Kết quả 1 đến 10 của 1253
Chủ đề: Cà Phê Đen III
Threaded View
-
08-11-2014, 03:00 AM #11
Bài này hay tặng cô Huyền
Lưu vong đâu phải chỉ là phiêu lưu vào một không gian xa lạ, ở ngoài nước mình. Lưu vong còn là phiêu lưu vào một văn hoá khác, một ngôn ngữ khác, một cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm không giống với những gì mình từng có. Nhưng đó là một cuộc phiêu lưu vô cùng ì ạch, vừa đi vừa ngoái lại, thậm chí có khi lùi lại vì người lưu vong nào cũng có một di sản vô cùng nặng nề. Hắn không thể vứt bỏ cái di sản ấy. Mà vứt bỏ cũng không được: di sản ấy là một phần của hắn, là chính bản thân hắn. Do đó, trừ một số ngoại lệ cực kỳ hiếm hoi, những cuộc phiêu lưu ấy bao giờ cũng dở dang để người lưu vong, mặc dù về phương diện pháp lý, đã được nhập tịch đàng hoàng, về phương diện văn hoá, vẫn chỉ là một kẻ “trú khách”, nói theo chữ người Việt thường dùng để gọi người Hoa ở nước mình. Những “trú khách” ấy không có cách gì cắt bỏ được quá khứ dằng dặc sau lưng. Xã hội công khai hoá cái gốc gác ấy bằng những danh xưng kiểu người Úc gốc Việt, người Mỹ gốc Việt, người Pháp gốc Việt... Không bao giờ, ít nhất là cho đến hết thế hệ di dân thứ nhất, thậm chí, thứ hai, thứ ba, người lưu vong có thể là một người Úc, người Mỹ, người Pháp thuần tuý, không mang theo cái "gốc" nào cả.
Nhưng hắn cũng không thể là người Việt thuần tuý được nữa. Về nước, hắn lại sẽ là Việt kiều ở Úc, Việt kiều ở Mỹ, Việt kiều ở Pháp... Xã hội chung quanh biết điều đó, và chính bản thân hắn, tự trong lòng, cũng thừa biết điều đó. Trong quan hệ với quê hương cũ, bao giờ cũng có một khoảng cách âm thầm nhưng vô cùng chắc chắn không thể vượt qua được. Với khoảng cách ấy, lúc nào hắn cũng bị nhìn và tự nhìn như một kẻ lạ.
Bởi vậy, lưu vong, tự bản chất, là mất hẳn cảm giác thuộc về một cái gì: tự thâm tâm, người lưu vong biết vĩnh viễn hắn không thuộc về cái quốc gia hắn mới nhập cư, tuy nhiên, có điều kiện quay về cố hương, hắn cũng thấm thía nhận thấy cố hương ấy, dù thân thương đến mấy, đã không còn thuộc về hắn nữa. Có thể nói, một khi đã rời bỏ quê hương, người ta sẽ không bao giờ có được một quê hương nào cả. Quê hương mới: không; quê hương cũ: cũng không. Sống lưu vong là sống trong trạng thái vừa ở ngoài vừa ở trong các quốc gia và các nền văn hoá khác nhau. Hắn sống ở nơi giao thoa giữa các nền văn hoá, giữa quá khứ và hiện tại, giữa niềm tự hào và tự ti, giữa hạnh phúc và thống khổ, giữa có và không. Trong tiếng Anh, để gọi một người Úc gốc Việt chẳng hạn, người ta thường viết “Vietnamese-Australian”. Nên để ý đến dấu gạch nối: đâu đó, đã có khá nhiều người viết, chính cái gạch nối ấy mới là không gian của những người lưu vong, nơi hắn sống và chết. Ở giữa. Trên những biên giới.
Sống ở giữa không đơn giản là sống như một dấu cộng, cộng văn hoá nước người vào văn hoá nước mình, cộng cái mới vào cái cũ. Không đơn giản và dễ dàng như thế. Trên thực tế, cuộc đời lưu vong bao giờ cũng là một quá trình không ngừng trăn trở và chao đảo giữa hai lực: đồng hoá và dị hoá. Dưới áp lực của đời sống kinh tế, dù muốn hay không, người lưu vong nào cũng phải cố gắng hội nhập vào xã hội mới. Nhưng quá trình hội nhập và đồng hoá ấy lại gặp không ít trở ngại, chủ yếu xuất phát từ khuynh hướng dị hoá tự nhiên trong tâm lý của người lưu vong: với di sản văn hoá mang theo từ quê cũ, hắn nhìn văn hoá mới như một cái gì khác, một cái lạ. Chính khuynh hướng dị hoá ấy làm cho hắn vĩnh viễn không bao giờ có thể nhập làm một với nền văn hoá mới. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là khuynh hướng dị hoá không phải chỉ xuất hiện trong quan hệ với nền văn hoá mới mà còn cả trong quan hệ với nền văn hoá gốc nữa. Để chống cự lại áp lực đồng hoá của nền văn hoá mới, người lưu vong phải bám vào nền văn hoá gốc. Nhưng hắn lại không thể tiếp tục tự đồng nhất hắn với nền văn hoá gốc ấy. Giữa hắn và nền văn hoá gốc ấy dần dần xuất hiện những khoảng cách nhất định. Đến một lúc nào đó, hắn nhìn văn hoá gốc của mình như một người ngoại cuộc. Lúc ấy, hắn thực sự đã là một cái gì khác. Khác, so với nền văn hoá mới nơi hắn định cư. Khác, so cả với nền văn hoá gốc hắn từng hít thở từ thuở vừa lọt lòng mẹ.
Điều đáng chú ý là khi trở thành một kẻ lạ với nền văn hoá gốc, người ta cũng đồng thời trở thành một kẻ xa lạ với chính mình. Lý do đơn giản là chính bản thân con người cũng là một sản phẩm của văn hoá, là nơi những giá trị văn hoá được thể hiện. Quá trình dị hoá với nền văn hoá gốc, do đó, cũng đồng nghĩa với quá trình tự phân thân. Nói cách khác, hậu quả cuối cùng của quá trình dị hoá là con người tự biến thành cái khác của một cái khác, một hiện hữu lạc lõng và cực kỳ cô đơn, ở đó, hắn không những không nhập được vào một nền văn hoá nào mà còn cảm thấy hoang mang về diện mạo của chính mình nữa.
Trong nỗi hoang mang ấy, ý thức về bản sắc trở thành một ám ảnh: hiếm có người lưu vong nào không bị khủng hoảng về vấn đề bản sắc, không loay hoay tự hỏi mình là ai, không khát khao tự định nghĩa lại mình. Lịch sử lưu vong, ở một góc độ nào đó, có thể nói là lịch sử của những cuộc tìm kiếm bản sắc. Lịch sử văn học lưu vong, từ đó, cũng là lịch sử của những cuộc hành trình tìm kiếm bản sắc liên tục.
Cà Phê Đen III



Trả lời kèm Trích dẫn


Đánh dấu