Kết quả 41 đến 50 của 148
Chủ đề: Võ thuật
-
14-09-2011, 09:15 AM #41
Phả hệ nhân vật Vịnh Xuân quyền trên thế giới
• Ngũ Mai Sư thái (五 枚 師 太, Wumei Shitai, Ng Mui Si Tai) hay Ngũ Mai Đại Sư ( 五 梅 大 師, Wǔ Méi Dà Shī, Ng Mui Dai Si), tương truyền theo Diệp Chuẩn (con trưởng Diệp Vấn) đây là nhân vật không có thật
• Nghiêm Nhị (嚴 二, Yim Yee): cha của Nghiêm Vịnh Xuân, tương truyền theo Diệp Chuẩn (con trưởng Diệp Vấn) đây là nhân vật không có thật
Đời thứ I
Nghiêm Vịnh Xuân (嚴 詠 春, Yim Wing Chun): học trò của Ngũ Mai Sư thái, tương truyền theo Diệp Chuẩn (con trưởng Diệp Vấn) đây là nhân vật không có thật.
Đời thứ II
• Lương Bác Trù hay Lương Bác Thau ( 梁 博 儔 - Leung Bok Chau, Leung Bok Sui): tương truyền là học trò của Hồng Hy Quan (Hung Hei Gun), và cũng là chồng của Nghiêm Vịnh Xuân, truyền nhân đời thứ hai của Vịnh Xuân quyền
Đời thứ III
• Lương Lan Quế (梁 兰 桂, Leung Lan Kwai): truyền nhân đời thứ ba Vịnh Xuân, học trò đầu tiên của Lương Bác Trù.
• Than Thủ Ngũ - Trương Ngũ (摊 手五 - 张 五, Tan Sau Ng)
Đời thứ IV
• Lương Nhị Đệ (梁 二 娣, Leung Yee Tei): , bạn của Hoàng Hoa Bảo, truyền nhân đời thứ tư của Vịnh Xuân quyền
• Hoàng Hoa Bảo, (黄 华 宝, Wong Wah Bo): học trò của Lương Lan Quế (Leung Lan Kwai), truyền nhân đời thứ tư của Vịnh Xuân quyền
• Lục Cẩm hay Đại Hoa Diện Cẩm (陸 锦, 大 华 面 锦, Dai Fa Min Kam):
• Lục Lan Quan - 陸 兰官, San Kam ( Đại Hoa Diện Tân Cẩm - 大 华面 新 锦 ), đồng môn với Lục Cẩm
Đời thứ V
• Lương Tán (梁 赞, Leung Jan): học trò của Lương Nhị Đệ và Hoàng Hoa Bảo, truyền nhân đời thứ 5 của Vịnh Xuân quyền
• Phùng Thiếu Thanh (冯 少 青, Fung Siu Ching): , sư phụ của Nguyễn Tế Vân
• Hắc Bảo Toàn (霍 保 全, Fok Bo Chuen) hay Quách Bảo Toàn ( 郭 宝 全 )
Đời thứ VI
• Lương Bích (梁 壁, Leung Bik): con của Lương Tán, truyền nhân đời thứ 6 của Vịnh Xuân quyền, thầy của Nguyễn Tế Vân
• Trần Hoa Thuận hay Trảo Tiền Hoa (Chan Wah Shan, Chan Wah Shun - 陳 華 順 / 陈 顺 华 / 找 钱 华): học trò của Lương Tán, truyền nhân đời thứ 6 Vịnh Xuân quyền, thầy của Diệp Vấn
Đời thứ VII
• luong phien (梁翻, Leung faan): Con Lương Bích.Truyền nhân đời thứ 7.
• Nguyễn Tế Vân hay Nguyễn Tế Công (阮 济 云, Yuen Chai Wan): học trò của Phùng Thiếu Thanh và Lương Bích, truyền nhân đời thứ 7 Vịnh Xuân quyền, sư tổ của Vịnh Xuân quyền Việt Nam
• Nguyễn Kỳ Sơn (阮 其 山, Yuen Kay Shan): em ruột Nguyễn Tế Vân, sư tổ Vịnh Xuân quyền Quảng Châu
• Diệp Vấn (叶 问, Yip Man): học trò của Trần Hoa Thuận, truyền nhân đời thứ 7 Vịnh Xuân quyền, thầy của Lý Tiểu Long
• Ngô Tiểu Lỗ (吳 小 魯, Ng Siu Lo), học trò của Trần Hoa Thuận
• Ngô Trọng Tố (吳 仲 素, Ng Chung Sok): học trò của Trần Hoa Thuận, Nhị Sư huynh và cũng là người đã dạy Vịnh Xuân quyền cho của Diệp Vấn từ năm 13 tuổi tại Phật Sơn, Quảng Đông
• Trần Nhữ Miên (Chan Yu Min, Chan Yu-Gum - 陳 汝 錦): con trai của Trần Hoa Thuận
• Lôi Nhữ Tế (Lui Yu Jai, Lui Yu-Chai - 雷汝濟): học trò của Trần Hoa Thuận
Đời thứ VIII
• tran Thông (1984 - ) Học trò truyền nhân của Lương Khôi. Hiện đang mở võ đường Trần Thông ở Bình Thạnh và Tân Phú.
• Lương Đỉnh (梁 挺, Leung Ting, 1947 - ): học trò của Diệp Vấn
• Diệp Chuẩn (Yip Chun, Ip Chun - 葉 準, 1924 - ), con trai của Diệp Vấn
Đời thứ IX
Bành Nam (彭 南, Pang Nam, Pan Nam, 1909 – 1995) học trò đời thứ hai của Lôi Nhữ Tế và Trần Nhữ Miên
-
14-09-2011, 09:18 AM #42
Phả hệ nhân vật Vịnh Xuân quyền Việt Nam
Đời thứ I
Nguyễn Tế Vân hay Nguyễn Tế Công, (阮 济 云, Yuen Chai Wan): học trò của Phùng Thiếu Thanh và Lương Bích, truyền nhân đời thứ 7 Vịnh Xuân quyền, sư tổ của Vịnh Xuân quyền Việt Nam
Đời thứ II
• Ngô Sĩ Quý (1922-1997)
• Trần Thúc Tiển (1912-1980)
• Vũ Bá Quý (1912-1995)
• Trần Văn Phùng (1902 -1987)
• Hồ Hải Long (1917-1988)
-
14-09-2011, 09:26 AM #43
Trường kiều phát lực và đoản kiều phát lực nếu tập tốt thì sẽ cực kỳ hữu dụng khi chiến đấu.
Nôm na thì trường kiều phát lực là phát lực trên cự li(Kiều) dài, con đoản kiều phát lực là phát lực trên cự li gần (1inch).Mấu chốt để tập tốt hai dạng phát lực trên thì người tập phải tháo lỏng được các khớp, phát lực không gân cứng, ném tay ra như khăn ướt, chạm đích thì như quả chùy có dây xích sắt đằng sau.Bộ pháp như tiêu diêu, tấn pháp lúc thì trầm trên khinh dưới lúc lại trầm dưới khinh trên.Không nguyên tắc.Lần sửa cuối bởi kymoc, ngày 14-09-2011 lúc 09:30 AM.
-
14-09-2011, 09:32 AM #44
Bác tranbinh và thi_mich đừng nói với em là các bác tập võ công nhá
Điềm tĩnh trước gái xinh và không giật mình trước gái xấu
-
14-09-2011, 09:36 AM #45
-
14-09-2011, 10:04 AM #46
Về miền đất võ, Thuận Truyền - Vang danh những đường roi
Làng võ Bình Định là một nét độc đáo riêng trong truyền thống văn hóa Bình Định. Trong đó, xã Bình Thuận, huyện Tây Sơn vốn là một vùng quê khoai sắn, ấy vậy mà nơi đây lại vang danh bởi cái tên Thuận Truyền với lời truyền tụng: "Roi Thuận Truyền - quyền An Vinh..."
Phải lò dò vào những ngách nhỏ ngoằn ngoèo, vun đầy cát ở làng Hòa Mỹ, mới tìm được ngôi nhà xưa của võ sư Hồ Nhu (thường gọi là Hồ Ngạnh). Trước nhà, một mái hiên lợp tôn thông thống bốn phía. Võ sư Hồ Sừng, cháu nội võ sư Hồ Nhu, năm nay đã 65 tuổi, cho biết: "Tui mới cất năm ngoái để tập võ vào mùa mưa, còn như mùa hè thì tận dụng luôn cả hai khoảnh ruộng làm sân tập".
Từ huyền thoại làng võ
Roi Thuận Truyền xa nữa không rõ ông tổ là ai, nhưng võ sư Hồ Nhu được xem như một sư tổ. Ông sinh năm 1891, cha từng là một võ quan triều Nguyễn, mẹ người Huế, cũng là con nhà võ. Chuyện xưa kể, một lần do bị bức hiếp, Hồ Nhu đã đánh trả con trai một ông Hương Kiểm trong làng. Ông Hương Kiểm xách gậy đi tìm, đòi đánh ông. Mẹ ông đã giở ngay cán cuốc đánh ngược lên một thế. Vậy là cái gậy trong tay Hương Kiểm bay vù tận ngõ. Từ đó, Hồ Nhu bắt đầu theo mẹ luyện võ. Nhưng theo võ sư Hồ Sừng, hồi bé, võ sư Hồ Nhu chưa được mẹ dạy võ. Ông phải tìm học ở nhiều ông thầy khác, như học roi của Ba Đề, học nội công của Đội Sẻ, tiếp đến học roi của Hồ Khiêm và theo Quách Tấn - Quách Tạo thì ông còn được một tạo sĩ (đậu tiến sĩ võ) truyền dạy thêm. Khi đường roi đã cứng cáp vì kết hợp tinh hoa của nhiều thầy, thấy được, mẹ ông mới tinh truyền thêm. Đường roi càng trở nên thiên biến vạn hóa, sâu hiểm khôn lường.
Khoảng năm 1932, tiếng tăm ông vang dội khắp bốn tỉnh Nam, Ngãi, Bình, Phú, học trò đến thọ giáo rất đông. Quá 80 tuổi, Hồ Nhu vẫn còn thao diễn roi, đường roi vẫn cứng và đẹp. Con trai mất sớm, ông truyền nghề cho cháu nội, là võ sư Hồ Sừng hiện nay. Võ sư Hồ Sừng kể: "Bao giờ thâu nhận học trò, ông cũng thử trước rồi dạy sau. Học trò ông có Mười Mỹ, Đinh Văn Tuấn, Năm Tạo, Sáu Được... đều đã có danh có tiếng, trong xã thì có Lê Thành Viên, thường gọi Ba Hào, và Lê Bá Cừu, tức Sáu Dật. Mà yêu cầu của ông với học trò, kể cả con cháu trong nhà cũng vậy, cao lắm".
Năm nay đã 90 tuổi, võ sư Lê Thành Phiên (làng Đại Chí, xã Tây An) vẫn minh mẫn. Ký ức ông vẫn vẹn nguyên hình ảnh người thầy vóc người cao to, dạy học trò rất nghiêm: "Thầy dạy ngày ba buổi. Thầy dạy kỹ, nhưng trò phải tập cho tinh. Nhờ vậy nên tui học kể ra thì cũng hổng nhiều, đâu có 18 tháng, nhưng cũng được truyền dạy cơ bản". Lão võ sư có vẻ hơi buồn, chẳng là vài năm gần đây, tuổi cao, nên giỗ tổ chẳng thể lên nhà thầy.
* Đến đường roi bí truyền
Roi là một loại binh khí tiêu biểu của võ Bình Định. Roi làm bằng gỗ dẻo, mây già hoặc tre đặc, to nhỏ tùy theo bàn tay người sử dụng lớn, nhỏ. Nhiều võ đường ở Bình Định rất giỏi về roi như: Lâm Ngọc Phú, Bửu Thắng (An Nhơn); Hà Trọng Sơn, Phi Long Vịnh và phái võ ở chùa Long Phước (Tuy Phước); Phan Thọ (Tây Sơn)…
Người thầy dạy của võ sư Hồ Nhu là Hồ Khiêm với đường roi "lạc côn", cũng là một đường roi tuyệt kỹ. Rồi các đường roi như: "đâm so đũa", "roi đánh nghịch", "đá văng roi", "phá vây", "roi chiến"… đều là những bảo vật bí truyền của võ Bình Định.
ột bài roi gồm hai phần: lời thiệu và động tác. Lời thiệu thường là thể thơ, ca dao dân gian… Động tác là các đòn thế tấn công và phòng thủ theo các phách cơ bản như: bát, bắt, triệt, chận (nặng về thủ để triệt phá các đòn tấn công của đối phương); hoành, khắc, lắc, tém (vừa thủ vừa công). Thủ ở đây không có nghĩa thụ động, mà phải dùng các phách hợp lý để triệt tiêu đòn tấn công đối phương rồi ra đòn tiêu diệt đối phương. Hay có thể giả vờ trá bại, dụ đối phương vào thế. Có lúc phải dùng trừ công để thủ tức là khi đã trừ được các đòn tấn công của đối phương, phải thủ cho kín chặt, không cho đối phương ra đòn tấn công tiếp, rồi phán đoán nhanh xem đối phương phản ứng để có đối sách...
Mỗi môn phái ở Bình Định có các đòn roi bí truyền nhưng đường roi Thuận Truyền vang danh nhất. Cái bí truyền của những đường roi đã đi vào những câu chuyện truyền tụng, thật - hư lẫn lộn...( S/T )Lần sửa cuối bởi tranbinh, ngày 14-09-2011 lúc 10:08 AM.
-
Post Thanks / Like - 1 Thích, 0 Không thích
kymoc đã thích bài viết này
-
14-09-2011, 10:13 AM #47
-
14-09-2011, 10:30 AM #48Hạnh phúc không phải là đích đến mà là trên từng chặng đường đi..
-
14-09-2011, 10:34 AM #49
-
14-09-2011, 10:57 AM #50
Vịnh Xuân Quyền: Kiềm Dương Tấn
Kiềm dương tấn, còn gọi là Kiềm dương mã tự, Nhị tự kiềm dương mã là một thế tấn đặc thù của Vịnh Xuân Quyền, bao gồm hai dạng thức là chính thân kiềm dương và trắc thân kiềm dương.
Trong Vịnh Xuân Quyền, tấn pháp được áp dụng thường xuyên nguyên lý chiều cao của tấn tỷ lệ nghịch với độ vững trãi và tỷ lệ thuận với độ linh hoạt, theo đó tấn pháp càng thấp cơ thể càng vững nhưng tính linh hoạt lại giảm. Kiềm dương mã tự cũng không phải là ngoại lệ, việc tập luyện tấn pháp này không nhấn mạnh sự cố định một cao độ của người luyện tập, mà có thể linh động, kết hợp với những bài tập tấn ở nhiều cao độ khác nhau, cả ở những tư thế rất thấp tới mức cơ thể gần như ngồi trên mặt đất.
.
Tấn pháp kiềm dương, với chữ kiềm (鈐) tương đối dễ hiểu là “kìm”, “kẹp”, “giữ”. Nhưng chữ dương có vài cách hiểu khác nhau: “dương” (羊) với nghĩa là con dê, khi đó tấn sẽ được hiểu là thế “kẹp dê”, “giữ dê”. Theo huyền sử thì Ngũ Mai sư thái đã cho nàng Nghiêm Vịnh Xuân tập chăn dê và tắm cho các con dê bằng cách dùng hai chân kẹp chặt đầu và cổ con vật, từ đó sẽ rèn luyện được nội lực và tấn pháp trước khi bước vào tập võ (bộ phim Vịnh Xuân Quyền do các diễn viên Tạ Đình Phong, Hồng Kim Bảo và Nguyên Bưu đóng, diễn tả ý nghĩa này). Tuy nhiên, theo cách hiểu khác với chữ “dương” (陽) chỉ “mặt trời”, “dương tính”, “dương khí”, “đàn ông”, “bộ phận sinh dục của giống đực”, kiềm dương tấn là thế tấn duy nhất ở chính diện có đủ kín đáo, do đầu gối hơi khép vào trong và có thể nhanh chóng kẹp chặt hai đùi, để thủ thế và bảo vệ vững chắc trước những đòn tấn công vào hạ bộ, ít nhiều linh hoạt và hiệu quả hơn hẳn trung bình tấn. Đi xa hơn trong suy luận, một số người cho rằng kiềm dương ở đây nhằm mục đích luyện khí, mà luyện khí chủ yếu phải kiềm dương (tiết dục).
Chính thân kiềm dương
Chính thân kiềm dương còn được gọi là Chính thân kiềm dương mã tự, Nhị tự kiềm dương mã, tư thế gần giống với tấn chuẩn bị (lập tấn) của các môn sinh Taekwondo, Karatedo với khoảng cách hai gót chân đều vừa mức với chiều cao và bề ngang của người tập, thường bằng vai hoặc hơi lớn hơn một chút, hai bàn chân gần song song hình chữ nhị (二) với mũi chân hơi hướng vào trong. Hạ thấp trọng tâm và hơi bẻ cong chân vào để hai đầu gối có một khoảng cách tương đối nhỏ, bằng khoảng nắm tay của người tập. Cơ thể người tập hơi ngửa ra phía sau để giữ cho gót chân, cột sống và đầu được thẳng.
Do hai mũi bàn chân với ngón cái hơi xoay khép lại thành hình chữ bát (八), thế tấn này còn có thể được gọi là Bát tự kiềm dương (kiềm dương hình chữ bát). Nếu kéo dài chữ “bát” người tập sẽ có một tam giác. Ở đây có những nguyên tắc để xác định góc tạo thành đó là góc nhọn hay góc tù. Đưa chân người tập ra theo trục thẳng trước mặt cho đến khi chân nằm ngang và lấy điểm vuông góc với gót chân là đỉnh của tam giác.
Cần đứng đúng cách để để hai chân hướng vào đỉnh này.
Trong phần lớn các bài tập tại chỗ của Vịnh Xuân thường dùng chính thân kiềm dương, đặc biệt là sáo lộ đầu tiên Tiểu niêm đầu chỉ sử dụng duy nhất một thế tấn này. Tuy nhiên, trong thực tế chiến đấu ít khi môn sinh sử dụng thế tấn này mà nó thường được phản ứng nhanh sang thế tấn trắc thân kiềm dương, với dụng ý dẫn đòn của đối phương vào khoảng không và phản đòn theo nguyên lý “tá lực đả lực” (mượn sức đánh sức )
.
Trắc thân kiềm dương
Với ý nghĩa của chữ Trắc (側) là “mặt bên”, “bên cạnh”, “nghiêng” phản ánh đúng bản chất của thế tấn. Khi đứng ở chính thân kiềm dương, người tập xoay đều hai chân và thân sang một phía sao cho hai mũi chân song song hướng về phía chéo góc khoảng 45 độ, người tập sẽ chuyển sang thế tấn trắc thân kiềm dương. Thế tấn này ít nhiều giống trảo mã tấn của một số môn phái, nhưng không hướng các mũi bàn chân thẳng phía trước và cũng không nhón gót. Hai đầu gối khép vào nhau với khoảng cách giữa chúng vẫn được giữ như ở chính thân kiềm dương. Trọng lượng cơ thể dồn khoảng 70% lên chân sau và khoảng 30% ở chân trước. Khi hạ thấp tấn hơn, người tập cần duỗi chân trước ra phía trước với khoảng cách dài hơn
Môn phái Vịnh Xuân khởi phát từ miền Nam Trung Hoa, nơi mọi người thường dùng thuyền như một phương tiện vận chuyển chính, cho nên, các võ sư sáng tổ của Vịnh Xuân Quyền như Đại Hoa Diện Cẩm và các môn đồ của Hồng thuyền hội quán đã tập võ chủ yếu trên thuyền, nơi yêu cầu giữ thăng bằng trở thành cốt tử. Thế tấn chính thân kiềm dương và trắc thân kiềm dương được coi là phương cách tối ưu để giữ thăng bằng.
Chính thân kiềm dương tấn là thế tấn quan trọng bậc nhất của Vịnh Xuân Quyền, đi kèm với sáo lộ Tiểu niệm đầu như cơ bản công và cơ bản kỹ thuật, nó giúp người tập luyện ngay từ những ngày đầu tiên đến với môn phái đã luyện gân chân, làm lỏng và mạnh các khớp, tạo một chân đế vững chắc như mọc rễ vào đất để phục vụ tối đa cho sự thả lỏng phần trên (từ hông lên trở lên) theo nguyên tắc “thượng hư, hạ thực“. Tuy tấn nhấn mạnh vào yêu cầu trụ vững nên buộc phải giảm sự linh động, ít nhiều có thể cản trở cho sự phát huy lực từ trung tâm phát lực (hông eo), nhưng không cản trở đường vận hành của khí xuống chân, và vì vậy không làm giảm đáng kể lực thông xuống chân khi tập tấn tĩnh. Đầu gối cong vào cũng là một cách tiết kiệm sức lực tối đa khi chân giữ trọng lượng cơ thể của người tập. Bởi vậy, chính thân kiềm dương nếu được tập đúng, sau những khó khăn ban đầu, người tập ngày càng có được sự linh hoạt đặc biệt, có thể đá bất kỳ lúc nào mà không cần chuẩn bị, và cú đá sẽ có toàn bộ sức của thân thể khi tấn công vào trung điểm của địch thủ. Thế tấn này cũng được dùng để thủ một cách hữu hiệu.
Trắc thân kiềm dương là thế tấn linh hoạt hơn Chính thân kiềm dương, rất thuận lợi cho tấn công thần tốc mà vẫn có thể phòng thủ kín đáo, vì vậy, trong Vịnh Xuân Quyền thế tấn này được ứng dụng chủ yếu khi thực chiếnS/T )
Lần sửa cuối bởi tranbinh, ngày 14-09-2011 lúc 11:27 AM.
Võ thuật
Đánh dấu