Hôm nay uống rượu say tít mù .Chợt nhớ cô Hạnh đang ngồi chờ ông kiemgo đi đánh bạc về .Tìm một bài hay hay đầu năm cô đọc cho đỡ buồn .Mong cô có tí phút giây thoải mái với khí hậu lạnh lùng miền Tây Bắc




Bưu thiếp Bắc Nam.

Mấy tuần trước, tôi ngạc nhiên, nhận được gói bưu phẩm có hai cái găng tay len và dòng chữ viết nắn nót “From the bottom of the sender’s heart: Wish you warmth! – Từ đáy lòng, chúc anh giữ cho ấm” vào đúng những ngày đông băng giá -15 oC giữa DC. Có lẽ đến cả thế kỷ mới thấy có người viết nhắn bằng mẩu giấy cho mình, lão Cua già cứ nghĩ mãi, chẳng hiểu ai gửi, cảm ơn trên mạng vậy


Nhớ lần đi công tác Singapore gần vào dịp cuối năm, ăn sáng ở khách sạn Crown Plaza trong sân bay Changi, tôi thấy một thiếu phụ phương tây, dáng quí phái, hý hoáy viết những bưu ảnh. Lâu lắm tôi mới thấy chuyện lạ này. Tôi hỏi chị, sao không dùng email cho tiện. Chị cười, không có thứ IT nào có thể thay thế tình người được viết từ ngòi bút.

Dễ đến mấy chục năm, tôi không còn viết thư tay hay bưu ảnh nữa. Một phần do yên bề gia thất, phần do công việc, một phần do internet với email, chatting, đã làm cả nhân loại trong đó có cả tôi, quên đi những bức thư viết bằng mực trên trang giấy trắng.

Thời của cha mẹ tôi sống xuyên thế kỷ trước thì thư gửi qua bưu điện là thứ duy nhất để trao đổi với người ở xa. Với giá vài xu đến 1 hào 2 một cái tem và phong bì, nhưng cũng vài tháng nhận một lần. Đó là thứ tình cảm vô giá, khó mà đong đếm, mang lại niềm vui cho cả người không biết chữ.

Hồi xưa (1960), cạnh nhà tôi là cái phòng thu thuế của huyện Gia Khánh (nay là Hoa Lư) ở ngã ba sông Chanh và sông Hoàng Long. Có anh Thiệu, người Nho Quan, và anh Lê Văn Rập, người Bình Định, chuyên thu thuế dân buôn bán trên sông.

Cha mẹ tôi rất thân với các anh nên đi đâu công tác xa, hai anh đều viết thư rất dài, kể chuyện đủ thứ trên đời. Anh Rập mê chị Tuyết nên viết trên giấy pơ luya hồng, chữ nắn nót, toàn xưng con với hai bác, dù anh chỉ kém cha mẹ tôi khoảng chục tuổi. Anh hay cho chúng tôi xem những bưu thiếp Bắc Nam viết ngỏ để nhà dây thép (bưu điện) kiểm duyệt. Một bên là người gửi, bên kia là người nhận “Em và các con vẫn ổn. Mong ngày thống nhất”.

Anh Thiệu viết trên giấy học trò kẻ ly, cũng chỉ chào anh chị, nhắc cho các cháu học, nhất là thằng Thế đốt đống rơm, nó có vẻ thông minh nhất nhà. Đừng bắt chúng thôi học mà tội nghiệp.

Cả nhà thích nhất là thư vào dịp tết, các anh hay gửi có cái bưu ảnh có hoa đào, đôi khi là tháp Rùa vẽ trên vải lụa, phía sau là mấy chữ chúc mừng năm mới, rất sang trọng. Chị Tuyết lấy tất các bưu ảnh, giấu đi, xem một mình.

Bố mẹ tôi cũng chỉ viết được vài câu “Kính gửi anh Rập, anh Thiệu. Chúc tết các anh. Nhớ về ăn tết với gia đình”, rồi bảo con dán tem gửi đi. Bố tôi cất kỹ những lá thư trong cái ống bương cùng với giấy khen của trường của các con, kể cả giấy khai sinh, gác trên mái nhà, sợ chuột gặm. Lúc rỗi, ông già lại mang ra lẩm nhẩm đánh vần những bức thư.

Dì Nhuận là em của mẹ tôi, chả hiểu sao lại lấy chú Nhuận ở mãi tận Sơn Tây. Những năm 1960, nhà chú dì ở Hà Nội, tôi chẳng có dịp ra đó bao giờ. Nghe nói chú dì ở phố Khâm Thiên. Sau này sơ tán về Hưng Yên (1969), tôi ra thăm. Qua Hà Nội lần đầu, biết được ánh đèn điện sáng choang và tầu điện leng keng chỗ ga Hàng Cỏ.

Chú dì ăn lương nhà nước, nuôi bốn đứa em ăn học, ít khi đủ tiền về quê. Mỗi lần về thăm các bác, các cậu, các mợ, đi khắp làng trên xóm dưới, chỉ cần quà cho mỗi người một gói bích qui và một đồng mừng tuổi, thì cả năm lương tiết kiệm cũng đi tong. Sau này lớn lên, đi công tác nhà nước, lương ba cọc ba đồng, tôi mới thấm hiểu.

Những năm 1960-1970, cứ gần đến Tết, mẹ tôi lại ngóng thư dì Nhuận. Cứ vào dịp năm mới, thế nào chú Nhuận cũng viết lá thư dài “Vợ chồng em cũng tằn tiện qua ngày, cháu Bình đã lớn, sắp vào cấp 3. Cháu Sơn dễ phải đi bộ đội.” Rồi cuối thư, chú không quên “gửi lời nhớ nhung, yêu thương anh chị và các cháu”.

Mẹ bắt tôi đọc đi đọc lại hàng chục lần cho cả nhà nghe, rồi cụ thở dài, nghe chữ “tằn tiện” chắc làm cán bộ cũng nghèo, chả hiểu chú dì có bánh chưng cho các cháu ăn không. Cụ lấy cái cơi trầu, đựng tất cả thư từ của chú dì vào đó.

Sau này tôi đi nước ngoài, tháng tháng viết thư cho cha mẹ. Thư đầu dài, sau ngắn dần, rồi chỉ còn bưu ảnh vài chữ, con đến biên giới nước Tiệp, con đang ở Thiên An Môn, con đang đi tầu điện ngầm Moscow. Bố mẹ giữ tất cả, cho vào một cái hòm gỗ và khóa lại. Thỉnh thoảng nhớ con lại mang ra lẩm nhẩm. Cụ dặn, lần sau con viết chữ to vào nhé, dạo này mắt bố kém rồi, mẹ cũng không tinh nữa.

Anh Kế đi bộ đội năm 1968 khi mới 17,5 tuổi. Cha mẹ tiễn con, chỉ dặn được mỗi một câu, con đi nhớ viết thư về nhà, đừng để cha mẹ mong. Những tháng đầu, tuần nào cũng có thư, rồi anh còn về thăm bố mẹ trước khi đi chiến trường B. Trông anh cao lớn đẹp trai, cả nhà rất vui. Nhưng nghĩ anh đi vào chiến trường, chẳng biết thế nào.

Còn nhớ đúng vào dịp đầu xuân như thế này, anh Lâm và tôi đi gặp anh đóng quân ở nông trường Đồng Dao, cách nhà 30km. Hồi đó phải đi bộ mới tới nơi. Trông anh mũ xanh, sao đỏ trên mũ, quần áo xanh, vác AK, rõ là người lính chững chạc.

Nắm tay em, anh chỉ dặn mỗi một câu, em nhớ ở nhà học hành, đi Nam không biết thế nào.

Chỗ nào dừng chân nơi đóng quân, anh cũng gửi thư về. Mẹ khóc, thế là thằng Kế vẫn còn. Cho tới một hôm, lá thư cuối cùng được gửi từ Quảng Bình. Từ đó, không còn lá thư nào nữa. Người mẹ ấy đợi thư con cho đến lúc nhắm mắt, mong có sự kỳ diệu nào đó, con bà vẫn còn sống.

Dù biết tin báo tử của anh trai, nhưng mẹ tôi cứ mở thư con ra đọc hàng đêm dưới ngọn đèn dầu trong ngôi nhà ở mom sông, khóc cho đến lúc không còn nước mắt. Một lần về quê, tôi đem đốt hết thư từ trong cái hòm gỗ, cả tập thư của anh Kế, của chú gì và của mọi người, chỉ mong cụ nguôi ngoai nỗi nhớ con. Bây giờ thấy tiếc vô cùng những kỷ niệm.

Nhớ khi tết về, mẹ tôi lại nhắc, anh nối điện thoại cho mẹ nói chuyện với chú dì Nhuận, hiện ở Vũng Tầu. Rồi lâu lâu cụ lại hỏi thăm, chẳng hiểu anh Thiệu và anh Rập có còn sống hay chết rồi. Sao con lại đốt thư anh Kế, mẹ nhớ nó lắm. Bây giờ chẳng còn ai viết thư cho mẹ nữa nhỉ, mẹ vẫn đọc được mà, ngày tết không có thư chú dì Nhuận, thấy buồn hơn.



Thư có từ thời Hy Lạp, Ấn Độ, Roma hay Trung Hoa cổ đại cách đây mấy ngàn năm, viết trên giấy, trên đá, đô khi là thẻ tre, gửi theo đường người đưa thư đi bộ, bằng ngựa, bằng xe hơi và cả máy bay, có cả trong trường ca Iliad và Homer ở thế kỷ 8 trước Công nguyên.

Thời Internet, chỉ trong giây lát, kiểu thư đã khác. Vài cú gõ bàn phím, bạn đã có một bức thư gửi đi cho người thương ở bên kia trái đất. Chưa kể Yahoo Messenger, Google Chat, Windows Chat giúp cho hàng tỷ người trên hành tinh xích lại gần nhau sau cái nhấp chuột.

Hôm nay ngồi ở văn phòng vắng lặng khác thường, đúng ngày mồng một Tết ở DC, tự nhiên tôi thấy buồn khác lạ. Hai thân không còn trên trái đất để mong thư của người ở xa, chú dì tôi đã gần đất xa trời, chắc chẳng còn nhớ những bức thư xưa.

Tôi băn khoản tự hỏi, không biết xuân này có bao nhiêu bạn nhận được những bức thư qua đường bưu điện thay vì những email nội dung giống nhau. Xã hội hiện đại với internet toàn cầu đã cuốn trôi biết bao giá trị mà lẽ ra cần phải giữ lại.

Đọc kỹ tờ giấy nhỏ hồng hồng, có vài chữ viết “From the bottom of the heart…”, thấy ấm lòng giữa băng tuyết DC. Và tự nhiên tôi tin, dù có Yahoo, email nhanh trong chốc lát, skype, video trực tiếp, hay bao tiện ích khác mà thế giới ảo mang lại, thì không có thứ IT nào có thể thay thế được những lá thư tay, một thời là mối liên kết ruột thịt Bắc Nam và tình người của những người nông dân Việt ít chữ ở thế kỷ trước, đúng như người phụ nữ quí phái phương Tây ở sân bay Changi đã nói.