp vụ.Có cơ quan lấy người ưu tiên Ths( sao bây giờ các em học ở trường ra em nào cũng Ths).Nhiều người nhà nghèo học xong ĐH vội kiếm cho mình một bằng Ths để dễ xin việc.

    Và như thế xã hội vô cùng tốn kém. Nhiều việc không cần TS, Ths, nhất là nó thực chất không có gì là kiến thức. Chúng tôi đi học lý luận cao cấp, TS với được giảng day lớp chúng tôi. Mà giảng dạy lớp cán bộ đi làm thì " mầu" hơn, chứ không phải họ đòi hỏi trình độ cao hơn.

    Và ngay cả cái gọi là trình độ cao hơn ở đất nước chúng ta cũng khó định nghĩa. Nhưng chỉ biết những cái mà những vị TS, GS dạy chúng tôi không cần hoạc tự tìm hiểu chúng tôi cungx biết hết, nhưng chúng tôi phải đi học để lên lương- chuyên viên cao cấp, nên thày trò cùng giải ngân, kiếm việc cho nhau moi tiền ngân sách.

    Cái đáng buồn là chẳng ai dám nói, thời gian cứ mãi trôi đi, ngân sách chi lãng phí mà các thày vẫn kêu là " lương còm". Có ai công bố xem tiền chi một năm cho một học viện là bao nhiêu, chia cho đầu giảng viên- chắc là phải đến nhiều trăm triệu/ người, nhất là cả tiền chi cho các đề tài KH không giá trị gì cho cuộc sống, chỉ là cắt dán kiến thức.

    Nếu là trọng vọng TS, GS, thì ở thành phố người ta đã không phải tìm cách cho con người ta đi nước ngoài du học. Và hiện tại người ta không muốn cho con mình vào cơ quan nhà nước. Và hồi chuông- chảy máu chất xám đang báo động.

    XH đang bị lũng đoạn mà các học vị đang là món hàng mua bán để làm nghèo đất nước.

    Nghiêm cấm ngay việc gửi đào tạo TS trong nước và nước ngoài ( bằng tiền NS)cho các cơ quan NN không liên quan tới giáo dục.Không đào tạo TS, Ths cho những người mới ra trường.

    Không lấy đó làm cơ sở để cất nhắc chức tước.Không cho giáo sư, PhGs được về hưu muộn hơn. không cấp tiền nghiên cưư KH cho các cơ quan không phải là viện nghiên cứu. Đề tài nghiên cứu KH phải được công bố công khai về mức chi ngân sách để mọi người giám sát tính hữu dụng của nó. Hội đồng KH gồm tất cả các nhà chuyên môn, không nhất thiết là TS.


    hathanh


    Trước hết, tôi đồng tình với anh Trung về việc nói tiến sĩ là 1 nghề. Có thể có nhiều người phản đối, nhưng phải đứng trong vị trí của anh Trung, 1 PhD student tại EU thì sẽ hiểu. Tại đây, PhD được kí hợp đồng ngắn hạn (3-5 năm tùy thời gian làm PhD), trả lương định kỳ theo tháng, đi làm công sở như người đi làm bình thường.

    Là 1 người đã từng làm nghiên cứu và hiện đang đi làm tại Pháp, tôi có thể nói rằng đa số người đi làm bận rộn và mệt mỏi hơn người làm PhD, và đa số người VN làm PhD tại đây là vì cái bằng chứ chả phải vì sự nghiệp "kinh bang tế thế" chi cả.

    Có ý kiến của ai đó ở dưới cho rằng PhD là vinh quang, là cao cấp, là phản ánh trình độ tư duy nhận thức, khả năng ứng biến trong công việc (của TS. Hồ Văn Khánh, Viện Hóa học, Viện KH&CN VN - theo chứ kí), tôi ko phản đối, nhưng thế hóa ra người làm nghề khác ko có khả năng đó sao?

    Phải nói thế này, PhD ko phải là vạn năng, có bằng TS ko có nghĩa là làm cái gì cũng giỏi,là có khả năng tư duy hơn người. Nói thế hóa ra tầm thường hóa các nghề nghiệp khác rồi.

    Dưới quan điểm coi TS là 1 nghề, tôi đặt ngang nó với những nghề có lao động đầu óc khác như kĩ sư IT, chuyên viên ngân hàng, .... nhưng với lương thấp hơn rất nhiều. Những người đó họ cũng có tầm nhìn rộng vậy.

    Còn việc gắn TS với tính cách thì quả là ko nên, đã qua cái thời TS được coi là người vượt lên trên mọi người, siêu quần rồi.

    TS bên này khi xin việc vào những công ty thì sẽ có lương ko bằng những người vừa tốt nghiệp trường kỹ sư ra, điều này dễ hiểu vì TS thì chí có kinh nghiệm và tư duy làm nghiên cứu chứ ko có tư duy làm thực tiễn, kinh nghiệm trong môi trường doanh nghiệp. Đó là 2 ngành nghề khác nhau và ko nên nhầm lẫn. Nhiều người nghĩ rằng làm TS thì sẽ có tư duy để học rất nhanh những ngành khác, đi sau mà lên trước. Xin thưa là sai hoàn toàn, cùng điểm xuất phát thì TS khó mà vượt lên được 1 kỹ sư được đào tạo bài bản ở đây trong môi trường công nghiệp (chưa kể thời gian đào tạo của TS thì lớn hơn rất nhiều). Tất nhiên trong môi trường nghiên cứu thì TS sẽ vượt trội.
    Có 1 sự thật thế này mà anh Trung đã nói đúng, sự thật này tôi chứng kiến hàng ngày hàng giờ tại nơi tôi đang sinh sống: đó là đi làm TS dễ hơn đi xin việc tại đây, vì chả có dân bản xứ nào thích đi làm TS cả. Đó là nguyên nhân mà rất nhiều người VN ở lại làm TS sau Master chứ ko phải đi làm (nếu xin việc mà dễ thì đã ko làm TS), vậy đó.
    Cuối cùng, tôi muốn nói là đừng thần tượng hóa TS mà tự gán cho nó những mỹ từ, vậy thôi.

    habc, France, gửi lúc 29/06/2010 20:48:13

    Bài viết của bạn rất hay và có cái nhìn thực tế về bắng cấp tại Việt nam.

    Tôi rất thích câu nói: lao động sinh ra sáng tạo.

    Ví dụ: ở tỉnh Trà Vinh có một ông nông dân đi xúc đất . ông ta luôn nghĩ phải chế tạo được cái máy đào đất và ông ta đã thành công.

    Tại Việt Nam : rất nhiều % các tiến sỹ suốt ngày chỉ sáng tạo chứ không thấy lao động .

    Chúng ta nếu sao chép một công trình nguyên cứu thì người ta bảo đạo sách, còn sao chép nhiều sách về một công trình thì người ta bảo là nghiên cứu"
    Tôi đọc báo có thấy rất nực cười khi một tổ nhiều Tiến sỹ trường ĐH công nghiệp 4 giám đạo luôn một quyển sách marketing của một Tiến sỹ trường ĐH kinh tế về làm sách của mình và bị lên án rất nhiều vỉ mang tiếng đạo sách. nhưng thực ra quyển sách này được dịch (đạo) từ nhiều quyển sách khác ( nghiên cứu) của nước ngoài.

    Tiến sỹ tại Việt nam biết cách nghiên cứu như vậy đó.

    Bài viết của bạn Tú Uyên hơi cường điệu một chút nhưng nói đúng thực chất cái giá trị của văn bằng tiến sĩ ở ngoại quốc.

    Người Nhật có một câu nói " Lên đỉnh Phú Sĩ cầm hòn đá liệng xuống sẽ trúng đầu ít nhất một người Tiến sĩ" để nói lên hiện tượng trong xã hội Nhật người có bằng Tiến sĩ rất nhiều và nó cũng chẳng có gì quan trọng.

    Tôi từng nhận học vị Tiến sĩ Cơ khí Công học tại Đại học Tohoku (Đông Bắc) của Nhật và phải tức tưởi khi đi kiếm việc vì cái học vị Tiến sĩ của mình và sau đó thì vứt rác luôn cái bằng của mình để đi làm cảnh sát vì người ta cần tới tiếng Việt là ngôn ngữ mẹ đẻ của tôi để thâm nhập điều tra trong các vụ án có dính líu đến người Việt hơn là cái bằng Tiến sĩ .

    Ở Nhật Tiến sĩ đồng nghĩa với người có nghiên cứu về chuyên môn sâu hay mở ra một hướng nghiên cứu mới trong một lĩnh vực nào đó.

    Bằng Tiến sĩ rất khó đi kiếm việc làm vì hiếm có phòng nghiên cứu nào hoặc công ty nào có Lab nghiên cứu giống với nghiên cứu mới không giống ai của mình. Kiếm không ra việc thì chỉ một năm sau khi ra trường cái bằng Tiến sĩ đó vứt thùng rác. Ở Nhật ngoài các giáo sư Đại học , hiếm có ai dám viết cái chữ Tiến sĩ trong danh thiếp của mình . Vì sao ? Có lẽ đó là lòng tự trọng tối thiểu của một con người có học thức.

    Có một điều thú vị bằng Tiến sĩ của Nhật không có giá trị bằng Văn bằng Kỹ sư Quốc gia cấp 1. Ở các trường Đại học , giáo sư phần nhiều đều có bằng Tiến sĩ nhưng hiếm có giáo sư nào thi nổi bằng Kỹ sư Quốc gia. Kỹ sư của Nhật đúng nghĩa của nó tức là người phải có kiến thức bác học rộng trong nhiều lãnh vực và có kinh nghiệm thực hành chuyên môn. Mỗi năm có hàng chục ngàn người dự thi nhưng chỉ có vài trăm người mới được công nhận là Kỹ sư quốc gia. Người có bằng kỹ sư quốc gia lúc đó mới gọi là Kỹ sư. Nhiều em du học sinh VN sang Nhật có lẽ chưa quen với xã hội Nhật nên thường in danh thiếp có kèm chữ KỸ SƯ khiến nhiều người Nhật giật mình và sau đó là phá lên cười khi hiểu ra rằng cái chữ Kỹ sư của VN tương đương với người có bằng HỌC SĨ tức sinh viên mới ra trường.

    Tôi có kinh nghiệm đi thông dịch nhiều cán bộ cao cấp cỡ Bộ trưởng trở lên của chính phủ VN và không hiếm lần muốn cười ra nước mắt khi các quan chức Tiến sĩ của Vn sau khi xưng ra đủ danh hiệu cho tôi dịch thì bắt đầu ngớ nga ngờ ngẩn vì một chữ ngoại ngữ bẻ đôi cũng không giao tiếp được khi các quan chức Nhật đồng cấp nghe giới thiệu xong thì dùng luôn tiếng Anh để nói chuyện với họ theo cung cách lịch sự trong ngoại giao mà không cần qua thông dịch viên.
    Thiết nghĩ đã đến lúc Bộ giáo dục VN nên xem xét lại cách dạy cho quan chức và con em chúng ta hiểu và thực hành được một lối sống có LÒNG TỰ TRỌNG và sự TRUNG THỰC nếu không muốn danh dự quốc gia bị biếm nhục.

    Hiểu một cách thông thường , người có bằng TS thì có học thức cao hơn người không có bằng TS và trong công việc thì ý kiến có trọng lượng hơn.

    Hiểu theo ý lãng mạn một chút , TS làm công tác nghiên cứu khoa học có nghĩa là làm lao động sáng tạo tương tự như nghệ sỹ nhưng có cuộc sống chuẩn mực.

    Còn theo các quan chức thì có TS là để cho chắc ghế .Về cơ bản ,học thực sự để có bằng TS cho dù không làm công tác NCKH cũng tốt ,vì dù thế nào nhận thức của những người có TS cũng cao hơn chính mình khi chưa học .Đáng sợ là những người học giả nhưng lại có bằng ,,nguy hiểm cho xã hội hơn nữa là những người có chức có quyền .Học bao giờ cũng tốt , giả vờ học để có bằng (học đểu) bao giờ cũng xấu .

    Có nhiều bạn đọc phản đối khái niệm "làm tiến sĩ không phải là nghề" và quy chụp những tính từ rất nặng nề cho tác giả cũng như nhân vật trong bài báo như "ấu trĩ, sai lầm nhiêm trọng..." nhưng không hiểu các bạn có phải là người trong cuộc không nhỉ?

    Tôi cũng là một người "làm nghề nghiên cứu" ở Bỉ, một nước có An Sinh Xã Hội hàng đầu châu Âu, nên không thể coi nó là một nước kém phát triển về giáo dục được.

    "Làm tiến sĩ" có phải là một nghề hay không? Tôi chính là người làm nghề này, nên tôi sẵn sáng tranh luận với bất kỳ ai, "làm tiến sĩ" chính là một nghề, là một công việc như tất cả những công việc khác.

    Xin hãy phân biệt giữa người "làm tiến sĩ" theo diện chính qui của trường và những người được cử sang "học tiến sĩ" từ các nước đang phát triển như Đông Nam Á, Châu Phi...

    Ở các trường ĐH ở Tây Âu, có rất nhiều nhóm nghiên cứu, hằng năm người ta tuyển dụng người vào làm việc tại các nhóm đấy, gọi là "research".

    Người làm nghề này, cũng như tất cả những nghề khác, phải đáp ứng những tiêu chí nhất định. Sau đó, ký hợp đồng với trường về lương, và ghi danh vào trường với tên gọi là "Ph.D student".

    Tôi được cấp 2 cái thẻ, 1 thẻ sinh viên (student card) và 1 thẻ nhân viên (personal card). Từ lúc đấy, tôi trở thành một người làm việc chính thức cho trường ĐH với chức danh là "research", hằng ngày phải đến office đúng giờ qui định để làm việc. Thử hỏi, đây không gọi là "nghề" thì gọi là gì? Sau 4,5 năm, nếu nghiên cứu của bạn thành công, được công nhận, thì bạn bảo vệ và được cấp tấm bằng Tiến Sĩ, để đi tiếp con đường nghề nghiệp giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học.

    Tiến sĩ và người quét rác, ai cao quí hơn và đáng được vinh danh hơn? Mỗi người đều đóng góp cho xã hội theo cách của họ. Thế giới có bao nhiêu Tiến Sĩ, và trong số họ có bao nhiêu người như John Forbes Nash một tiến sĩ đọat giải nobel kinh tế?

    Nên nhớ, sự vinh danh ở đây, là thành quả nghiên cứu của họ đóng góp cho nhân loại, chứ không phải vinh danh tấm bằng TS. Người quét rác, có đáng được vinh danh không? Các bạn ở nước ngoài, hằng ngày được đi trên những con đường sạch đẹp, hít thở không khí trong lành... đấy là nhờ công ai vậy?

    Với tôi, làm nghề này, cũng như tất cả những nghề khác. Về đặc thù nghề nghiệp, dĩ nhiên phải đáp ứng những yêu cầu nhất định về bằng cấp. Nhưng không vì thế mà tự đặt mình ở một vị trí cao hơn những nghề khác trong xã hội và đòi hỏi người khác phải tôn vinh, ngưỡng mộ.


    Bài báo của bạn Tú Uyên rất hay và thực tế. Tôi cũng tốt nghiệp PhD tại Úc và thấy làm tiến sĩ cũng chẳng quá khó khăn. Chương trình PhD thực tế là dạy cho bạn phương pháp nghiên cứu. Nếu bạn có năng lực nghiên cứu và cần mẫn chăm chỉ, bạn có thể hoàn thành nghiên cứu và có bằng sau 3 năm học. Nói là sau khi học xong Phd, bạn trở thành chuyên gia về lĩnh vực của bạn theo học. Điều này chưa chắc. Sau khi học xong tiến sĩ bạn có nhiều kiến thức và kinh nghiệm về phương pháp nghiên cứu và chủ đề bạn nghiên cứu. Để thành chuyên gia giỏi, bạn phải tiếp tục công việc nghiên cứu và sau 1 thời gian bạn có thể thành 1 tiến sĩ có kiến thức chuyên môn mà thôi!

    Tôi đã từng công tác tại ĐH Basel, Thuỵ Sỹ, là được biết là lương của giáo sư permanent thì cũng chỉ tương đương với người lái tàu có kinh nghiệm (hình như là bậc 7/7, tôi có thể quên). Nghề nào cũng cao quí cả. Ai có năng lực nghiên cứu thì làm tiến sĩ, giáo sư. Nếu không thì làm thợ. Lương bổng cũng không khác nhau quá nhiều.

    Ở VN ta, thì xã hội quá trọng văn bằng chữ nghĩa và không quan tâm nhiều đến kết quả công việc thực tế. Nhiều trường đại học có quá nhiều giáo sư và phó giáo sư và không có đến một công trình cấp quốc tế hay khu vực. Không biết có bao nhiêu giáo sư VN có thể giảng bài bằng tiếng Anh trực tiếp được nhỉ. Không biết có bao nhiêu giáo sư và tiến sĩ VN có thể viết 1 đề cương nghiên cứu của sinh viên PhD mà được 1 trường đai học của Úc chấp nhận ngay từ lần đầu tiên. Cá nhân tôi nghỉ là không quá 5%. (Nếu giả thuyết của tôi là đúng thì chính sách kéo dài tuổi làm việc của giáo sư có thể là 1 sai lầm và làm chậm quá trình phát triển giáo dục VN!!!)

    Tôi nghĩ là để VN phát triển thì cần phải thay đổi lại quan niệm về GS và TS. Vì xã hội chúng ta đặt GS và tiến sĩ là đỉnh cao trí tuệ loài người và quá trọng tước vị hơn là khả năng thực lựcdo vậy tìm 1 thứ, bộ trưởng không có tước hiệu GS và TS hiện nay là hơi bị khó đấy. Là bộ trưởng hay thứ trưởng thì cần năng lực quản lí và lãnh đạo chứ đâu cần kỹ năng nghiên cứu và giảng dạy đại học!

    Cũng vì danh mà 1 số người lúc nào cũng kèm theo cả chức danh Viện sĩ. Theo tôi hiểu, viện sĩ của ta chỉ là membership của 1 hội chuyên môn nào đó. Có đóng tiền fee là có luôn membership. SV có thể được giảm giá fee. Có người nói là riêng ở Nga (hoặc LX cũ) thì viện sĩ thực sụ là cao quí. Tôi không học ở LX nên cũng không chắc lắm. Cao quí là vì nó gắn liền với quyền lực thôi.

    Tôi thì nghĩ là vì quan điểm xã hội và chính sách cán bộ chúng ta quá đề cao giá trị danh vọng của bằng cấp. Cũng vì bằng cấp này là con đường tới tiền bạc do vậy người ta xem TS và GS như 1 hình thức đầu tư kiếm lời hơn là học thuật để phát triển. Có lẽ chỉ có VN mới có sự trọng vọng bằng cấp thái quá như thế này và cũng không biết có thây đổi được điều này trong bối cảnh chính trị xã hội này không.


    Cần phải thay đổi tư duy này thì mới phát triển được.
    Lần sửa cuối bởi laotam, ngày 30-06-2010 lúc 02:23 AM.

  2. #32
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    292
    Post Thanks / Like

    Mặc định ( tiếp theo )

    Cảm ơn tác giả bài báo. Tôi là người dân bình thường nhưng chỉ thấy như sau
    1.Việt Nam ta có rất nhiều Tiến sĩ, rất nhiều viện nghiên cứu, rất nhiều trung tâm nghiên cứu khoa học từ TW, Bộ, Hội và cả Đảng bộ của tỉnh, thành phố nữa. Ngặt một nỗi, nước ta cứ mãi nghèo, làm cái gì cũng thấy sai, cũng thấy sửa mãi. Làm con đường thì mãi không xong, làm xong thì toàn là đường đắt nhất hành tinh. Nông dân nghìn đời nay vẫn chỉ đạt năng suất lao động bằng 14% so với người Singapore. Chúng ta hô hào hiện đại hóa, công nghiệp hóa mà đến giờ từ cái máy phun thuốc sâu cơ học - nhọc nhằn cũng vẫn "Made in China". Không biết đến bao giờ thì ta sẽ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tôi tin chắc rằng đến lúc đó (2020) ta sẽ có sáng tạo là CNH-HĐH theo tiêu chuẩn Việt Nam.
    2.Ở ta cái chứng háo danh nó nặng quá, lên truyền hình thấy toàn tiến sĩ, nhưng nghe trả lời thì chán không chịu nổi, háo danh, sĩ hão thì không thua nước nào. Một cuộc truyền hình trực tiếp, cái ông MC gì đó giới thiệu hàng lô chức danh, hàng lô các đồng chí đến dự. Tôi được biết, phí quảng cáo trên truyền hình là rất cao cỡ vài trăm triệu cho 1-2 phút, vậy mà họ không biết lãng phí là gì, mà họ phải nghĩ người nghe có muốn nghe họ "bêu" tên các vị ấy lên lắm như vậy không chứ. Rồi các cô MC truyền hình khi phỏng vấn thì cứ nói mãi một câu, tôi ví dụ là cô Kim Ngân khi phỏng vấn một vị là GS-TS-Bác sỹ, cứ đọc mãi "Thưa GS, TS, BS ..." mà cô ấy không thấy mệt à.
    3.Cuối cùng chỉ dân thường thì là khổ, suốt ngày được đem ra làm ví dụ cho các cái đề tài, nghiên cứu không giống ai của các ông tiến sĩ ấy. Từ chuyện cấm xe máy, đèn xanh đèn đỏ, bịt ngã tư, bảo hiểm y tế phải chứng minh không vi phạm luật giao thông,... nhiều lắm không kể siết.


    Có thể nói chưa có đất nước nào lại sình thành tích như VN, trong đó sính các danh hiệu, kể cả học hàm, học vị!
    Có lẽ vì thiếu cái gì thì sính cái đó? Ví như thiếu căn nhà lầu thì mơ có nhà lầu để cho oách cùng thiện hạ, mơ chiếc xe tay ga, mơ trở thành nhà kinh doanh bất động sản...Và dĩ nhiên, mơ làm quan chức là cái mơ lớn hơn cả, nhiều hơn cả vì thực tế hiện nay chẳng có mấy ai làm quan mà chịu cảnh nghèo.
    Và cứ như đùa, người VN đua nhau chạy bán sống bán chết cho có mảnh bằng. Một người thi cao học (cũng chẳng hiểu để làm gì vì trình độ chuyên môn cũng như ứng xử hàng ngày của người ấy đã thể hiện ra hết, ai cũng cảm nhận nền tảng văn hóa của họ đứng ở đâu), không biết một chữ tiếng Anh, vậy mà trong vòng một năm đã lo xong tới bằng C để có thể ung dung học cao học!
    Nhiều người văn hóa nền chẳng mấy, bỗng dưng một ngày kia khoe ra bằng cử nhân, thạc sĩ kinh tế, chính trị, báo chí, văn hóa...
    Có người nhận xét họ có bằng vì họ đã kiên nhẫn hơn những người tự trọng khác là dũng cảm đăng ký đi học đại học, cao học; có tiền để chung chi..., chẳng thế mà một anh già kia đang làm cái chân chạy hàng ở một công ty, công ty thua lỗ giải thể, vậy mà loáng một cái anh ấy đã có bằng thạc sĩ rồi ra đi dạy ở một trường đại học dân lập!
    Cũng đâu cần có công trình nghiên cứu nào, mà các công trình nghiên cứu chuyên đề cá nhân hay tập thể tỉnh nào cũng có, trường nào cũng có, cứ có công trình là họ móc được tiền của Nhà nước sau khi "bùa phép" để nghiệm thu với một vài "phản biện" lấy lệ. Và rồi những công trình đó cất ngay vào tủ đựng hồ sơ cho đến muôn đời vì có đưa ra áp dụng cũng không có cơ sở, không có thực tiễn vì đâu có thời gian tìm tòi các cứ liệu, so sánh, đối chứng; phản biện; đề xuất...
    Đây chính là hậu quả của một chính sách "khuyến học", "khuyến tài" đầy khập khễnh ở các cơ quan Nhà nước rất lãng phí và kém hiệu quả. Một người nước ngoài sau quá trình đến VN làm việc và đụng vào các thủ tục hành chính đã thốt lên : VN không có người chuyên nghiệp để làm việc mình cho tốt, cho thạo, làm một cách tập trung vì công vụ; nhưng lại có đầy rẫy những ông, bà thạc sĩ, tiến sĩ mà đi đến đâu tôi cũng được giới thiệu!


    Đọc xong bài viết trên cho chúng ta sáng tỏ ra nhiều điều. ở nước ngoài người ta chỉ cần tiến sỹ để làm nghiên cứu thôi, chứ ở ta làm hành chính cũng đi học tiến sỹ ầm ầm, vừa tốn tiền vừa tốn thời gian. thời gian ấy tốt nhất học tiếng anh, để có thể đọc tài liệu nước ngoài, và khi ra nước ngoài công tác thì ko cần phiên dịch, đỡ tốn tiền ngân sách.

    Đến nước phát mà lương tiến sỹ cũng chỉ 1800 euro, bằng lương nhân viên quét rác. vậy mà các trường đại học của ta đang kêu trời đòi nhà nước trả lương 1000 usd/1 tháng. trong khi đó là thu nhập trung bình cả năm của dân VN. có nước nào trả lương giáo viên 1 tháng bằng thu nhập trung bình cả năm của người dân không? Rồi còn bày đặt ko thể xóa hệ đào tạo tại chức vì đó là "nồi cơm" của các thầy, cô? Thực tế những nơi này là nơi các quan chức ( hoặc chí ít là con cháu quan chức) thực hiện mục tiêu trèo cao, đào sâu ( thực tế cho thấy con em các vị này chỉ học tại chức nhưng vẫn vào làm công chức, trong khi sinh viên ra trường không có việc làm vì họ nói là hết chỉ tiêu?)

    Cám ơn tác giả bài viết đã xới lên những tranh luận về chủ đề này, một góc nhìn rất hay và thực tế.

    Đề nghị Bộ GD - ĐT xem lại mục tiêu đào tạo 23.000 tiến sỹ cho 10 năm tới.


    Bài báo rất hay, cung cấp nhiều thông tin đa chiều để có sự nhìn nhận đúng nghĩa và thực tế về "Tiến sỹ". Tôi đang là Thạc sỹ và tôi cũng đã từng "ngỡ ngàn" khi đọc những luận án tiến sỹ của các trường ĐH trong nước, và tôi lại tự hỏi "TS là vậy sao", Sau khi đọc bài này thì đã có câu trả lời, Thạc sỹ, TS chỉ là học cách làm nghiên cứu, chứ không có gì quá to tát, từ cách làm nghiên cứu , đến một kết quả khoa học và cả một sự khác biệt. Nhưng rõ ràng XH, cách giáo dục của chúng ta đã làm cho tôi và cả chính bạn nhiều lúc "từng tự hào" về thành tích, về bằng cấp của chính mình. XH, truyền thông cũng đừng quá tung hô kiểu như là : anh X nhận học tổng TS vài trường ĐH hay anh X lấy bằng TS rất trẻ..., hãy để những giá trị của giáo dục đúng với vị trí của nó. và các bạn trẻ cũng đừng vội và hạn chế tự hào, để đến khi như tôi như anh Thành Trung lại phải nói "Từng tự hào".

  3. #33
    Ngày tham gia
    Jun 2009
    Bài viết
    42,921
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Chuyển sang phần : Thông tin từ những trang khác chủ topic nhé !!!
    CÓ CHỖ ĐỨNG , CỨNG CHỖ ĐÓ

    Đăng Ký tham gia Học cờ trực tuyến - Học cờ online - Cơ hội nâng cao kỳ nghệ cùng kiện tướng quốc gia Vũ Hữu Cường , Bình luận viên kiêm nhà tổ chức Phạm Thanh Trung :


    CHAT ZALO : 0935356789



    Website học cờ trực tuyến : http://hocco.vn/



  4. #34
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    292
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Tản mạn về mảnh bằng Ph.D


    Những năm gần đây có khá nhiều sinh viên Việt Nam du học ở Mỹ và nhiều nước khác, bằng nhiều con đường khác nhau. Người có học bổng, chức trợ giảng (teaching assistant - TA), hoặc trợ nghiên cứu (research assistant - RA), người thì du học tự túc. Tôi không nhớ chính xác là đã đọc ở đâu đó rằng có hơn nghìn du học sinh mỗi năm sang Mỹ. Nhiều người trong số họ theo học tiến sĩ (Ph.D).

    Thông tin về làm thế nào để xin học bổng, TA, RA, xin thư giới thiệu, cách viết dự định cá nhân (personal statement), vân vân đầy rẫy trên các mailing lists trên Internet.

    Thế nhưng, một số câu hỏi quan trọng mà tôi ít thấy sinh viên hỏi là: "tại sao lại học Ph.D?", "có đáng bỏ thời gian học Ph.D hay không?", "làm thế nào để đánh giá mảnh bằng Ph.D?", "tôi có đủ khả năng để học Ph.D hay không?", "học Ph.D xong rồi làm gì?", vân vân.

    Có lẽ ta cần một luận án ... Ph.D để trả lời phần nào thỏa đáng các câu hỏi trên. Cũng có lẽ có ai đó trong các ngành giáo dục hay tâm lý học đã làm rồi. Về mặt kinh tế thì một người bạn cho tôi biết đã có cả mớ công trình nghiên cứu về “cái giá của giáo dục” (returns to education).

    Trong bài viết này, tôi thử lạm bàn lan man xung quanh các câu hỏi trên. Bài viết hoàn toàn không mang tính hàn lâm (academic), nghĩa là sẽ không có các con số thống kê, bảng phân tích, để ủng hộ một (vài) luận điểm nào đó. Sẽ không có tham khảo đến các nguồn thông tin tín cẩn và các thứ tương tự. Tác giả chỉ dựa trên các kinh nghiệm, quan sát, và suy nghĩ cá nhân, sau gần chục năm học và "hành nghề" Ph.D ở Mỹ.



    Tôi chắc là một cá nhân khác trong hoàn cảnh của tôi sẽ có không ít ý kiến bất đồng. Tôi cũng không có tham vọng nói hết được những cóp nhặt kinh nghiệm của mình. Ngoài ra, tôi sẽ nhấn mạnh nhiều hơn mặt trái của việc học Ph.D.

    Ðiều tôi hy vọng là qua bài viết này, tôi có thể giúp cho các sinh viên (cùng gia đình) sẽ và đang học Ph.D ít nhiều chuẩn bị tinh thần cho đoạn đường chông gai nhưng thú vị này; hy vọng chỉ ra được một góc nhìn khác về Ph.D so với quan niệm chung của xã hội.

    1. Ph.D là gì ?

    Trước hết ta hãy thử bàn về mảnh bằng Ph.D từ cái nhìn hàn lâm. Ph.D là viết tắt của chữ Doctor of Philosophy. Học bậc Ph.D, cao nhất trong các học bậc, đầu tiên xuất hiện ở Ðức, sau đó được Mỹ và nhiều nước phương tây khác sử dụng. Bằng Ph.D đầu tiên của Mỹ xuất hiện khoảng cuối thế kỷ 19. (Ơ Y' cho đến những năm 1980 mới có bằng Ph.D.)

    Từ Ph.D có gốc latin là Philosophiae Doctor. Chữ doctor nghĩa là "thầy" (teacher), và "chuyên gia", "chức trách" (authority). Chữ philosophy (triết học) có nguồn gốc từ thời trung cổ (medieval) ở Châu Ảu, khi mà các trường đại học có bốn chuyên khoa (faculty) chính: thần học (theology), luật học (law), y học (medicine), và triết học (philosophy). Philosophy ở đây dùng để chỉ các ngành học không dẫn đến một nghề nghiệp thực tế nhất định của thời đó như người của nhà thờ, luật sư, và bác sĩ.

    Ðến nay thì không phải Ph.D nào cũng liên quan đến philosophy, cho dù lấy theo nghĩa bóng nhất của từ này. Tuy nhiên chữ doctor vẫn mang đầy đủ ý nghĩa của nó. Ở phương Tây, trong nghi thức giao tiếp người ta gọi một người có bằng Ph.D là doctor. Hầu hết các trường đại học đều đòi hỏi toàn bộ giảng viên và các giáo sư có bằng Ph.D. Ða số các nhà nghiên cứu ở các phòng nghiên cứu chuyên nghiệp đều có bằng Ph.D.

    Tuy vậy, điều ngược lại không đúng: không phải tất cả các Ph.D đều có thể làm giảng viên, giáo sư, hay nghiên cứu viên. Có những Ph.D thậm chí chẳng bằng một kỹ sư thông thường. Cũng có khá nhiều Ph.D, sau khi "hành nghề" một thời gian thì lên chức, hoặc chuyển sang làm salesman hoặc làm quản lý, vân vân. Ta sẽ quay lại đề tài này sau.

    Cái nhìn hiện đại của Ph.D như sau. Ðể hoàn tất Ph.D, sinh viên phải đạt được hai mục tiêu chính: (a) hoàn toàn tinh thông một ngành (hoặc phân ngành) nào đó, và (b) góp phần mở rộng khối kiến thức của nhân loại về ngành đó.

    Mục tiêu (b) là cái lõi để phân biệt bậc Ph.D với các bậc học khác. Ph.D không phải là cái bằng "nhai lại": đọc nhiều, thi lấy điểm cao là xong. Một Ph.D đúng nghĩa phải có một vài công trình và ý tưởng nghiên cứu của riêng mình (originality).

    Về mặt lý thuyết thì là thế. Thực tế ra sao?

    2. "Nghề" Ph.D: đoạn trường cũng lắm chông gai

    Ở Mỹ, là sinh viên sau đại học (graduate student) cũng là một nghề. (Tôi không dùng từ "nghiên cứu sinh" vì không phải graduate student nào cũng làm nghiên cứu thực thụ, nhất là các sinh viên đang học thạc sĩ.) Các graduate students thường làm TA hoặc RA, với mức lương khoảng 900USD đến 1200USD một tháng (sau thuế), tiền học được bao. Sống tằn tiện thì mức lương này vừa đủ một người sống. Thường thì các gradudate students sống chui rúc trong một căn hộ nhỏ bé nào đó (dĩ nhiên là có ngoại lệ, đa phần do may mắn), hầu hết thời gian dùng ở các phòng lab (phòng thí nghiệm hoặc phòng máy tính) và thư viện. Tối về đến nhà là lăn ra ngủ để rồi sáng mài mèo con lại hớn hở bút chì bánh mì lên đường.

    Kể chuyện cuộc sống gradudate students thì có lẽ cần một tiểu thuyết vài trăm trang. Ðiều tôi muốn đề cập là: trong hoàn cảnh làm việc căng thẳng như vậy, một sinh viên thông thường thỉnh thoảng sẽ phải tự đặt câu hỏi "có đáng không?" Nhất là khi công việc học tập và nghiên cứu không trôi chảy. Mà kể cả khi nó hoàn toàn trôi chảy, tính về các mặt kinh tế, tinh thần, thời gian, và ... philosophy, câu hỏi trên vẫn hoàn toàn hợp lệ.

    Về mặt kinh tế thì lương trung bình của Ph.D ra trường có nhỉnh hơn thạc sĩ (M.S) và bậc đại học (B.S) một chút, nhưng sự khác biệt này không khỏa lấp được lỗ lã cho thu nhập đã mất trong khoảng thời gian làm Ph.D: trung bình từ 4 đến 5 năm. Tính tổng số USD kiếm được cho mỗi giờ học tập thì Ph.D là hạng bét (tính tương đối theo từng ngành học).

    Về mặt tinh thần thì làm việc căng thẳng và cật lực trong một thời gian dài trong một môi trường cạnh tranh tương đối công bằng nhưng khắc nghiệt (!) hoàn toàn có thể ảnh hưởng xấu đến tâm lý cá nhân. Ðiều này đặc biệt đúng với sinh viên du học: thiếu thốn các nhu cầu văn hóa và tinh thần cơ bản của quê hương, cơ hội tìm bạn tình hoặc bạn đời bị giảm thiểu (với phái nam), vân vân. Không phải hiếm mà người ta hay thấy bọn Ph.D hơi ... gàn gàn. Công bằng mà nói, gradudate students do thiếu thốn văn hóa hay tìm cách nghiên cứu học hỏi thêm cái này cái khác ngoài ngành của mình (nhạc, thơ, lịch sử, chính trị, triết học, ...), cho nên bọn gàn cũng có thể rất đa tài. Ở Mỹ thì địa vị xã hội của một Ph.D cũng chẳng hơn gì các nghành nghề khác là mấy.

    Yếu tố tinh thần này rất quan trọng. Có không ít các gradudate students cần đến 8, 9 năm mới làm xong Ph.D. Nhiều năm trời "ở mãi kinh kỳ với bút nghiên", ngoảnh đi ngoảnh lại chưa làm được gì ra hồn mà đã ngoài 30. Khi thị trường việc cho Ph.D bị thuyên giảm thì người ta rơi vào cái vực muôn thuở: "về hay ở", "về thì đâm đầu vào đâu?". Nhiều năm làm việc với mức lương vừa đủ sống, các Ph.D mới ra trường hoàn toàn không dành giụm được gì, chưa nói đến việc nợ thẻ tín dụng kha khá. Dù các nhà chức trách đã có kế hoạch đãi ngộ nhân tài, chế độ này vẫn còn xa rời thực tế. Ðầu tư tinh thần và thời gian của một Ph.D quá nhiều để có thể hài lòng với một công việc một vài triệu đồng một tháng. Họ sẽ phải tự hỏi: nếu xưa mình không đi học thì bây giờ cũng có thể đã phây phây lương vài triệu một tháng? Vậy cả chục năm trời bỏ ra công cốc à? Tôi đã nhập nhằng yếu tố tinh thần và kinh tế, nhưng đôi khi ta không tách rời chúng được.

    Một khía cạnh khác của yếu tố tinh thần là sức ép của gia đình và người thân. "Người ta 4 năm đã xong Ph.D, vợ con nhà cửa đàng hoàng, bọn không Ph.D thì cũng giám đốc với trưởng phòng, xây nhà to cửa rộng cho bố cho mẹ; còn mày bây giờ ngoài 30 mà vẫn cứ lông bông tay trắng. Ông chẳng ra ông, thằng chẳng ra thằng".

    Về mặt triết học mà nói thì có đáng học Ph.D không? Câu hỏi này phụ thuộc rất nhiều vào bản thân sinh viên: đi học Ph.D để làm gì? Ta sẽ quay lại điểm này trong phần tới.

    Bây giờ hãy giả dụ cô/anh Ph.D yêu dấu của ta tìm được một công việc ổn định ở nước ngoài, quyết định ở lại tích lũy tư bản giúp gia đình và tích lũy kinh nghiệm để sau này, cách này hay cách khác, (về) giúp quê hương. Có hai nhánh công việc chính cho một Ph.D mới ra trường: (a) làm việc ở một phòng nghiên cứu chuyên nghiệp nào đó, và (b) một chân giảng viên hoặc giáo sư ở một trường đại học.

    (Hai công việc này có thể chỉ có được sau một vài năm làm postdoc nữa . Ta hãy cứ gộp luôn postdoc vào tổng thời gian cho tiện, mặc dù lương postdoc khá hơn lương gradudate students.)

    Lương bổng và giá trị của vị trí mới phụ thuộc hoàn toàn vào việc người ta đánh giá Ph.D như thế nào. Tôi sẽ bàn về việc này trước. Tôi cũng có ý nói lan man vềđề tài "định trị Ph.D" sau khi đọc một bản tin ở VNExpress thấy trong nước người ta có nói về đánh giá Ph.D loại "giỏi, khá, trung bình" (sau một buổi họp nào đó). Phạm vi "định trị Ph.D" của tôi chủ yếu áp dụng cho các nghành kỹ thuật và khoa học tự nhiên như điện, điện tử, khoa học máy tính, toán, lý, ...

    Khi xưa thì giá trị của một Ph.D mới ra trường tùy thuộc vào giá trị công trình nghiên cứu trong luận văn tốt nghiệp. Sau khi ra trường thì doctor mới sẽ phát triển công trình này thành một vài bài báo đăng ở các tạp chí (journals) và hội nghị (conference) chuyên ngành. Các bài báo này đều được phê bình (reviewed) bởi các chuyên gia đã trưởng thành trong cùng ngành. Các bài báo không đóng góp gì nhiều hoặc vớ vẩn sẽ không được nhận đăng.

    Hiện nay thì áp lực đăng báo (publication) của graduate students khi còn đang học lớn hơn gấp bội. Một công việc kha khá ở một trường đại học hay phòng nghiên cứu danh tiếng thường nhận doctor mới với hơn chục bài báo. Trung bình một giáo sư trẻ mới ra trường trong ngành khoa học máy tính có đến khoảng 3-5 journal papers và cả chục conference papers.

    Dĩ nhiên số lượng là thứ yếu, chất lượng mới quan trọng. Một công trình chất lượng cao sẽ được nhiều người biết đến rất sớm, và có thể nói không ngoa là nó quan trọng hơn cả trăm bài báo dạng ... "bổ củi". (Bổ củi là tính từ dân gian trong giới khoa học Việt Nam để chỉ các bài báo thường thường bậc trung, ai làm mãi rồi cũng xong.)

    Ðối với Ph.D ở Mỹ thì điểm học trung bình khi học Ph.D hầu như không mang ý nghĩa gì cả, ngoại trừ điểm tối thiểu để có thể được tiếp tục học, khoảng chừng 3.3 đến 3.5 trên 4.0, tùy theo trường. Số lượng và chất lượng các bài báo và các công trình nghiên cứu khác (một ứng dụng máy tính chẳng hạn) mới là tiêu chí đánh giá Ph.D. Không có chuyện người ta xếp loại Ph.D trung bình, yếu, giỏi, khá, vân vân. Lý do chính là: làm chuyện này hầu như là vô vọng. Ai có đủ thẩm quyền và thời gian để đánh giá. Kể cả giáo sư hướng dẫn chưa chắc đã biết hết về phân ngành mà sinh viên của mình làm, huống gì người ngoài. Có rất nhiều công trình đăng báo vài năm hoặc vài chục năm sau người ta mới thấy hết giá trị của nó. Cũng có cả tỉ công trình lúc mới đăng thì ai cũng xúm vào khen, nhưng vài năm sau thì lặng tăm.

    Dĩ nhiên có khá nhiều các công trình mà người trong ngành đọc biết ngay là "dỏm" hay "xịn". Nhưng vấn đề chính là không ai có thời gian xếp loại và định trị Ph.D. Ở Mỹ, kinh tế thị trường tương đối công bằng. Ph.D giỏi sẽ được đồng nghiệp biết đến, tìm được việc ở các trường đại học và phòng nghiên cứu danh tiếng, vân vân. Cũng có thể có Ph.D giỏi không tìm được việc, hoặc Ph.D dỏm "lọt lưới" cung cầu. Các trường hợp này đều là ngoại lệ hiếm hoi.

    Lại nói thêm về đăng báo. Ta hãy nhớ mục tiêu (b) của Ph.D: đóng góp vào khối kiến thức của nhân loại. Ph.D mà không có bài báo nào thì có 10 Ph.D cũng hoàn vô nghĩa, theo nghĩa tinh khiết nhất của chữ Ph.D. Chí ít, Ph.D phải chia xẻ các thu lượm và nghiên cứu của mình với đồng nghiệp ở một vài hội nghị và journal danh tiếng nào đó.

    Các nhà xuất bản khoa học ở phương Tây cũng làm kinh tế. Có rất nhiều các hội nghị và journals hạng bét, bài vớ va vớ vẩn cũng đăng vào được. Chỉ có người trong ngành mới biết được hội nghị và journal nào có uy tín. Mà kể cả ở các nơi có uy tín này ta vẫn có thể tìm thấy các bài báo tồi.

    Tóm lại, công việc "định trị Ph.D" hoàn toàn không đơn giản chút nào. Áp lực phải đăng báo đè rất nặng lên vai các gradudate students. Ngược lại, cảm giác công trình của mình được đồng nghiệp công nhận và đánh giá cao cũng rất tuyệt vời!

    Trong 5, 6 năm đầu sau khi ra trường, bất kể công việc là giáo sư hay nghiên cứu viên, áp lực viết báo và xin tiền làm nghiên cứu còn nặng hơn khi còn là sinh viên nữa.

    (Ở đây ta loại trừ các trường hợp người ta chỉ muốn có Ph.D để theo đuổi nghề giảng viên (lecturer) nào đó. Có lẽ phải khẳng định rằng mục tiêu này cũng cao quí như các mục tiêu "cạnh tranh khắc nghiệt" khác.)

    Nếu Ph.D trẻ không khẳng định được mình trong 5, 6 năm đầu tiên này thì thường là sẽ không giữ được công việc của mình. Có lẽ bạn đọc cũng có thể tưởng tượng được áp lực này nặng như thế nào. Các bài báo đều là các công trình sáng tạo mà trước đó chưa có ai làm, chưa có ai nghĩ ra (chí ít là về nguyên tắc). Làm thế nào mà ai đó có thể đảm bảo một năng suất sáng tạo nhất định trong một thời gian dài như vậy? Có đáng bỏ ngần ấy thời gian và công sức cho một mục tiêu mà phần thưởng về cả kinh tế, tinh thần, triết học, sức khỏe đều khá mập mờ?

    3. Tại sao lại học Ph.D? Có nên học Ph.D không?

    Ta thử ghi ra đây một phần nhỏ các lý do:


    a) Bạn bè đều đi nước ngoài học sau đại học.
    b) Ðược xã hội nể trọng, oách ra phết.
    c) Ðể học được kiến thức tiên tiến.
    d) Không rõ lắm. Từ bé học đã giỏi, thì cứ tiếp tục học.
    e) Có lẽ là con đường duy nhất để cải thiện đời sống gia đình và cá nhân.
    f) Ðể mở tầm mắt ra những chân trời mới.
    g) Ðể sau này về làm giáo sư đại học.
    h) Ðể được làm nghiên cứu khoa học.
    i) Ðể thay đổi thế giới quan.
    ......
    z) Tất cả các lý do trên.

    Và z phẩy) Không làm Ph.D thì làm gì?

    Ðối với đa số gradudate students và graduate-students-tương-lai thì câu trả lời là một tập con khá lớn của vài tá câu trả lời mà ai cũng có thể nghĩ ra.

    Ta hãy thử phân tích vài chọn lựa quan trọng nhất.

    Làm Ph.D để mở mang kiến thức. Ðây là một mục tiêu rất quan trọng và mang tính cá nhân. Mark Twain từng nói: "đừng để trường lớp cản trở con đường giáo dục của bạn" (Don't let school get in the way of your education). Trường lớp không phải là con đường duy nhất đến Rome của tri thức. Tuy vậy, trong hoàn cảnh lạc hậu của một nước thế giới thứ ba như Việt Nam ta, thì ra nước ngoài học thêm là con đường hữu lý.

    Câu hỏi chính mà ta nên đặt ra là chỉ nên học M.S thôi, hay là học cả Ph.D. Chỉ về kiến thức mà nói, thì hai năm M.S cũng đủ cho một sinh viên thông minh sau đó tự học. Làm Ph.D cũng đa phần là tự học thôi.

    Làm Ph.D để có một cuộc sống tốt đẹp hơn, được xã hội nể trọng hơn; vì bạn bè ai cũng học Ph.D; có bằng Ph.D rất oách; từ bé đã học giỏi thì cứ tiếp tục học; vân vân.

    Một Ph.D thực thụ sẽ cho bạn biết rằng các lý do loại này đều là sai lầm to lớn! Tôi hoàn toàn không có ý định "giảng đạo" về chọn lựa cá nhân của ai. Tôi cũng không nói động cơ "hám bằng cấp" hay "oai oách" là sai trái. Ðó là chọn lựa của từng cá nhân. Ðiểm tôi muốn nói là các động cơ loại này sẽ không thể giúp sinh viên hoàn thành tốt việc học Ph.D. Việc hay so sánh mình với bạn bè và người khác sẽ tạo nên áp lực tinh thần không thể chịu nổi trong khi học. Yêu thích "tiếng tăm" cũng vậy. "Học giỏi", theo nghĩa ở ta, là thi thố điểm cao và "nhai lại" những gì được dạy, cho nên học giỏi chưa chắc đã liên quan mấy đến khả năng sáng tạo - khả năng sống còn của Ph.D.

    Từ khóa dẫn đến thành công của sinh viên Ph.D phải là “đam mê". Ðam mê học hỏi và sáng tạo trong một phân ngành nhất định! Trừ những người thật sự xuất chúng thì đa số chúng ta sẽ không thể làm thành công Ph.D ở một ngành nào đó chỉ vì "xã hội cần nó", hay "nó kiếm ra tiền".

    Nếu chỉ đam mê học hỏi không thôi thì cũng không đáng bỏ ra ngần ấy thời gian để làm Ph.D. Ta hoàn toàn có thể làm M.S rồi tự đọc, tự học thêm.

    Tất cả các thành quả như chức vụ, danh tiếng, oai oách, vân vân đều phải, và nên, là sản phẩm phụ của quá trình theo đuổi nỗi đam mê sáng tạo và mở mang tri thức này.

    Ðấy là nói về "động lực" học Ph.D. Thế còn "khả năng" thì sao? Quá trình học Ph.D lên xuống như hình sin. Sẽ có bao nhiêu trở ngại kinh tế, tinh thần phải vượt qua. Một trong những trở ngại lớn nhất là: sau một vài thất bại trong nghiên cứu, các sinh viên sẽ phải tự hỏi "ta có đủ khả năng làm Ph.D không nhỉ?"

    Ðam mê và khả năng tạo thành cái vòng luẩn quẩn. Ta có xu hướng đam mê cái mà ta giỏi, và ta thường xuất sắc ở công việc mà ta đam mê. Nhảy vào được cái vòng này là hành trình cá nhân. Có lẽ không ai trả lời thay ta được.

    4. Phụ huynh: xin đừng gây áp lực tâm lý
    Không ít các bậc phụ huynh mà tôi được dịp quan sát đặt rất nhiều kỳ vọng vào con em mình về con đường hàn lâm. Họ đầu tư tiền bạc và thời gian, nuôi niềm hy vọng ngày nào đó sẽ có một "trạng nguyên" vinh quy bái tổ, nở mày nở mặt với hàng xóm láng giềng và bè bạn. Chuyện này có ở tất cả các học bậc, không riêng gì Ph.D. Tuy vậy, áp lực ở Ph.D lớn hơn khá nhiều vì graduate students sẽ phải cạnh tranh với các sinh viên xuất sắc trên toàn thế giới.

    Tôn trọng tri thức và học tập là điều tốt, và bằng cấp là một thước đo tương đối chính xác của tri thức. Nhưng nó không phải là thước đo duy nhất. Ðó là chưa nói đến các câu hỏi như: đạt được tri thức loại gì thì mới được coi là "thành nhân"? Khó mà có thể đo lường xem một Ph.D và một anh đạp xích lô ai có "đóng góp" nhiều hơn cho xã hội, hay ai "hạnh phúc" hơn ai, theo bất kỳ nghĩa nào của các từ này. Có một ranh giới rất bé giữa "tôn trọng tri thức" và "hám bằng cấp".

    Hy vọng tôi đã hay sẽ thuyết phục được bạn rằng Ph.D cũng thượng vàng hạ cám. Một Ph.D về khoa học máy tính chẳng hạn, nếu làm nghiên cứu về một phân ngành chẳng ai quan tâm, đăng vài bài báo ở các chỗ linh tinh, thì sẽ từ từ xa rời dòng chảy chính của tri thức nhân loại. Có không ít Ph.D về khoa học máy tính lập trình không ra hồn, thua hẳn một kỹ sư thông thường, chính là vì lý do này.

    Tôi lại triết lý 3-xu rồi. Ðiều tôi muốn nói là niềm "hy vọng" của các bậc phụ huynh tạo áp lực cực lớn ảnh hưởng đến kết quả học tập và nghiên cứu của sinh viên. Trong khi chọn lựa nghề nghiệp tương lai đáng lẽ nên là chọn lựa cá nhân!

    5. Ðạt được Ph.D chỉ là bước đầu
    Còn khá nhiều điểm khác tôi muốn nói, nhưng bài đã dài. Lấy Ph.D chỉ là bước đầu rất nhỏ của một nghề nghiệp, cũng như bao nhiều nghề nghiệp khác. Có Ph.D có thể đồng nghĩa với những phần thưởng đáng quí về kinh tế và tinh thần về cả mặt xã hội lẫn cá nhân, nhưng bù lại cái giá phải trả về mọi mặt cũng cao không kém. "Nghề" Ph.D chẳng cao quí hơn nhiều nghề khác, mà thời gian và công sức bỏ ra lại nhiều hơn khá nhiều.

    Cuộc sống và các chọn lựa cá nhân lẽ dĩ nhiên là phức tạp. Tôi hy vọng qua bài viết này các bạn trẻ có thể có một cái nhìn và suy nghĩ cẩn trọng hơn trước khi theo đuổi "con đường đau khổ" này. Ta không thể theo nó chỉ vì các ảo tưởng danh tiếng, bằng cấp và tiền bạc. Ðầu tư như vậy không có lãi!

    Một trong những điều kiện cần cho nghề này là khả năng theo đuổi nỗi đam mê nghiên cứu và sáng tạo trong một thời gian dài. Bằng Ph.D chỉ là một bước cỏn con trong hành trình chông gai nhưng thú vị này. Nó hoàn toàn không phải là con đường duy nhất.

    Thứ bảy, 29 tháng 11, 2003.
    NQH ( Hung Q. Ngo's Homepage )

  5. #35
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    292
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    'Ô hay, Giám đốc Sở hỏi mới kỳ...'
    - Tại sao lãnh đạo Sở GD-ĐT hỏi mà không đọc kỹ các thông tư, quy chế ...do Bộ GD-ĐT đã ban hành?



    Sau hội nghị giao ban lần thứ hai năm học 2009 - 2010, Bộ GD-ĐT đã trả lời 36 ý kiến, kiến nghị của các Sở GD-ĐT. Khi đọc 36 câu hỏi của vùng và 36 câu trả lời thì có những điều sao kỳ quá!

    Dường như các lãnh đạo không chịu đọc, không chịu theo dõi các Thông tư, Quy chế , thông báo ... của Bộ GD-ĐT đã ban hành nên câu hỏi đặt ra đã “bị thừa”, vì đã có câu trả lời.

    Xin dẫn ra đây một số ví dụ:
    Vùng 5 hỏi: Đề nghị Bộ GD-ĐT sớm ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Thông tư 32/2009/TT-BGDĐT ngày 27/10/2009 của Bộ GDĐT ban hành quy định đánh giá và xếp loại học sinh tiểu học.

    Bộ trả lời: Bộ GD-ĐT đã ban hành công văn số 777/BGDĐT-GDTH ngày 11 tháng 2 năm 2010 về việc hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Thông tư số 32/2009/TT-BGDĐT Quy định đánh giá và xếp loại học sinh tiểu học.

    Vùng 5 hỏi: Đề nghị Bộ GD-ĐT xem xét Thông tư số 16/TT/LB ngày 23/8/1995 của liên bộ Bộ GD ĐT và Bộ Tài chính về việc hướng dẫn thực hiện chế độ đối với giáo viên được điều động làm nhiệm vụ thanh tra giáo dục và sớm có văn bản thay thế để tạo điều kiện cho công tác thanh tra đạt hiệu quả.

    Bộ trả lời: Ngày 21 tháng 10 năm 2009, Bộ trưởng Bộ GDĐT đã ban hành Thông tư số 28/2009/TT – BGD-ĐT quy đinh về chế độ làm việc đối với giáo viên phổ thông trong đó có hướng dẫn việc quy đổi ra giờ dạy đối với nhiệm vụ thanh tra chuyên môn của giáo viên phổ thông.

    Vùng 5 hỏi: Bộ có hướng dẫn sớm về các mẫu báo cáo (sơ kết học kì, tổng kết năm học…) để các địa phương đảm bảo kịp thời các yêu cầu.

    Bộ trả lời: Hàng năm, văn phòng Bộ đều có hướng dẫn nội dung và các biểu mẫu báo cáo sơ kết học kỳ và tổng kết năm học.

    Các biểu mẫu tổng hợp này đã được thống nhất với biểu mẫu thống kê của các Vụ: Giáo dục Tiểu học, Giáo dục Trung học, Giáo dục Thường xuyên. Văn phòng gửi dự thảo và xin ý kiến góp ý cho các mẫu báo cáo ở Hội nghị Chánh Văn phòng Sở GDĐT toàn quốc, vào khoảng tháng 4 hàng năm. Như vậy đã đảm bảo về mặt thời gian để các Sở lấy số liệu và nộp báo cáo tổng kết vào ngày 25/6.

    Vùng 6 hỏi: Đề nghị điều chỉnh một số nội dung trong tài liệu hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học cho phù hợp với sách giáo khoa và phân phối chương trình (môn Toán cấp Tiểu học). Có hướng dẫn cụ thể thêm về dạy phần phát triển cho học sinh khá giỏi (môn Toán và Khoa học cấp Tiểu học). Tổ chức tập huấn cho giáo viên dạy môn Tiếng Anh và Tin học ở Tiểu học (còn bất cập do bố trí giáo viên chưa nắm chắc phương pháp giảng dạy, tâm lý học lứa tuổi đối với học sinh cấp Tiểu học).
    Bộ trả lời: Tháng 12 năm 2008, Tài liệu hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học đã được Bộ GD-ĐT biên soạn và thẩm định. Như vậy, phân phối chương trình các môn học đã được hoàn thiện ở tài liệu này cho phù hợp với thực tiễn, trong đó có môn Toán. Cũng trong tài liệu này đã đề cập đến việc dạy học phân hóa và có yêu cầu với học sinh khá, giỏi. Tuy nhiên, vì đây là tài liệu hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng nên không quá khai thác sâu với đối tượng này ở môn Toán, môn Khoa học.

    Vùng 1 hỏi: Đề nghị sớm ban hành hướng dẫn thực hiện Thông tư 06/2010/TT-BGDĐT ngày 26/02/2010 về Quy chế công nhận trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học đạt chuẩn quốc gia. Có văn bản chỉ đạo và hướng dẫn (có mẫu) cho cấp tỉnh được phép in phôi bằng công nhận trường trung học phổ thông đạt chuẩn quốc gia.

    Bộ trả lời: Việc thực hiện công nhận trường đạt chuẩn quốc gia được thực hiện theo Thông tư số 06/2010/TT-BGDĐT ngày 26/02/2010 của Bộ trưởng Bộ GDĐT, có hiệu lực thi hành từ ngày 12/4/2010.

    Để triển khai Thông tư số 06/2010/TT-BGDĐT, ngày 16/4/2010, Bộ GDĐT đã có Công văn số 2025/BGDĐT-GDTrH hướng dẫn các Sở GDĐT đánh giá kết quả và các bài học kinh nghiệm công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia giai đoạn 2001-2010; Đồng thời xác định mục tiêu và các thuận lợi, khó khăn, các giải pháp đẩy mạnh phong trào xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 2010-2020 trên cơ sở nội dung của Quy chế mới ban hành.

    Hội nghị giao ban tổ chức theo vùng giáo dục, với sự tham gia của các lãnh đạo sở GD&ĐT của nhiều tỉnh, thành. Việc đặt những câu hỏi về những vấn đề đã có trong các Thông tư, Quy chế, thông báo ... do Bộ GD&ĐT đã ban hành như thế thì có đáng suy nghĩ và lo lắng về cách quản lý, sử dụng cán bộ và quy trình làm việc của các Sở GD-ĐT ở địa phương?

    *
    Trần Đình Tuấn (Trường THCS Lê Văn Tám, TP Phan Rang-TC, tỉnh Ninh Thuận)

    ,

  6. #36
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    292
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    'Có bằng tiến sĩ, họ được quyết định số phận người khác..'
    Cãi nhau loạn cả lên là đúng đấy vì ở nước ta họ coi tiến sỹ là chức vụ đấy. Nếu bạn đang giảng dạy ở trường đại học, bạn sẽ thấy chua chát về vấn đề này.


    http://vietnamnet.vn/giaoduc/diendan...i-khac-919377/

    Có nhiều tiến sĩ (TS) không có năng lực làm việc nhưng vì có bằng TS mà họ được quyết định số phận người khác.

    Họ được ngồi họp ở những vị trí quan trọng, mặc dù chuyên môn thì chán vô cùng tận. Khi có bằng TS, họ tiến nhanh lắm, vì có mác mà. Tôi mong Bộ GD - ĐT cần suy nghĩ lại cách quản lý, có thể coi nhẹ nhàng hơn việc đào tạo TS.

    Ở các trường ĐH, có thể coi trọng kết quả đóng góp cho khoa học hơn là bằng cấp. Gần đây, quy chế của Bộ đưa ra tiêu chuẩn ngoại ngữ là vô cùng xác đáng cho các ThS và NCS.

    Bộ cũng cần có những đặc cách bảo vệ TS với những công trình khoa học đóng góp thật vào cuộc sống chẳng hạn những công trình NC có bằng độc quyền sáng chế.

    Chứ không để tình trạng làm TS chỉ để tiến thân, sau khi có bằng rồi là có thêm quyền để quyết định số phận người khác trong đào tạo.

    Cũng cần coi nhẹ bằng TS đi một chút mà lấy tiêu chuẩn đóng góp cho KH làm thước đo giảng viên đại học.

    TS nào trong 3 năm liền không viết được bài báo KH nào thì phải xem xét lại. PGS nào không viết bài báo, không tham gia đề tài KH cũng cần tước bỏ danh hiệu.

    Những ai có đóng góp thực tài cho khoa học cần phong đặc cách. Như vậy theo tôi sẽ tránh được tình trạng coi TS là chức vụ.

    Nguyễn Thành Hưng (Hà Nội)





    'Lợi nhuận cơ quan phải chờ tiến sĩ dỏm hết nhiệm kỳ...'

    Tôi có một người quen rất giỏi, nhưng không có bằng tiến sĩ. Kết quả là không được đề bạt. Trong khi một ông khác, có bằng tiến sỹ nhưng không thực tài. Kết quả ông tiến sĩ được lên chức. Điều gì đã xảy ra?


    Sau 6 tháng nằm quyền, đám nhân viên khốn khổ, những đứa giỏi đi gần hết, còn lại toàn hội nịnh bợ.

    Ông giỏi kia, dù là bạn ông tiến sĩ, cũng không chịu nổi (mà thực ra là bị tiến sĩ tìm đủ cách chèn ép) nên ra đi lập cơ ngơi riêng. Đến giờ, ông ấy rất khá.

    Câu chuyện này không còn là hiếm, mà đã phổ biến trong xã hội. Ở một số cơ quan nhà nước, vẫn trọng bằng cấp, thay vì kiến thức thật của nhân sự.

    Vấn đề đặt ra là, nếu ông giỏi kia đi mua một cái bằng dỏm, ông ấy có khả năng được đề bạt và có thể công ty dưới sự lãnh đạo của ông ấy sẽ lên như diều, nhân tài sẽ kéo về như kiến.

    Nhưng nếu một ngày nào đó, câu chuyện vỡ lở, ông ấy sẽ bị chê bai tới số. Để tránh tình huống xấu nhất, ông ấy cần đi học và lấy bằng thực sự.

    Nhưng rõ ràng là không phải ai giỏi thực tế thì đi học cũng như vậy. Bill Gate, Mark Zuckerberg, Paul Allen... từng trốn học, nhưng họ là tỷ phú thế giới cả đấy. Bằng cấp có quyết định thực tài hay không? Chưa chắc.

    Vậy, giữa kiến thức dỏm và bằng dỏm, nên đặt nặng vấn đề nào hơn?

    Chừng nào xã hội còn đặt nặng chuyện bằng cấp, thì những người thực tài sẽ khó phát huy và chuyện mua bán bằng cấp chắc chắn sẽ tồn tại, không biến tướng ở hình thức này thì sẽ chuyển đổi sang hình hài khác. Ai kiểm soát và ai sẽ chịu trách nhiệm về việc tuyển dụng sai?

    Ví dụ như các doanh nghiệp tư nhân. Họ hoàn toàn có thể kiểm soát được, vì chi phí nằm trong tay, ai giỏi hơn thì cho lên, dốt thì đá viu một cái, không cần thương hoa tiếc ngọc.

    Nhưng các cơ quan nhà nước thì sao, nếu vớ phải những ông như ông tiến sĩ kia, làm ăn thua lỗ, cùng lắm là cho nghỉ. Nhưng lợi nhuận của cơ quan, liệu được mấy cái 5 năm (một nhiệm kỳ) để mà chờ?

    *
    Thụy Khuê (Hà Nội)
    Lần sửa cuối bởi laotam, ngày 01-07-2010 lúc 12:18 PM.

  7. #37
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    292
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Người Hà Nội lại 'phục” cả đêm đăng kí học cho con
    - Bực tức, chán nản, mệt mỏi nhưng nhiều bậc phụ huynh vẫn không ai chịu “bỏ cuộc”. Cả nhà 4-5 người sẵn sàng “trực chiến” 24/24 giờ, miễn sao “chen” được một chỗ trong vỏn vẹn 135 suất cho con em mình vào học tại trường Mầm non Thanh Xuân Bắc (Hà Nội) vào tối qua, 30/6.


    “Cuộc chiến” cam go

    Theo thông báo, năm nay số lượng tuyển sinh của trường Mầm non Thanh Xuân Bắc là 120 cháu (độ tuổi đi nhà trẻ, sinh từ tháng 1/2008 đến tháng 9/2008) và 135 cháu (lớp mẫu giáo bé, với các bé sinh năm 2007). Nhà trường chỉ giải quyết cho các cháu có hộ khẩu thường trú tại phường (không giải quyết diện KT2-KT3).
    Và theo đúng lịch được công bố, nhà trường sẽ phát đơn vào hồi 8h sáng ngày 01/07/2010.

    Thế nhưng, ngay từ sáng 30/6, hàng trăm phụ huynh và người nhà đã xếp hàng đông kín khu vực cổng trường, chờ được ghi danh vào danh sách phát đơn để nhận hồ sơ cho con em mình.

    Tới nơi, không có ai đứng ra giải quyết, sợ cảnh “đi mất chỗ” nên không mấy người chịu ra về. Nhiều gia đình còn cắt cử người thay phiên nhau “trực chiến” tại cổng trường chờ để được giải quyết.

    Chị Hiền, nhà ở khu tập thể Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh cho biết:

    “Năm nay, nhà tôi có hai cháu một sinh năm 2007, một sinh năm 2008. Tình hình đăng kí cho cháu học lớp nhà trẻ có vẻ đỡ “căng” hơn lớp nhận cháu lứa tuổi mẫu giáo bé. Nói thì thế thôi, nhưng mình phải ra đây từ 11h trưa, xếp hàng đợi ghi danh mà xem chừng cũng khó khăn lắm”. “Tiếp sức” cho chị còn có chồng và ông bà nội các cháu.
    Cách đó không xa, chị Lê Thanh Nga, nhà E7 đang ngồi râm ran với cậu em Lê Phương.

    Cả hai người đều có con đã đến tuổi vào đi học ở trường mầm non. Mồ hôi lấm tấm trên khuôn mặt chị. Vừa phe phẩy chiếc quạt giấy chị vừa bức xúc, nói: “Năm nào cũng thế, báo cũng thấy nêu mà có giải quyết được gì đâu. Đông vẫn cứ hoàn đông”.
    Mấy ông bà đi đăng kí cho cháu ngồi ngay cạnh quán trà đá gần đó cũng phụ thêm: “Lý do năm nay lượng người đến đăng kí đông hơn vì đợt này trường Tiểu học Tràng An (cũng thuộc phường Thanh Xuân Bắc) đang trong quá trình xây dựng nên tất cả quanh khu vực phường này đổ về trường Mầm non này với vọt lên”.

    “Hà Nội ngàn năm cứ lo xây cổng này, làm đường nọ, nghe cái nào cũng to tát cả mà sao không gắng lo cho các con chúng tôi có chỗ để gửi con vào học cho đỡ vất vả hơn” – Một phụ huynh bức xúc.

    Mưa đá.. may ra mới về

    Đã gần 23 giờ, lượng người “đóng đô” trước cổng trường Mầm non Thanh Xuân Bắc vẫn không có dấu hiệu giảm bớt.

    Thỉnh thoảng chỉ thấy tiếng người đến đổi phiên cho nhau. Rồi mang nước uống, bánh mì, thậm chí cả truyện tranh, sách báo ra đọc dưới ánh đèn vàng vọt của đèn đường hắt xuống.
    Ghế nhựa được mang ra kê cả xuống dưới lòng đường. Mặc cho những vũng nước lênh láng sau trận mưa hôm trước vẫn còn đó, mọi người cứ ngồi, cứ nói. Chờ đợi, chờ đợi. Và hi vọng. Và mệt mỏi.

    “Chỉ có mưa đá vỡ đầu tôi mới về, chứ đừng mong tôi bỏ cuộc” – một chị có dáng người to béo, ngồi trong đám đông, sát mép đường ngoặt vào cổng trường quả quyết.

    - “Nếu không đăng kí được cho cháu thì chị tính thế nào?” – Tôi hỏi.

    - Đây là trường công lập, học phí rồi các khoản đóng góp chắc chắn thấp hơn trường ngoài nên mọi người mới phải cố mà đợi. Nếu không được thì đành phải cho cháu đi học trường ngoài, tư thục, dân lập, bấm bụng đóng tiền học cho con chứ biết làm sao – Bực mình, chị gắt lên.

    23h10, đèn đường bỗng phụt tắt. Đôi ba giọng nói trong đám đông vang lên: “Biết ngay mà, tôi đoán trước kiểu gì cũng cắt điện cho coi”.

    Song như thế có nhằm nhò gì! Vẫn chẳng có ai ra về. Đêm nay là đêm không ngủ với nhiều bậc phụ huynh và gia đình các cháu. Nhiều ông bố cười tếu với nhau: “May là gần tháng nay quen thức xem World Cup, thức đêm quen rồi”.

    *
    Văn Chung

  8. #38
    karma's Avatar
    karma Guest

    Mặc định

    Mấy tuần vừa qua, báo chí trong cũng như ngoài nước xôn xao bàn tán về cái bằng tiến sĩ dỏm của ông Nguyễn Ngọc Ân, giám đốc Sở Văn hoá - Thể thao - Du lịch tỉnh Phú Thọ. Ông Ân khoe là có bằng tiến sĩ do trường Đại học Nam Thái Bình Dương ở Mỹ cấp. Nhưng ông lại không biết tiếng Anh. Và trước đó, ông cũng chỉ có bằng cử nhân tại chức (xin nhớ câu nói đã thành tục ngữ ở Việt Nam: “Dốt như chuyên tu, ngu như tại chức!). Vậy mà ông cũng có bằng tiến sĩ!

    Ông học tiến sĩ bằng cách nào?

    Ông kể: Ông học chương trình tiến sĩ từ tháng 2 năm 2007 đến tháng 9 năm 2009. Trong hơn hai năm rưỡi đó, ông sang Mỹ hai lần. Mỗi lần một tuần. Ông không biết tiếng Anh. Nhưng không sao cả: Đã có người phiên dịch. Khi ông bảo vệ “luận án”, cũng có người phiên dịch. Cuối cùng, sau khi trả chi phí 17.000 đô Mỹ, ông cũng có bằng tiến sĩ để nộp cho Ban tổ chức tỉnh uỷ Phú Thọ. Từ đó, đi đâu ông cũng được giới thiệu là tiến sĩ ngon lành. Lại là tiến sĩ... ngoại!

    Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn ở Úc đã nhanh chóng phát hiện cái gọi là trường Đại học Nam Thái Bình Dương ấy, thật ra, chỉ là một trường... dỏm. Tuy trên danh nghĩa là ở Hawaii (Mỹ) nhưng nó lại đăng ký ở Malaysia. Nó phỏng theo tên của một trường đại học đã bị chính phủ Mỹ buộc giải thể từ năm 2003 vì kém chất lượng. Nó nhái theo tên trường University of South Pacific ở Fiji. Nó không có giáo sư, không có giảng đường, không có giáo trình, thậm chí, không có cả chương trình học. Nó kém cỏi đến độ chỉ có mấy dòng tiếng Anh trên tấm bằng cũng viết sai tiếng Anh. Không câu nào không có lỗi sai (1). Nói một cách tóm tắt, đó là một trường dỏm. Hoàn toàn dỏm. Nó được lập ra để lừa gạt những kẻ hiếu danh và nhẹ dạ. Nó không có chút giá trị gì cả.

    Những kiểu trường dỏm như thế đầy dẫy khắp nơi. Trước đây, thỉnh thoảng tôi cũng nhận được email quảng cáo của những “trường” đại loại như vậy. Nội dung quảng cáo đại khái: “Bạn muốn có bằng Thạc sĩ hay Tiến sĩ không? Dễ lắm! Không cần phải học gì cả. Không cần có điều kiện gì cả. Giá rẻ và bảo đảm bí mật!” Sợ virus, chưa bao giờ tôi mở cái link mà họ cho. Nhưng tôi biết không phải chỉ ở Việt Nam mà ở nhiều nơi khác, ngay tại Úc, cũng có nhiều người chấp nhận trò chơi mua danh kiểu ăn xổi ấy. Họ cũng đóng tiền và cuối cùng họ cũng có mảnh bằng để loè bà con và bạn bè. Nhưng tôi đoán số lượng những người ấy không nhiều. Lý do: Họ chẳng được gì cả. Ở Tây phương, không có cơ quan nào dễ dàng bị lừa bởi những cái bằng dỏm kiểu ấy. Kể cả dân chúng cũng không dễ gì bị lừa.

    Nhưng ở Việt Nam thì chắc là nhiều. Báo Sài Gòn Tiếp Thị ngày 16 tháng 6 năm 2010 cho biết: riêng ở tỉnh Phú Thọ, có khoảng 10 người khác cũng làm bằng tiến sĩ kiểu như ông Ân (2). Đó chỉ là trường Đại học Nam Thái Bình Dương, còn những trường dỏm khác nữa thì sao? Tổng cộng, có bao nhiêu người ghi danh và trả tiền để có được cái bằng tiến sĩ dỏm như thế? Hơn nữa, đó là ở tỉnh Phú Thọ, còn 62 tỉnh và thành phố khác nữa thì sao?

    Hai câu hỏi không thể không đặt ra:

    Một, ở Việt Nam hiện nay có bao nhiêu người có những cái bằng dỏm như của ông Ân?

    Hai, trong kế hoạch đào tạo 20.000 tiến sĩ trong mười năm tới mà cựu Bộ trưởng Giáo dục Đào tạo kiêm Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân mơ mộng sẽ có bao nhiêu bằng tiến sĩ dỏm như của ông Ân?

    Rất khó có câu trả lời chính xác cho hai câu hỏi vừa nêu. Lý do chính là việc phát hiện những cái bằng giả và dỏm như thế hoàn toàn có tính chất ngẫu nhiên, dựa vào báo chí và giới nghiên cứu, chứ không do một cơ quan nào có đủ thẩm quyền để tiếp cận mọi nguồn thông tin một cách chính xác và toàn diện. Chúng thuộc diện “bí mật quốc gia”! Chính vì thế, ông Nguyễn Ngọc Ân tự nhận mình là người thiếu may mắn chứ không phải là người gian dối.

    Lời biện hộ ấy nghe buồn cười nhưng lại phản ánh đúng thực tế: Nếu ông Ân không được giới thiệu là tiến sĩ trong một buổi họp có đông đảo báo giới tham dự và nếu trong giới báo chí không có người biết tỏng thực học của ông thì có lẽ ông vẫn ung dung với cái bằng tiến sĩ dỏm của mình và giới cầm quyền tỉnh Phú Thọ vẫn tiếp tục tự hào với thành tích có những cán bộ có bằng cấp ngoại sang trọng như ông Ân!

    Nên lưu ý là: thứ nhất, ông Ân học để lấy bằng tiến sĩ từ một trường dỏm như vậy đã được sự đồng ý của chính quyền Phú Thọ, hơn nữa, chính quyền Phú Thọ còn đồng ý tài trợ chi phí cho ông theo học. Ông Ân nói là ông chưa làm giấy tờ để nhận số tiền tài trợ ấy. Nhưng điều đó không thay đổi gì cả. Chưa hay đã thì cũng như nhau: Vấn đề là chính phủ đồng ý tài trợ. Thứ hai là ông Ân đã nộp bằng tiến sĩ của mình cho tỉnh để bổ sung vào lý lịch học thuật và nghiệp vụ của mình.

    Chính việc liên hệ giữa tấm bằng dỏm và công việc ấy mới là vấn đề.

    Chợt nhớ, ở Úc, mấy năm trước đây có một vụ kiện liên quan đến việc phỉ báng cá nhân. Một tờ báo tiếng Việt ở địa phương, trong một bài phiếm luận, chế diễu một người hay tham gia các sinh hoạt cộng đồng là có bằng cử nhân giả. Người ấy kiện tờ báo. Trong phiên toà kéo dài khá lâu, tờ báo nọ chứng minh được là người ấy không có bằng cử nhân như ông tự nhận. Nhưng cuối cùng toà vẫn xử người ấy thắng kiện. Lý do? Theo toà, người đàn ông tự xưng là ông Cử ấy chỉ là kẻ ba hoa chứ không phải là người lừa bịp. Ông nói cho sướng miệng. Ông không sử dụng cái bằng mà ông tượng tượng ấy để xin việc hay để thăng quan tiến chức.

    Như vậy, ở đây chúng ta cần phân biệt một số điều.

    Thứ nhất, về bằng: bằng giả khác với bằng dỏm. Bằng giả là dùng một bằng thật nào đó rồi cạo sửa để thay tên mình, trong khi bằng dỏm là bằng, về phương diện kỹ thuật, là thật, nhưng về phương diện học thuật, không có giá trị, và về phương diện pháp lý, không được công nhận.

    Thứ hai, về cái “dụng” của bằng: Nếu mua cái bằng dỏm để chỉ khoe khoang chơi với anh em, bạn bè, hàng xóm thì không sao. Vấn đề, nếu có, chỉ là vấn đề tâm lý và đạo đức. Không liên quan gì đến pháp luật. Nhưng nếu sử dụng cái bằng dỏm hay giả ấy để mưu lợi thì lại khác. Ví dụ để xin dạy trong các trường học hoặc để thăng quan tiến chức như ông Nguyễn Ngọc Ân thì khác: Nó trở thành một hành động lừa bịp.

    Luật pháp không xía vào chuyện ba hoa khoe khoang của các cá nhân. Nhưng luật pháp phải trừng phạt và ngăn chận những sự lừa bịp vì chúng có hại cho người khác và cho xã hội. Riêng trường hợp cán bộ sử dụng bằng giả hoặc bằng dỏm để củng cố vị thế của mình trong guồng máy chính quyền như trường hợp của ông Ân thì còn thêm nhiều tai hại khác: về phương diện chính trị, nó làm giảm uy tín của chính quyền (nếu có); về phương diện đạo đức, nó khuyến khích hoặc ngầm khuyến khích những việc làm gian dối, không dựa trên thực học và thực tài; và về phương diện xã hội, nó làm loạn chuẩn, không còn sự phân biệt giữa cái thực và cái giả, v.v…

    Thế nhưng, điều tôi ngạc nhiên là vụ bằng dỏm của ông Nguyễn Ngọc Ân, đến nay, chỉ được giới báo chí và giới nghiên cứu bàn tán. Còn chính quyền thì hoàn toàn im lặng.

    Không ai thấy đó là vấn đề.

    Hoặc họ thấy mà đành làm ngơ vì không dám phanh phui ra một đống rác khổng lồ trong đó có nhiều cán bộ cao cấp khác?

    Tôi không biết. Tôi chỉ ngạc nhiên.

    Và băn khoăn.

    Chú thích:

    1. “Thêm bằng chứng về bằng giả trường dỏm”

    2. Cuối bài “Làm tiến sĩ ở Mỹ nhưng không biết tiếng Anh” trên Sài Gòn Tiếp Thị ngày 16/6, có câu: “Tại tỉnh Phú Thọ hiện còn có khoảng 10 người cũng được đào tạo tiến sĩ như theo kiểu của ông Ân!” Nhưng trong bài phỏng vấn Nguyễn Ngọc Ân hai ngày sau đó cũng trên Sài Gòn Tiếp Thị, khi được hỏi: “Ở Phú Thọ có ai học cùng ông không?” thì ông Ân lại khẳng định: “Khoảng chín, mười người gì đó, họ đều ở Hà Nội, Thái Nguyên; còn ở Phú Thọ không có ai.”

  9. #39
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    292
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Khả năng “cải lão hoàn đồng”
    Tác giả: Nguyễn Quang Thiều


    Hoá ra, chuyện cải lão hoàn đồng rất dễ thực hiện ở Việt Nam. Trong lúc con người cả mấy ngàn năm nay đi tìm các linh vật, thần dược hay pháp thuật để giúp mình trẻ mãi mà không tìm thấy



    Chúng ta đang lên tiếng về việc bằng rởm. Những người dùng bằng rởm là những người không trung thực và lừa dối xã hội. Mục đích của việc dùng bằng rởm chỉ là để tiến thân chứ không có mục đích nào khác. Khi một người dùng bẳng rởm để lọt vào một vị trí quản lý nào đó sẽ làm cho bộ máy quản lý đó bị suy yếu và gây ra những tổn hại khôn lường cho đất nước.

    Nhưng có một chuyện khác cũng đáng lên án không kém chuyện bằng rởm. Vì chung quy cả hai việc này đều là những việc giả dối và vi phạm luật pháp. Đó là chuyện về khả năng cải lão hoàn đồng của các cán bộ Nhà nước.

    Khả năng cải lão hoàn đồng của những cán bộ Nhà nước mà tôi đang nói đến là khả năng biến mình từ 45 tuổi chỉ còn 40 tuổi, 50 tuổi chỉ còn 45 tuổi, từ 55 tuổi chỉ còn 50 tuổi... chỉ sau mấy tiếng đồng hồ. Thế là, một người sắp đến tuổi về hưu bỗng trở nên còn khá trẻ, một người sắp hết tuổi đề bạt bỗng lại rất teen... teen và đủ tiêu chuẩn về tuổi tác để đề bạt.

    Nguyên liệu dùng để cải lão hoàn đồng chỉ là một tờ giấy A4 cùng với sự trợ giúp của Uỷ ban xã, phường là đủ hay đại loại những cơ quan nào có thể chứng nhận việc này. Giấy A4 đó là bản khai sinh được làm lại cộng với mấy lời ngọt ngào của người đang thực hiện cải lão hoàn đồng cùng một cái phong bì "ăn trưa" hay quà cáp gì đó là được đóng dấu. Xem ra, chuyện cải lão hoàn đồng không quá khó! Trong lúc con người cả mấy ngàn năm nay đi tìm các linh vật, thần dược hay pháp thuật để giúp mình trẻ mãi mà không tìm thấy.

    Trong Tây Du Ký, bọn ma vương ở khắp nơi trên đường Huyền Trang đi lấy kinh đều khao khát ăn thịt Huyền Trang (Đường Tăng) để trường sinh bất tử mà không thể nào làm được. Nhưng ở Việt Nam, chỉ cần nghỉ làm một buổi sáng với một tờ A4 là có thể biến mình đang già cốc đế trẻ lại mấy tuổi.
    Việc khai tăng, giảm tuổi ở Việt Nam không phải là chuyện lạ. Cũng có những người đã khai tuổi mình tăng lên. Đó là một số người muốn về hưu sớm hay về "một cục" vì rất nhiều lý do khác nhau. Thế là họ cũng dùng một tờ A4 cùng với sự trợ giúp của một nơi có thể đóng dấu xác nhận ngày sinh mới. Nhưng mục đích của những người này không phải để cải lão hoàn đồng mà để cải đồng hoàn lão.

    Còn các cụ ông cụ bà ở nhà quê cũng thường cải đồng hoàn lão với mục đích thật dễ thương là để làm Thượng thọ. Làng tôi có không ít cụ làm thế. Khi chính quyền thôn hoặc xã bảo theo sổ đăng ký hộ khẩu thì phải một hoặc hai năm nữa cụ mới đến tuổi 70 hay 80 thì các cụ "bẩu": Biết có sống đến ngày đó không mà đợi, ông cứ cho tôi đủ tuổi để con cháu làm Thượng thọ cho ông bà, bố mẹ thoả lòng hiếu thảo của chúng. Hơn nữa, các cụ ở nông thôn rất thích mình là người "thọ". Đấy là phúc của gia đình mà.

    Thấy mong ước thật trong sáng và với tinh thần kính lão đắc thọ, chính quyền địa phương nhất trí ngay. Hơn nữa nhỡ các cụ ra đi khi chỉ còn nửa năm hay một năm nữa mà chưa được mặc áo vàng, áo đỏ và được con cháu, họ hàng làng xóm chúc mừng thì người sống lại áy náy.

    Khát khao cải đồng hoàn lão của các cụ thật trong sáng, thật đẹp và thật đáng chia sẻ. Nhưng còn trò cải lão hoàn đồng của các cán bộ Nhà nước thì thật tồi tệ. Có những người khi cơ quan công bố nghỉ hưu thì thấy lòng buồn rười rượi, nặng như đá cùm. Và khi nghe cơ quan thông báo nghỉ rồi vẫn chẳng chịu bàn giao hồ sơ hay giấu biệt tin này với những người thân quen.

    Có người về hưu rồi vẫn sáng sáng xách cặp da đến cơ quan rồi ngồi lân la uống trà ở phòng này, cà phê ở phòng khác. Nhưng với những người có trí tuệ thì nghỉ hưu rồi vẫn vất vả vì nhiều nơi vẫn muốn mời họ làm việc như một chuyên gia hàng đầu. Bởi thế mà Nhà nước đã có chính sách sử dụng lâu dài những người đến tuổi về hưu nhưng có trình độ chuyên môn cao để phục vụ đất nước.

    Chính vì những lợi quyền cá nhân và thói tham quyền cố vị đã biến không ít cán bộ trở thành những "phù thuỷ" dùng tà thuật có tên: Cải lão hoàn đồng.

    Ngẫm thật kỹ thì thấy rằng: ở một số nơi cái gì người ta cũng có thể làm được. Thật kinh hãi!

  10. #40
    Ngày tham gia
    Jun 2010
    Bài viết
    292
    Post Thanks / Like

    Mặc định

    Tiến sĩ là gì và không là gì?
    Tác giả: Nguyễn Văn Tuấn

    TS ngày xưa chỉ làm một bài thơ hay phú, và được vua quan phê chuẩn. Còn ngày nay, để có bằng TS, ứng viên phải hoàn tất nhiều nghiên cứu và tổng kết trong một luận án khá dài.



    LTS: Sau khi trên báo chí, và dư luận xã hội xôn xao về vụ "Tiến sĩ ở Mỹ không cần biết tiếng Anh", Tuần Việt Nam chúng tôi nhận được bài viết của Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn (Úc) bàn sâu về chủ đề văn bằng TS. Trong bối cảnh ngành giáo dục nước ta có chủ trương đào tạo hơn 20.000 TS, bài viết này đặt ra rất nhiều vấn đề đáng suy nghĩ. Tuần Việt Nam xin trân trọng đăng tải.

    Có lẽ nhiều bạn đọc sẽ thấy ngạc nhiên khi đọc tựa đề này, vì nó hơi... ngô nghê. Nhưng tôi phải mượn tựa đề câu hỏi đó để giải tỏa một số ngộ nhận về văn bằng TS đang được một tờ báo mạng vô tình tiếp tay phổ biến và những "lem nhem" chung quanh việc hiểu ý nghĩa của văn bằng này nhân một vụ việc về bằng TS được cấp ở Mỹ khiến dư luận ồn ào gần đây.

    Tiến sĩ không phải là...

    Thứ nhất, TS không phải là một nghề. Nghề là một việc làm qua sự phân công của xã hội. Trong xã hội có người làm nghề thợ mộc, nghề nấu ăn, nghề thầy thuốc, v.v... Tùy theo bối cảnh và cấp bậc, tiếng Anh gọi nghề là occupation, là vocation, hay có khi là profession. Do đó, khi người ta hỏi "nghề của chị là gì", thì câu trả lời có thể là "tôi làm nghề dạy học", hay "tôi làm nghề buôn bán lẻ". TS là một degree, tức là một bằng cấp hay học vị. Thật là ngô nghê nếu có người nói "tôi hành nghề TS"!

    TS không phải là một tước vị. Tước vị là những danh vị do Nhà nước hay một tổ chức phong tặng, và cá nhân được phong tặng không phải trải qua một quá trình học hành. Chẳng hạn như "Sir" là một tước hiệu do Nữ hoàng Anh tặng cho những người có công trong hoạt động xã hội và cộng đồng, hoặc như "Nhà giáo Nhân dân"- tước hiệu do Nhà nước theo khối xã hội chủ nghĩa (như Việt Nam) phong tặng cho những nhà giáo có công lớn với sự nghiệp giáo dục (trên lí thuyết).

    Còn văn bằng TS chỉ được cấp cho những người nào đã qua một quá trình học hành và nghiên cứu khoa học, đã đáp ứng các tiêu chuẩn do trường đại học đề ra. Do đó, TS không phải là một tước vị hay phẩm hàm.

    TS không phải là "đỉnh cao trí tuệ". Người theo học TS thường nghiên cứu về một đề tài hẹp, có khi rất hẹp, chứ không theo đuổi một đề tài bao quát như ở bậc cử nhân hay thạc sĩ. Có khi người ta bỏ ra cả 4-5 năm chỉ để nghiên cứu một phân tử! Mà ngay cả sau khi xong luận án TS, ứng viên cũng chưa thể hiểu hết về đề tài hẹp đó. Trong khoa học không có cái gì là chắc chắn và xác định. Tất cả những gì chúng ta hiểu biết đều mang tính bất định và có điều kiện.

    Nhưng học TS không dễ và thoải mái. Học để làm TS nghiêm chỉnh không bao giờ dễ và dứt khoát càng không thoải mái. Đó không phải như bậc cử nhân hay thạc sĩ (tức hoàn tất các môn học qua thi cử), mà là làm nghiên cứu khoa học. NCKH là cả một qui trình có hệ thống, mà chỉ cần sai một khâu trong qui trình đó thì xem như là thất bại.

    NCKH không chỉ đòi hỏi ứng viên phải có "cái đầu" tốt (tức ý tưởng tốt), mà còn đòi hỏi ứng viên phải nắm vững phương pháp, nhất là đòi hỏi thời gian để hoàn tất. Phải dự bao nhiêu seminar, họp lab, cứ mỗi 6 tháng thì có kiểm tra, báo cáo tiền độ học vấn, thêm vào đó là áp lực bài báo khoa học lúc nào cũng đè nặng tâm lý. Nếu gặp giáo sư hướng dẫn khó tính, lúc nào cũng đòi hỏi phải có "outcome" (thành quả) thì càng mệt hơn. Nhất là đến lúc viết luận án thì áp lực càng kinh khủng hơn nữa. Tôi chưa nghe ai nói học TS thoải mái cả.

    Cố nhiên, ở đây tôi chỉ bàn đến những chương trình đào tạo TS nghiêm túc và có chất lượng. Cần nói thêm rằng cũng có những trung tâm và trường ĐH nhận nghiên cứu sinh khá tùy tiện, chẳng cần qua phỏng vấn, tiêu chuẩn nghiên cứu, vì các GS ở đó có nhu cầu một vài người giúp việc... rẻ tiền.

    Đối với những trung tâm này, họ xem nghiên cứu sinh TS chỉ là một công nhân trí thức trong dây chuyền sản xuất để họ đạt được mục tiêu của họ (họ chẳng cần quan tâm đến tương lai của nghiên cứu sinh, và nghiên cứu sinh cứ tưởng rằng làm TS dễ quá!) Tôi không bàn đến những chương trình học TS từ các trường "làng nhàng" như thế, nghiên cứu sinh mà không cần công bố bài báo khoa học vẫn có thể tốt nghiệp.

    Không phải chương trình đào tạo TS nào cũng có chất lượng như nhau. Những chương trình đào tạo từ các lab có uy tín phải có đẳng cấp khác với những chương trình xoàng xĩnh. Thử tưởng tượng, một nghiên cứu sinh sau khi hoàn tất chương trình TS mà không có đến một bài báo trong lí lịch thì làm sao có thể cạnh tranh với các nghiên cứu sinh khác.

    TS không phải là những ông "nghè". Ở nước ta, những người có bằng TS thường được xem như là những ông nghè hiện đại. Do đó, có người còn đề nghị nên có "văn miếu" cho các ông bà nghè này! Nhưng theo tôi, văn bằng TS thời nay rất khác với TS thời xưa, khác từ cách học đến qui trình học.

    Ngày xưa, TS (hay thái học sinh) là những người đã qua 3 kì thi hương, thi hội, và thi đình, tức là những kì thi mang tính giai tầng địa phương.

    Còn chương trình TS ngày nay là một qui trình đào tạo liên tục và khá lâu năm, chứ không phải thi theo cấp địa phương. TS ngày xưa chỉ làm một bài thơ hay phú, và được vua quan phê chuẩn. Còn ngày nay, để có bằng TS, ứng viên phải hoàn tất nhiều nghiên cứu và tổng kết trong một luận án khá dài. Nói tóm lại, TS không phải và không nên hiểu như là những vị nghè ngày xưa.
    Danh xưng TS có lẽ được xuất phát từ chữ Hán mà tiếng Anh phiên âm là "Chin-shih" (và tiếng Anh dịch là "Doctor"). Nếu không nhầm, văn bằng này được cấp lần đầu tiên vào năm 1313 (dưới triều đại nhà Tống). Vào năm này, một cuộc thi tuyển đặt dưới sự chủ tọa của vua Tống được tổ chức. Kết quả của kì thi này, có 300 thí sinh được cấp danh hiệu Chin-shih, trong số đó, có 75 người gốc Mông Cổ, 75 người quê quán ở miền Nam Trung Quốc, 75 người quê quán ở miền Bắc Trung Quốc, và 75 người có quốc tịch ngoại quốc.

    Danh xưng TS không có nghĩa là sẽ nghiễm nhiên đem lại thanh thế hay uy danh cho cá nhân. Hầu hết các thí sinh đã đạt được văn bằng TS đều cảm thấy tự hào về nỗ lực và kết quả của việc phấn đấu trong học hành, nghiên cứu. Tuy nhiên, thí sinh phải hiểu rằng một khi tốt nghiệp TS, thí sinh có thể làm việc với nhiều nhà khoa học khác cũng có bằng TS. Học vị TS mới chỉ là bước đầu vào NCKH, nó chẳng đem lại uy danh cho người có học vị nếu người đó không có công trình NCKH nào có giá trị.

    Học vị TS không tự động nâng giá trị ý kiến của thí sinh. Nhiều người tin rằng một khi họ có văn bằng TS trong tay, công chúng sẽ tự nhiên kính trọng ý kiến của họ. Niềm tin này hoàn toàn sai. Nhiều người có học vị TS có thể am hiểu và uyên bác về một lĩnh vực chuyên môn hẹp nào đó, nhưng không phải là chuyên gia của mọi vấn đề khác.

    Học vị TS không bảo đảm thí sinh sẽ có công ăn việc làm ngay. Có khi ngược lại: Sinh viên tốt nghiệp TS có thể khó tìm việc làm hơn là sinh viên tốt nghiệp cử nhân hay thạc sĩ, bởi vì như nói trên TS là những nhà nghiên cứu. Một số công ty không muốn và không thích mướn những người có văn bằng TS cho những việc không dính dáng với nghiên cứu. Thêm vào đó, một khi nền kinh tế bị suy yếu, tất cả thành viên trong xã hội đều chịu chung số phận, thì một số công ty giảm thiểu người nghiên cứu trước khi giảm thiểu người sản xuất.

    Học vị TS không phải để kiếm nhiều tiền. Thí sinh tốt nghiệp TS thực ra không có lương bổng cao hơn các thí sinh có bằng cử nhân hay người công nhân bình thường trong hãng xưởng. Vì học TS là để trở thành nhà nghiên cứu, nhà khoa học, và cái quan tâm đầu tiên của nhà khoa học là sự thật, chứ không phải sự giàu có về tiền bạc. Tất nhiên, có nhiều khi sự thật và khám phá cũng đem lại một nguồn tài chính lớn cho nhà nghiên cứu. Nhưng nói chung, đó không phải là mục tiêu để theo học TS.

    Học vị TS không có nghĩa là một lựa chọn tốt nhất trong đời. Cống hiến cho xã hội có nhiều cách và cuộc đời có nhiều lựa chọn. Học vị TS chỉ là một trong số hàng trăm lựa chọn. Thật vậy, đối với nhiều thí sinh, học vị TS có thể là một sự nguyền rủa! Thí sinh phải tự hỏi mình muốn làm người lãnh đạo trong những người có văn bằng thạc sĩ, hay là làm một nhà nghiên cứu tầm thường? Thí sinh phải biết và quyết định mình muốn gì, và nghề nghiệp nào sẽ kích khích mình nhiều nhất hay đem lại hạnh phúc cho mình nhất.

    Tại sao "tiến sĩ" (PhD)?

    Tuy có danh chính thức là triết học ("Doctor of Philosophy" hay PhD) nhưng TS không hẳn là người học về triết. PhD là một học vị cho tất cả các ngành khoa học, kể cả khoa học cơ bản và nhân văn. Điều "trớ trêu" này có một lịch sử của nó.

    Hệ thống bằng cấp ĐH ngày nay được bắt nguồn và mô phỏng từ hệ thống văn bằng của 2 trường ĐH cổ kính ở Âu châu vào thế kỷ 13: Trường ĐH Paris ở Pháp (thành lập vào năm 1170) và Trường ĐH Bologna ở Ý (thành lập vào khoảng 1158). Theo bộ Luật La Mã, vào thời Trung cổ, mỗi ngành nghề có quyền thành lập một hiệp hội gọi là Collegium, và hiệp hội này bầu ra những người có danh hiệu là Magistrates (mà tôi tạm dịch là "Thầy").

    Vào thời này, người được nhận vào phụ giảng được gọi là Bachalari. Vào cuối thế kỉ 13, ĐH Paris thay đổi học vị này thành Baccalaureaet. Lúc bấy giờ, văn bằng Baccalauréate hay Bachelor là học vị duy nhất được cấp cho những thí sinh đã thi đỗ khóa thi do các các "Thầy" đặt ra; và đã học xong một chương trình giáo khoa 4 năm về ngữ pháp, tu từ học và logic.

    Sau khi xong văn bằng Bachelor, thí sinh có thể theo học tiếp chương trình MasterDoctor. Và sau khi đã xong chương trình học Master hay Doctor (khoảng 8 năm học), một hội đồng giám khảo sẽ duyệt xét thí sinh để kết nạp vào tổ chức được gọi là Universitas of Doctors.

    Sự kếp nạp này cũng là một "chứng chỉ" được hành nghề dạy ĐH. Lúc bấy giờ, những danh xưng như Master, Doctor và Professor có cùng nghĩa và tương đương về giai cấp: Họ hành nghề dạy học. Vào thế kỉ 13, những người dạy học tại ĐH Bologna, lúc đó là trung tâm huấn luyện về luật pháp bên châu Âu, được gọi là Doctor. Trong khi đó ở ĐH Paris, là trung tâm về văn học nghệ thuật, những người dạy học được gọi là Master.

    Sự bình đẳng giữa Master và Doctor bị chấm dứt ở Anh và Mỹ, nơi mà văn bằng Doctor sau này được đánh giá cao hơn văn bằng Master. Ở Anh, 2 trường ĐH Oxford (thành lập vào khoảng 1249) và Cambridge (thành lập vào khoảng 1209) được mô phỏng theo hệ thống tổ chức của ĐH Paris. Do đó, các nhà khoa bảng các môn văn hóa nghệ thuật thường được gọi là "Master". Trong khi các đồng nghiệp của họ ở các môn học như triết, thần học, y học, và luật được gọi là "Doctor". Ngày nay, các tên bằng cấp như "Master of Arts" và "Doctor of Philosophy" có nguồn gốc từ sự phân chia này.

    Tiến sĩ là gì?

    TS là học vị cao nhất trong hệ thống giáo dục ĐH phương Tây. Theo mô hình này, có 3 cấp học chính: Cử nhân, thạc sĩ (masters), và TS. Về mặt con số, sự phân bố 3 loại bằng cấp đó giống như hình tháp: TS ở vị trí chót vót, cử nhân ở vị trí thấp nhất, và thạc sĩ ở chính giữa. Trong dân số, ở các nước tiên tiến như Mỹ chẳng hạn, chỉ có khoảng 0.8% người có bằng TS. Còn ở các nước khu vực chẳng hạn, như Thái Lan, năm 2007, có 1.77 triệu sinh viên bậc cử nhân, 182 ngàn sinh viên thạc sĩ, và chỉ có 16246 nghiên cứu sinh bậc TS. Nói cách khác, chỉ 0.8% sinh viên ĐH theo học TS.
    Có nhiều lí do tại sao số người theo học TS quá ít. Lí do đơn giản nhất là người ta không có nhu cầu học TS. Cũng có người sau 4 năm theo học cử nhân đã cảm thấy mệt mỏi, và chỉ mong tốt nghiệp để kiếm thu nhập bù lại những năm tháng theo học. Có người không đủ trình độ hoặc không đáp ứng điều kiện theo học. Ở những ĐH và trung tâm đào tạo nghiêm chỉnh, chỉ có khoảng 1-2% ứng viên xin học TS được nhận học (sau khi qua một đợt phỏng vấn).

    Điều này cũng không khó hiểu, bởi vì chương trình TS là nhằm đào tạo một "lực lượng" khoa học elite cho các trường ĐH, một lực lượng khoa học then chốt cho các trung tâm NCKH và kĩ nghệ. Có thể nói không ngoa rằng chương trình đào tạo TS trong ý tưởng là đào tạo một đội ngũ tinh hoa của xã hội.

    Đó cũng chính là lí do tại sao người ta đánh giá nền khoa học và trình độ tiên tiến của một quốc gia bằng cách dựa vào số người có học vị TS trong dân số. Ở những nước có nền kinh tế phát triển cao như Mỹ, số người có bằng TS khoảng 0.7% dân số.

    Mời bạn đọc đón đọc kỳ II: Học tiến sĩ để làm gì?

Cảm ơn Bộ GD&ĐT đã tăng lương GV gấp 2,1 lần! ( Thầy Văn Như Cương )
Trang 4 của 5 Đầu tiênĐầu tiên ... 2345 CuốiCuối

Đánh dấu

Đánh dấu

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •  
.::Thăng Long Kỳ Đạo::.
  • Liên hệ quảng cáo: trung_cadan@yahoo.com - DĐ: 098 989 66 68